Thứ Hai, 23 tháng 3, 2020


MỤC LỤC MỚI BỔ SUNG

Để tiện cho việc tìm kiếm trên trang blog, tôi xin liệt kê các thể loại bài dưới đây cho các bạn độc giả:

A. CÁC CON ĐƯỜNG:
  21/3/2013
21. Đường Trần Hưng Đạo    16 – 18- 20 – 23 – 24 - 25/7/2015
29. HẼM CÂY ĐIỆP ĐA KAO   13/1/2017

I. Các bài viết liên quan khác:
6. Trả lại em yêu 13/5/2015
6. SÀI GÒN CẢNH CŨ ĐƯỜNG XƯA  từ 18/2/2018 đến 27/5/2018
20.  Dinh-thự-thủ-tướng-và-vị-thủ-tướng-bị. LÃNG QUÊN Ở SÀI GÒN  1/3/2020

II. Bài viết của Nguyễn Đức Hiệp:

III. Bài viết của Tim Doling:    

IV. Chuyên đề:
 Bài này được trích dịch từ chuyên đề GUIDE HISTORI Bắt đầu từ 26/4/2017 đến 22/6/2017

B. ĐỊA ĐIỂM – ĐỊA DANH – QUẢNG TRƯỜNG – CÔNG TRÌNH – TƯỢNG ĐÀI:
9. THẢO CẦM VIÊN SÀI GÒN  26/11/2014
10. LĂNG CHA CẢ    5/12/2014
11. DINH ĐỘC LẬP   9/12/2014
12. DINH GIA LONG  17/12/2014
15. Tân Định Xóm Tôi 22/1/2015
16. Nhớ Về Tân Định  22/1/2015
17. CHỢ BẾN THÀNH 18/2/2015
18. NHÀ THỜ ĐỨC BÀ  24/2/2015
19. XA LỘ BIÊN HÒA  27/2/2015 – 1/3/2015
21. Cư xá Chu Mạnh   5/3/2015.
23. THEO DÒNG THỜI GIAN    11/4/2015
33. Chợ Lớn Lịch sử địa lý, kinh tế và văn hóa   tù 6/9/2015 đến 10/9/2015
92. Khu tứ giác Eden  10/9/2017
95. Hãng dĩa Lê Văn Tài:  27/9/2017
100. TRẠI DAVIS  15/11/2017
103. CITÉ–  CƯ XÁ - CHUNG CƯ  18/12/2017
110. 100 NĂM PHI TRƯỜNG TÂN SƠN NHẤT từ 13/3/2018 đến 31/3/2018
119. Hội Dục Anh  4/7/2018
127. Bài về Thảo cầm viên 17/10/2018
128. CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG CẢNG SÀI GÒN – CHỢ LỚN (NAM K..    từ 19/12/20188 đến 26/12/2018.
130. Căn cứ không quân Tân Sơn Nhứt   9/2/2019 ĐẾN 2/3/2019

         131. U.S. Military Assistance Command, Vietnam (MACV)  13/3/2019

         132. ‘Làng biệt thự’ quận 3  10/4/2019


         135. NHỮNG GHI CHÚ THÚ VỊ VỀ PHÚ NHUẬN  22/8/2019
         136. Bài BẾN TẮM NGỰA  15/9/2019

C. CÁC TRƯỜNG HỌC:
9. 140 năm trên làng Xuân Hòa có một ngô itrường Sa. từ 16/3/2015 đến  27/3/2015
14. Khảo luận về nền học chính tại Nam Kỳ từ 24/1/2016 đến 27/1/2016

D. CÁC ĐỀ TÀI KHÁC:
2. Dưới đây là bài báo của Sài Gòn Tiếp Thị...về “giá trị của thành phố Sài Gòn hiện nay”  11/3/2013
5. Thờiđại vi tính   10/5/2013
6.  Khi lướt trên mạng mấy năm trước tôi đã bắt gặp b... Sài Gòn Khung trời quá nhiều kỹ niệm  27/5/2013
10. PHIM ẢNH VÀ RẠP HÁT MỘT THỜI    13/3/2014                    
19. LAST DAYS IN VIETNAM     8/2/2015
23. Cư xá Chu Mạnh Trinh   5/3/2015
34. Nhắm mắt và níu lại  28/6/2015
36. Lời cảm ơn còn nợ  7/11/2015
40. Một thời xe xích lô máy   21/2/2016

E. BÀI VIẾT VỀ TTGD LÊ QUÝ ĐÔN:
1. Lớp đệ thất   26/8/2010
3. KÝ ỨC CÒN LẠI  23/5/2011
28.. Một thời hướng đạo  25/2/2013
43. Ký ức những mùa mưa  24/6/2013
44. NHỮNG LỜI TRI ÂN  4/7/2013
53. HÌNH ẢNH MỘT THỜI XA XƯA     26/8/2013
57. Đây là bài của bạn Đạt đăng trên http://vanghe.blog...  21/9/2013
76. Dòng sông tuổi thơ    8/4/2014
78. MÀU HOA PHƯỢNG   20/5/2014
87. GIỚI THIỆU 5/1/2015
92. TỜ ĐẶC SAN NGÀY NÀO  8/5/2015
95. MỘT VÀI HÌNH ẢNH  29/12/2015   


Thứ Hai, 9 tháng 3, 2020

NGÀY ẤY VÀ BÂY GIỜ


1531. Hotel Capitol BEQ ngày xưa giờ không còn.


1532. Giao lộ Cộng Hòa - Trần Hưng Đạo xưa và nay.


1533. Cây xăng góc Lê Văn Duyệt - Phan Đình Phùng xưa và nay.


1534. Cây xăng góc Võ Di Nguy - Chi Lăng xưa và nay.


1535. Biệt thư Cao ủy Pháp tại Đông Dương Số 152 Công Lý xưa và nay.


1536. Góc Đồng Khánh - Phan Phú Tiên xưa và nay.


1537. Góc Đồng Khánh - Tổng Đốc Phương xưa và nay.


1538. Chợ Thủ Đức 1960 và hiện nay.


1539. Đại lộ Trần Hưng Đạo nhìn về góc Huỳnh Mẫn Đạt xưa và nay.


1540. Chợ Thủ Đức 1965 và hiện nay.


Nguồn Tim Doling, Trung Ngo 

Chủ Nhật, 1 tháng 3, 2020


          

  DINH THƯ THỦ TƯỚNG VÀ VỊ THỦ TƯỚNG
BỊ LÃNG QUÊN Ở SÀI GÒN

                                                                              BRETT REILLY - 14 JUN, 2019





89 ĐƯỜNG CÁCH MẠNG THÁNG 8 [LÊ VĂN DUYỆT SG], VILLA CỦA BÁC SĨ NGUYỄN VĂN THINH VÀ LÀ TRỤ SỞ KHÔNG CHÍNH THỨC CỦA CỘNG HÒA NAM KỲ NĂM 1946. (ẢNH: TÁC GIẢ)



Cuối một đêm tháng 11 năm 1946, chủ nhân của biệt thự ở số 89 đường Verdun đã viết một lá thư cuối cùng. Sau đó, ông ta buộc một cái thòng lọng vào rui nhà phía sau phòng ngủ trên lầu.
Vụ tự sát của Nguyễn Văn Thịnh tạo thành khoảng trống cho cả hai, dinh thư và chức vụ thủ tướng của Nam Kỳ cộng hòa (*). Từ tháng 6 đến tháng 11 năm đó, biệt thự vừa là nhà của ông vừa là trụ sở của chánh phủ của nhà nước xấu số do Pháp bảo trợ này. Các quan chức Pháp đã từ chối ông sử dụng dinh Norodom, trung tâm của nhà nước thuộc địa và sau đó là dinh tổng thống Nam Việt Nam, đổi tên thành điểm thu hút khách du lịch hiện tại là Dinh Độc Lập. Nhưng dinh thự thủ tướng đầu tiên của Sài Gòn vẫn còn tồn tại đến ngày nay, không có người ở và không có người trông coi, nằm ở số 89 trên đường được đổi tên thành Cách mạng Tháng Tám [Lê Văn Duyệt N.D.].
Ngày nay, Việt Nam nói với du khách rằng Dinh Độc Lập là nơi tưởng niệm sự lãnh đạo của đảng cộng sản trong việc hiện thực khát vọng độc lập của Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, biệt thự ở đường 89 tháng 8 lại là một tượng đài đối nghịch, là sự đa dạng lãnh đạo ở Việt Nam, xã hội thuộc địa muộn và những khát vọng thay thế cho sự phát triển chánh trị mà nhiều người Việt Nam ủng hộ.
Nguyễn Văn Thịnh đã xem Nam Kỳ Cộng hòa là một phương tiện để chống lại cuộc cách mạng do Việt Minh lãnh đạo vào tháng 8 năm 1945, mà ông đánh giá là cực đoan và vô trật tự, và để ngăn chặn Pháp tái thuộc địa Nam Kỳ sau Thế chiến II. Ông và các bộ trưởng của mình đã công khai ủng hộ sự hợp tác của Pháp-Việt, như một phương tiện để thiết lập một nền dân chủ ở Nam Kỳ trong khi tìm kiếm độc lập cho Việt Nam dưới một hệ thống chánh trị ôn hòa hơn Việt Minh.
Nguyễn Văn Thịnh đã có lúc là một người chống thực dân và có lúc là phản cách mạng, nhưng lại là một người cộng hòa trên tất cả. Đó là những điểm không phù hợp trong thời điểm thống trị bởi thực dân hay người cách mạng. Các quan chức Pháp đã nhìn thấy một mối đe dọa đối với đặc quyền của họ và âm mưu loại bỏ ông. Còn Việt Minh cáo buộc ông là một con rối của Pháp vì đã hợp tác thành lập một nhà nước Nam Kỳ, làm suy yếu yêu sách của Việt Minh đối với một quốc gia thống nhứt. Cái chết của ông là một sự thừa nhận rằng Nam Kỳ Cộng hòa và sự theo đuổi suốt đời của ông đối với việc cải cách cộng hòa trong xã hội thực dân ở Việt Nam đã thất bại.

Chánh trị thuộc địa


Dr Nguyễn Văn Thinh in 1946. (Photo: Tiểu sử Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh/Biography of Dr. Nguyễn Văn Thinh [Saigon: Imprimerie de l’Union, 1947])
Nguyễn Văn Thịnh không phải - là người được tưởng nhớ ngày hôm nay-, là một con rối của người Pháp hay một người được sự ủng hộ đơn giản của giới tinh hoa thuộc địa. Sau khi phục vụ trong Thế chiến I, bác sĩ Nguyễn Văn Thịnh đã hoàn thành công việc thực tập tại các bệnh viện ở Paris. Tại đây, ông và Hồ Chí Minh quen biết nhau, và hồ sơ của cảnh sát Pháp cho thấy ông đáp ứng cho tương lai của mình, vị thủ tướng đầy cạnh tranh, với các vật tư y tế cho các cựu chiến binh Việt Nam tại Pháp. Ở cả Paris và Sài Gòn, Nguyễn Văn Thịnh là bạn, là sinh viên, và là bác sĩ riêng của học giả chống thực dân Phan Châu Trinh cho đến khi ông này chết năm 1926. Trong khi Hồ Chí Minh sớm được đi đào tạo ở Moscow, ông vẫn tiếp tục tuân thủ lý thuyết của Phan Châu Trinh là “Pháp – Việt đề huề”. Bằng cách hợp tác với Pháp, Nguyễn Văn Thịnh và Phan Châu Trinh đã hình dung cách thay đổi chủ nghĩa thực dân từ bên trong để lật đổ cùng lúc cả chế độ quân chủ Việt Nam và chế độ thực dân Pháp, thiết lập một nền dân chủ ở thuộc địa rồi cuối cùng đưa đến độc lập.
Khi trở về thuộc địa Nam Kỳ của Pháp, Nguyễn Văn Thịnh đã hành động theo những nguyên tắc đó với tư cách là thành viên được bầu của Hội đồng Thuộc địa. Ông và các đồng minh chánh trị của mình ủng hộ các quốc gia Đông Dương có quyền tự trị về kinh tế và chánh trị song vẫn ràng buộc với Pháp bằng một mối quan hệ hữu hảo. Ông tìm cách tăng số đại diện người Việt trong các tổ chức hành chánh và chánh trị. Trong thời gian rảnh rỗi, ông công bố thông tin y tế châu Âu bằng các văn bản tiếng Việt. Ông là một người làm việc tự do tích cực, và mặc dù là một chủ đất, ông đã ủng hộ việc giảm gánh nặng thuế cho nông dân và tố cáo các thành viên Hội đồng cấp cao là thỏa hiệp lợi ích thương mại.
Đương thời, ông là một chánh trị gia tiến bộ. Người theo phái Trotsky hàng đầu ở Sài Gòn, Tạ Thu Thâu, làm việc với Nguyễn Văn Thịnh để đòi cải cách thuộc địa. Những người Cộng sản phái Stalin đã cố gắng thành lập một mặt trận đại chúng với Nguyễn Văn Thịnh, gọi là Đảng Dân chủ Đông Dương vào cuối những năm 1930, báo cáo với Moscow rằng họ là những nhà tư bản tiến bộ, ủng hộ cải cách triệt để / tiến bộ.

Cách mạng tháng Tám
Đối với Nguyễn Văn Thịnh và nhiều người khác, việc chiếm giữ quyền lực của Việt Minh Minh vào tháng 8 năm 1945 cảm thấy không có nhiều thời gian cho việc giải phóng hơn là trong những bạo lực và rối loạn. Trong số những người bị Việt Minh xử tử có đồng nghiệp và bạn bè của bác sĩ (ông). Sau đó, ông theo dõi các lực lượng Pháp, bị Nhật Bản thay thế trong chiến tranh, trở lại vào tháng 9 năm 1945 và đẩy lùi mạnh mẽ Việt Minh khỏi các thành phố Nam Kỳ để tái chiếm thuộc địa cũ của họ.
Đến đầu năm 1946, Nguyễn Văn Thịnh bắt đầu ủng hộ công khai cho sự hồi sinh hợp tác Pháp-Việt và liên đoàn Đông Dương, với mỗi ba khu vực của Việt Nam (Nam Kỳ, An Nam và Bắc Kỳ) có chánh quyền cộng hòa tự trị của riêng mình giống như hiện trạng của Úc và Canada trong Cộng đồng Anh. Ông đã xây dựng dựa trên những lời hứa mà Charles de Gaulle đã đưa ra cho một Liên minh Pháp mới vào năm 1945. Nhưng trên thực tế, các quan chức Pháp đã tìm cách vô hiệu hóa bất đồng chính kiến và điều hành một chánh quyền liên bang thuộc địa mới trên toàn Đông Dương, hủy bỏ yêu sách của Việt Minh về một nhà nước Việt Nam thống nhất. Các thuộc địa Pháp tương tự muốn biến Nam Kỳ thành một khu vực trong Liên minh Pháp, biến nó thành đất Pháp chịu sự cai trị của Pháp. Đối với họ, Nguyễn Văn Thịnh dường như là cộng tác viên hoàn hảo. Nam Kỳ Cộng hòa xuất hiện giống như một cổ xe hoàn hảo.

Nam Kỳ Cộng hòa: ly khai hay thống nhất?



·         Quang cảnh lễ nhậm chức của Chính phủ Nam Kỳ với các thành viên Việt Nam của Lực lượng Vệ binh Cộng hòa bên dưới một lá cờ Pháp và cờ vàng Cộng hòa với ba sọc xanh. Bưu điện trung tâm Sài Gòn ở phần nền. (Ảnh: Tân Việt [Sài Gòn], 1946)


Đầu năm 1946, Toàn quyền Pháp Thierry d’ Argenlieu đã bổ nhiệm một số người Việt Nam và Pháp vào một Hội đồng Nam Kỳ, sau đó bầu ông Nguyễn Văn Thịnh làm thủ tướng nước Nam Kỳ Cộng hòa. Những người Cộng hòa dành được sự ủng hộ hạn chế từ những người bị vỡ mộng bởi bạo lực và rối loạn của Cách mạng Tháng Tám hoặc các nhân vật phái Stalin của giới lãnh đạo Việt Minh.
Về phần mình, Nguyễn Văn Thịnh đã duy trì thái độ của nhà kỹ trị và hạn chế các buổi diễn thuyết chánh trị. Không thể công khai tố cáo chủ nghĩa thực dân Pháp hoặc ủng hộ một nhà nước Việt Nam thống nhất, ông chỉ có khả năng tuyển dụng các nhân vật có tuổi hoặc bảo thủ, như chánh trị gia thời thuộc địa Nguyễn Phú Khải và tiểu thuyết gia nổi tiếng Hồ Biểu Chánh. Những người khác, bao gồm bạn của ông là bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng, về sau là Bộ trưởng Bộ Y tế trong chánh phủ của Hồ Chí Minh, đã từ chối lời đề nghị của ông và cảnh báo: “Các ông đang đi ngược lại lịch sử, xin hãy xem xét lại”.
Về công khai, Nguyễn Văn Thịnh đã tuân thủ phương châm hợp tác của “Pháp-Việt đề huề” để bảo đảm cho ông ta có được sự hỗ trợ từ chánh quyền thực dân Pháp. Tuy nhiên, về riêng tư, ông tin rằng mình có thể đạt được mục đích tương tự như các nhà cách mạng dân tộc Việt Nam mà không cần bạo lực cái thứ mà ông ghê tởm. Khi các thành viên của Việt Minh kêu gọi ông với cương lãnh của họ, Nguyễn Văn Thịnh trả lời: Tôi đồng ý với chánh sách của quý vị. Nhưng tôi không thích phương pháp và hành động của quý vị. Ông giải thích sự cần thiết của việc hợp tác với Pháp khi nói chuyện với biên tập viên của một tờ báo chuyên phê phán nền Cộng hòa: “Ngày nay, chúng ta chỉ đơn giản chấp nhận một trong hai giải pháp. Hoặc là chúng tôi là bộ phận [như một thuộc địa của Pháp] hoặc chúng tôi chấp nhận quyền tự trị với một chánh phủ tách ra khỏi chánh quyền Hà Nội. Nền Cộng hòa, theo ông giải thích, mặc dù chưa đạt được hoàn toàn độc lập và tự do thống nhứt, nhưng vẫn tốt hơn là trở thành một bộ phận”.
Các nhân viên an ninh làm công việc gián điệp đã báo cáo rằng Nguyễn Văn Thịnh đã nói với nội các của mình phương châm; “không bán rẻ Nam kỳ cho người Pháp” Một nguồn tin khác vẫn báo cáo rằng thủ tướng dự định là “ Một Hồ Chí Minh ở phía Nam”, trước tiên giành được độc lập cho Nam Kỳ, sau đó tìm cách hợp nhất cả ba khu vực Việt Nam trong một liên đoàn gồm các nghị viện địa phương và quốc gia, nơi quyền bầu cử sẽ phổ biến cho cả nam và nữ

Nền Cộng hòa và các đối thủ.
Đối với Việt Minh, Nguyễn Văn Thịnh và nền Cộng hòa của ông được xem là cộng tác với Pháp và là các mối đe dọa đối với yêu sách chủ quyền của họ. Nhà nước đối thủ này (Việt Minh) đã kết án tử hình ông vì tội phản quốc và cố gắng thực hiện bản án trong ba lần ám sát thất bại. Việt Minh đã thành công trong việc ám sát một thành viên người Việt của Hội đồng Nam Kỳ và các nhà văn tại một số tờ báo Sài Gòn ủng hộ nền Cộng hòa.
Các quan chức Pháp đã chứng minh là họ là một đối thủ đáng gờm với Nguyễn Văn Thịnh. Ngay sau lễ tuyên bố nền Cộng hòa vào tháng 6, Toàn quyền d’Argenlieu và cố vấn chính trị Jean Cédile bắt đầu nhận ra rằng Nguyễn Văn Thịnh đã tìm kiếm một nhà nước độc lập thực sự. Cédile đã xúc phạm Nguyễn Văn Thịnh như gọi ông là “ một kẻ ti tiện vô trật tự”, phàn nàn về sự thù địch người Pháp của ông,  và đã từ chối ký một thỏa thuận lập thành điều lệ kiểm soát người Pháp đối với nền Cộng hòa. Trong suốt mùa hè, Cédile đã ngăn chặn một cách có hệ thống những nỗ lực của thủ tướng về việc đạt được sự viện trợ và tư vấn chuyên môn của Mỹ và Anh.


Nguyễn Văn Thịnh ngồi tại bàn làm việc năm 1946. (Ảnh: Tân Việt 1946)

Thủ tướng cũng đấu tranh với 14 thành viên người Pháp của Hội đồng Nam Kỳ (có 28 người Việt Nam), được bổ nhiệm bởi d’Argenlieu. Đến tháng 9, người Pháp đã chống lại nội các của Nguyễn Văn Thịnh. Họ cáo buộc các thành viên nội các ủng hộ Việt Minh và phá hoại chủ quyền của Pháp. Một thành viên người Pháp tuyên bố tại một cuộc họp của hội đồng rằng, nên “ưu tiên đàm phán với Hồ Chí Minh” hơn là với chính quyền Nguyễn Văn Thịnh. Sự tức giận của họ phù hợp với Cédile, người đã nói với d’Argenlieu rằng đã đến lúc dàn xếp thủ tướng thất bại này.
Các thành viên Hội đồng Việt Nam cũng trở nên thiếu kiên nhẫn với sự lãnh đạo của nền Cộng hòa. Họ yêu cầu đàn áp các tờ báo và tạp chí ủng hộ Việt Minh. Thay vào đó, nền Cộng hòa đã chọn không thực thi kiểm duyệt báo chí như nhà nước thực dân đã thực hiện, và các đối tác Việt Minh tiếp tục ra báo. Nguyễn Văn Thịnh và phó thủ tướng của ông nhấn mạnh rằng một nền báo chí tự do là cần thiết trong một nền dân chủ. “Sự thật luôn luôn chiến thắng” họ đáp lại. Họ cam kết sẽ dành được sự ủng hộ của người dân thông qua hành động của họ. Mặc dù có các khuyết điểm, nền Cộng hòa vẫn giám sát thời đại mà người Việt Nam được hưởng các quyền tự do báo chí lớn nhất trước giờ.
Tuy nhiên, đến tháng 11, nền Cộng hòa đã không thể hoạt động; sự chống đối của viên chức Pháp, của Việt Minh cùng các cảm tình viên của họ và các thành viên Hội đồng yêu cầu hành động quyết liệt hơn. Tại một phiên họp của Hội đồng vào ngày 7 tháng 11, Nguyễn Văn Thịnh đã đặt những vấn đề này trước nước Pháp, quốc gia mà ông ta buộc tội điều hành một nhà nước lai tạp ở Nam Kỳ. “Đây có phải là thuộc địa hay nền Cộng hòa?”  ông hỏi các thành viên. Một đại biểu Pháp can thiệp và trả lời câu hỏi mà không diễn giải. Ông ta đọc to một ghi chú từ văn phòng d’Argenlieu, nói rằng chính quyền Pháp ủng hộ một nội các mới nội trong tuần. Một cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm đã vượt qua 26 - 3.

Cái chết của nền Nam Kỳ Cộng hòa


Đám tang Nguyễn Văn Thinh đi ngang qua thảo cầm viên Sài Gòn (Photo: Tiểu sử Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh/Biography of Dr. Nguyễn Văn Thinh. 
[Saigon: Imprimerie de l’Union, 1947])

Ba ngày sau, Hồ Chánh Chánh sẽ tìm thấy xác thủ tướng trong căn biệt thự. Vụ tự tử là giờ phút dứt khoát để Hồ Chí Minh, người bạn cũ của ông và đối thủ hiện tại của ông đưa ra một tuyên bố công khai. Ông ca ngợi Nguyễn Văn Thịnh có cá tính và sự nhạy bén chuyên nghiệp. Ông ta có tính cách chính trị còn khiếm khuyết, Hồ Chí Minh tuyên bố, và sự lựa chọn hợp tác với Pháp của ông, đã dẫn đến kết cục không thể tránh khỏi.
Trước khi chết, Nguyễn Văn Thịnh đã tiết lộ niềm tin của mình vào một Việt Nam thống nhất và lần đầu tiên, cảnh báo về sự các nhà lãnh đạo Stalinist của Việt Minh đã thanh trừng các đối thủ quốc gia vài tuần trước đó. Trong lá thư tuyệt mệnh của mình, ông ta đã khẩn  khoản “ các bạn bè của tôi, những người trí thức của miền trung, miền nam và miền bắc, nên thành lập một chế độ chính trị thay thế cho Việt Minh. Phá vỡ sự im lặng chính trị của mình, ông kết luận với một cảnh báo cuối cùng: Tôi chết để tố cáo sự nguy hiểm của một chế độ độc tài đỏ đang đe dọa.
Chế độ độc tài đe dọa mà ông cảnh báo sẽ thành công trong việc lãnh đạo cách mạng Việt Nam và cuối cùng là một nhà nước Việt Nam thống nhất. Tuy nhiên, sự thất bại của kế hoạch nhà nước cộng hòa Nguyễn Văn Thịnh không nên che khuất sự đa dạng của đời sống chính trị Việt Nam, hay những con đường mòn mà người Việt Nam tìm kiếm từ chế độ thực dân.
Những hành động của Pháp làm suy yếu nền Cộng hòa và mô hình cải cách cộng hòa mà Nguyễn Văn Thịnh đã ủng hộ trong cả cuộc đời của mình. Trái ngược với Ấn Độ, nơi những người cai trị cuối thời thuộc địa Anh đã trao quyền cho các nhà cải cách Ấn Độ, Pháp làm mất uy tín của những người ôn hòa chính trị ở Đông Dương. Nếu nền Cộng hòa được trao quyền vào năm 1937 khi ông thành lập Đảng Dân chủ Đông Dương, kết quả có lẽ sẽ rất khác. Nhưng ngay cả trong thất bại, dự án nhà nước của ông cũng đưa ra các lựa chọn thay thế mới.
Xúc động trước cái chết của ông, những người Việt Nam ủng hộ nền Cộng hòa đã công khai phủ nhận kế hoạch của chính quyền Pháp đối với chủ nghĩa ly khai Nam Kỳ. Các nhà lãnh đạo Cộng hòa ủng hộ một Việt Nam thống nhất, do cựu hoàng Bảo Đại lãnh đạo và hợp tác với các đảng quốc gia bị Việt Minh thanh trừng.
Phải mất thêm hai năm nữa, Pháp mới đồng ý thành lập Nhà nước Việt Nam mới, thống nhất [Quốc gia Việt Nam] trên phạm vi cả nước. Giống như nền Cộng hòa trước đó, các nhà lãnh đạo của nhà nước này cũng tìm cách làm việc thông qua Pháp để loại bỏ chủ nghĩa thực dân. Nhưng nó cũng trở thành một kế hoạch thất bại, bị ảnh hưởng bởi tất cả những gì làm suy yếu Nam Kỳ Cộng hòa. Phá hoại bởi các quan chức thực dân Pháp, Nhà nước Việt Nam chỉ có được chủ quyền hoàn toàn khi Pháp rút ra sau Hiệp định Genève 1954 và Ngô Đình Diệm giám sát việc củng cố nhà nước bên dưới vĩ tuyến 17 của Việt Nam cộng hòa.
Bài viết này dựa trên một chương của luận án Tiến sĩ, có thể tìm thấy trên trang web của tác giả.


(*) Tôi sử dụng từ Nam Kỳ Cộng Hòa thay cho từ Cộng Hòa Nam Kỳ để cho đúng với văn phạm Việt Nam, có nghĩa là cụm tính từ phải đi sao cụm danh từ.

Cộng hòa Tự trị Nam Kỳ (tiếng PhápRépublique autonome de Cochinchine) hay với các tên gọi khác là Nam Kỳ Cộng hòa quốcNam Kỳ quốcCộng hòa Nam KỳNam Kỳ Tự trị là một chính quyền tồn tại từ 1946 đến 1948, về danh nghĩa quản lý lãnh thổ Nam Kỳ (Nam Bộ) Việt Nam.

Chủ Nhật, 9 tháng 2, 2020


Tìm hiểu từ Mã Tà - Lính Mã Tà....

Bòng bong che nắng, mã-tà tiên phong




Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là một nhân chứng của thời kì Pháp xâm chiếm Nam Kì. Văn thơ của ông ghi lại được nhiều sinh hoạt xã hội đương thời. Chẳng hạn như hai câu: “Bữa thấy bòng bong che trắng lốp muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì muốn ra cắn cổ.
(...)
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã-tà, ma-ní hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tầu thiếc tầu đồng súng nổ”.
Bòng bong và Mã-tà của Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc có thể giúp chúng ta hiểu thêm được tình hình chiến trận năm 1861.
1) Bòng bong là cái gì?
 Bòng bong được định nghĩa là một thứ cỏ rối (Việt Nam tự điển, Khai Trí Tiến Đức, 1931); một loại dây leo mọc xoắn vào nhau thành từng đám, ở bờ bụi. Bòng bong còn có nghĩa là xơ tre vót ra bị cuốn rối lại, thường dùng để ví tình trạng rối ren (Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê, 1988).
Nếu Bòng bong chỉ có nghĩa như vậy thì dứt khoát nó không phải là một đồ vật (trắng lốp) dùng để che. Bòng bong của Nguyễn Đình Chiểu chắc chắn không phải là Bòng bong của tiếng Việt ngày nay.
Chu Thiên hiểu Bòng bong của câu văn là lều vải của quân Pháp căng làm chỗ tạm trú trong lúc hành quân (Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ 19, Văn Học, 1970, tr. 47).
Phong Châu và Nguyễn Văn Phú không rõ Nguyễn Đình Chiểu dùng từ Bòng bong để chỉ những tên lính Pháp hay đồ dùng gì của chúng (Văn tế cổ và kim, Văn Hoá, 1960, tr. 79).
Bảo Định Giang cũng phân vân, lúc thì đồng ý với Chu Thiên (Thơ văn yêu nước Nam Bộ nửa sau thế kỷ 19, Văn Học, 1977, tr. 43), lúc khác lại đồng ý với Phong Châu và Nguyễn Văn Phú (Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, Văn Học, 1971, tr. 251).
Chữ Hán có hai chữ Bồng:
- Bồng (bộ thảo): cỏ bồng, cỏ bông bong (Thiều Chửu, Đào Duy Anh). Bồng còn có nghĩa là rối bong (Thiều Chửu). Bòng bong của tiếng Việt ngày nay là do chữ Bồng (bộ thảo) này mà ra.
- Bồng (bộ trúc): mái giắt lá. Đan phên giắt lá để che mui thuyền gọi là bồng. Tục gọi bồng là cái buồm thuyền (Thiều Chửu).
Mái giắt lá thì không thể nào “trắng lốp” được. Bòng bong của Nguyễn Đình Chiểu không phải là Bồng (bộ trúc) của Tàu.
Huỳnh Tịnh Của (1896), định nghĩa Bòng bong là vải, hoặc đệm buồm may làm một bức, kéo lên mà che nắng, thường dùng theo ghe thuyền. Génibrel (1898) và Gustave Hue (1937) định nghĩa Tấm Bong là Espèce de natte qui s'étend ou se retire à volonté sur le toit d'une barque pour garantir de la chaleur ou de la pluie (một loại mành giăng ra cuộn lại được, làm mui thuyền che mưa nắng).
Xưa nay, thuyền của ta chỉ có mui che hình vòm, đan bằng tre. Một số thuyền lớn được lợp mái giống mái nhà. Thuyền của ta không dùng vải che nắng, và không dùng mui gấp lại được.
Có vài bằng chứng chính xác cho thấy Bòng bong của Huỳnh Tịnh Của, hay Tấm bong của Génibrel và Gustave Hue được dùng cho tàu thuyền của Pháp.Báo L'Illustration (Le livre de Paris, 1987) đăng nhiều bài phóng sự của thời kì Pháp đánh chiếm Việt Nam (1859-1883), có tranh minh hoạ. Mấy bức tranh này do chính người có mặt tại chỗ vẽ, cho thấy một số tàu và thuyền của Pháp có mui che mưa nắng bằng vải trắng, cuộn lại được (tr. 25, 36, 58, 59). Trong thời gian 1884-1886, bác sĩ Hocquard cũng chụp ảnh được mấy chiếc tàu có vải che mưa nắng (Une campagne au Tonkin, Arléa, 1999, tr. 367, 382, 531).
Người Pháp gọi những tấm vải lớn che mưa nắng này là bâche. Bâche đã được Génibrel và Gustave Hue gọi là (tấm) bong, được Huỳnh Tịnh Của láy âm là bòng bong. Ngày nay ta gọi bâche là tấm bạt. Bà con trong Sàigòn trước đây gọi những chiếc xe hơi nhà binh che bạt kín mít (bâché) là xe bịt bùng. Xe được bịt bằng tấm BùngBòng bong,Bong, Bùng hay Bạt là tấm vải lớn che mưa nắng, cuộn lại được, đều do Bâche mà ra.
Nguyễn Đình Chiểu thấy bòng bong che trắng lốp nghĩa là thấy tàu Pháp giăng bạt màu trắng, chạy trên sông. Không phải Nguyễn Đình Chiểu muốn ám chỉ những tên lính Pháp hay lều vải hoặc đồ dùng gì của chúng.
2) Mã-tà là ai?
Bài Hịch sĩ phu kêu gọi chống Pháp (vào khoảng năm 1875) có câu:
“Trách những kẻ toan đường mại quốc, xui mã-tà, ma-ní, loạn trung hoa nên thả tượng một ngà
iận những người bày mối giả danh, dối rằng Nguyễn, rằng Lê, báo thiên hạ nghĩ nên rồng năm vẻ”.
Mã-tà, ma-ní có mặt trong suốt thời kì Pháp xâm chiếm Việt Nam.
Vậy mà từ điển của Huỳnh Tịnh Của và Génibrel lại không có Mã-tà. Huỳnh Tịnh Của chỉ nói đến Ma-tà, nghĩa là người lính canh tuần, tiếng Mã Lai, kêu theo đã quen.
Năm 1931, Ma-tà trở thành người lính cảnh sát ở Nam kỳ, gọi theo tiếng Mã Lai (Việt Nam tự điển, Khai Trí Tiến Đức). Năm 1937, Gustave Hue lẫn lộn Ma-tà với Mã-tà (Mã-tà: nom donné à Saigon aux policiers. Mã-tà: tên gọi lính cảnh sát ở Sàigòn).
Nhiều học giả sau này đã bắt chước Gustave Hue, dùng Ma-tà của Huỳnh Tịnh Của gán cho Mã-tà của Nguyễn Đình Chiểu.
Người Mã Lai (Malais) gọi người lính cảnh sát là matamata. Do đó đẻ ra danh từ mã-tà (Vương Hồng Sển, Sàigòn năm xưa, 1968, Xuân Thu, tr. 229).
Mã-tà là tiếng Mã Lai, là lính cảnh sát (Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, sđd, tr.252) . Mã-tà là lính đánh thuê, người Mã Lai, trong hàng ngũ quân đội Pháp (Thơ văn yêu nước Nam bộ nửa sau thế kỷ 19, sđd, tr. 43).
Mã-tà được Chu Thiên cho giữ vai trò quan trọng của một tổ chức lính nguỵ ở Nam bộ thời Pháp mới sang (sđd, tr. 391).
Mã-tà khác Ma-tà ở điểm nào?
Mã-tà trước hết là người Việt Nam.
Trong cùng bài văn tế, Nguyễn Đình Chiểu viết:
“Sống làm chi theo quân tả đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn; sống làm chi ở lính mã-tà, chia rượu lạt, gậm bánh mì, nghe càng thêm hổ”.
Nguyễn Đình Chiểu trách những người Việt Nam theo Pháp. Mã-tà là người Việt theo quân tả đạo (chỉ người Pháp) để được chia rượu lạt, được gậm bánh mì (pain de mie).
Bài Hịch sĩ phu kêu gọi chống Pháp cũng trách những người mại quốc (bán nước) đã xui giục mã-tà, ma-ní... Bọn bán nước phải là người Việt Nam. Chúng xui giục người Việt Nam đăng lính mã-tà cho Pháp. (Vì muốn cho câu văn có vần, có đối nên tác giả bài hịch đã phạm một sai lầm là cho bọn Việt gian xui giục cả đám lính Ma-ní của Tây Ban Nha).
Mã-tà không phải là tiếng Mã Lai.
Trận Cần Giuộc xảy ra vào cuối năm 1861. Có thể phỏng đoán rằng Nguyễn Đình Chiểu làm bài văn tế vào khoảng cuối năm 1861 hay đầu năm 1862. Cho tới thời điểm này (1862), nước ta không có liên lạc ngoại giao với nước Mã Lai (Mã Lai bị Bồ Đào Nha chiếm năm 1511, bị Hà Lan chiếm năm 1641, bị Anh cai trị năm 1867). Không có bằng chứng gì để nói rằng ta phải mượn một tiếng Mã Lai để gọi người lính cơ, lính lệ hay lính vệ của mình.
Nước Pháp đã có sẵn một loạt cò, cẩm (commissaire), phú lít (police), sen đầm (gendarme), cũng chẳng cần phải mượn tiếng Mã Lai để gọi lính cảnh sát của mình tại một nước... chưa phải là thuộc địa!
Mã-tà không phải là lính cảnh sát.
Có đội quân nào, đặc biệt là quân đội Pháp, lại cho cảnh sát ra trận? Để giữ trật tự hay... ghi giấy phạt à? Đấy là chưa nói cảnh sát của Pháp phải biết đọc, biết viết...lạp-bô (rapport). Năm 1861, nước ta có được mấy người biết đọc, biết viết chữ Pháp hay chữ quốc ngữ để làm lính cảnh sát cho Pháp?
Mã-tà còn được Nguyễn Đình Chiểu nói đến trong bài Văn tế Trương Công Định: “Giăng dưới nước tàu đồng, tàu sắt, súng nổ quá bắp rang; kéo trên bờ ma-ní, mã-tà, đạn bắn như mưa vãi”. Mã-tà là lính chiến đấu.
Nói tóm lại, Mã-tà là người Việt, không phải là lính cảnh sát, không phải là tiếng Mã Lai. Mã-tà không phải là Ma-tà.
Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh có từ Mã tiếu (Chữ tiếu còn có âm đọc là tiêu, là tiệu), nghĩa là lính cỡi ngựa hoặc đi chân, chuyên làm việc cảnh giới, dò kiếm xem xét. Có nhiều khả năng là mã tiếu (mã tiêu, mã tiệu) đã được người Việt đọc trại thành mã-tà.
Mã-tà là lính đi dò xét. Mấy bài phóng sự của báo L'Illustration xác nhận trong hàng ngũ quân đội Pháp có quân được mộ từ Manille (ma-ní) tham dự trận đánh Đà Nẵng (1858), có lính tập người Việt (tirailleur) trong trận đánh đồn Kì Hoà (Sàigòn, 1859).
Thực dân Pháp cho lính người bản xứ và lính thuộc địa của Tây Ban Nha đi dò xét, trinh sát. Mã-tà, Ma-ní là lính đi tiên phong “đỡ đạn”. Chuyện hoàn toàn dễ hiểu.
Năm 1861, có lính chiến đấu mã-tà người Việt Nam. Năm 1896 (tức là 34 năm sau khi triều đình Huế kí hoà ước nhường cho Pháp 3 tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường), Huỳnh Tịnh Của mới nói đến lính canh tuần ma-tà (tiếng Mã Lai?). Khoảng 1908-1921, miền Nam lại có thêm lính ma-tà khác.
Trong bài Dạo bờ biển một mình, Huỳnh Thúc Kháng kể đời sống hàng ngày của người tù ngoài Côn Đảo:
“Từ ra ngoài đảo đã sáu, bảy năm không khi nào ra cửa thành khám ngục mà được đi một mình, hễ ra cửa một bước là có ma-tà mang súng đi theo sau. Đến lúc ra làm việc giấy ở phòng Gác-điêng sếp thì ra vào trong “banh” có hơi thơ, không ai dẫn. Song chỉ được đi lại, ra vào ở kho chứa đồ, phòng gác của Gác-điêng và bóp lon-ton (...)” (Vương Đình Quang, Thơ văn Huỳnh Thúc Kháng, Văn Học, 1965, tr. 102).         Tiếng Pháp gọi lính canh tù là maton. Maton được Việt hoá thành ma-tà. Đoạn văn còn nhiều từ gốc Pháp khác: gác-điêng (gardien), sếp (chef), banh (bagne), gác (garde), bóp (poste), lon-ton (planton).
Mã-tà ở Cần Giuộc (1861) là lính chiến đấu. Ma-tà ở Sàigòn (1896) là lính canh tuần. Ma-tà ở Côn Đảo (1908-1921) là lính canh tù.

Đời ôi nhiều nỗi bợn nhơ:
 Ma tà có chú hay quơ hay quào,
 Giận ai gươm súng phao vào
Báo quan nhà nghịch, vây rào xét coi...
(Vương Hồng Sển, sđd)

        Ma-tà của bài thơ đúng là lính cảnh sát ở Sàigòn, đi khám xét nhà dân chúng. Ma-tà này dường như có họ hàng với matraque (chiếc dùi cui)? Mã-tà của Nguyễn Đình Chiểu và Ma-tà của Huỳnh Tịnh Của, là hai nhân vật của hai thời kì lịch sử khác nhau, cần được phân biệt rạch ròi.
Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc còn cho thấy Nguyễn Đình Chiểu là nhà văn rất cập nhật. Ông đã sớm đưa bòng bong (bâche), bánh mì (pain de mie) của tiếng Pháp vào văn học Việt Nam.

                                                         Nguyễn Dư
                                                       (Lyon, 3/2007)

Chủ Nhật, 2 tháng 2, 2020

NGÀY ẤY VÀ BÂY GIỜ


1651. Hotel Ambassy đại lộ Nguyễn Huệ xua và nay.


1652. Đình Nam Chơn đường Nguyễn Bĩnh Khiêm xưa và nay.


1653. Góc Lê Lợi - Pasteur xưa và nay.


1654. Học sinh trường Saint Exsupery tại góc Đoàn Thị Điểm - Ngô Thời Nhiệm ngày nào và giò đây.


1655. Giao lộ Phan Văn Đạt - Nguyễn Văn Thinh xưa và nay.


1656. Ngả tư  Nguyễn Huệ - Nguyễn Thiếp xưa và nay.


1657. Đường  Duy Tân trước Văn phòng RMK - BRJ ngày nào và giờ đây.


1658. Đường Mạc Đĩnh Chi tết 1968 và giờ đây.


1659. Vị trí tượng Petrus Ký ngày nào và hiện nay.


1670. Văn phòng thông tấn xã Việt Nam đường Hồng Thập Tự ngày nào và nay.



Nguồn Tim Doling, Paul Blizard, Trung Ngo, Thanh Nguyen


  Tết Sài Gòn trăm năm trước ra sao?   Biết những gì xảy ra trong quá khứ xa xưa dường như là mơ ước muôn đời của con người. Bởi trong c...