Thứ Sáu, 3 tháng 8, 2018



Phần IV

TRỞ LẠI VẤN ĐỀ TÌM HIỂU THÊM VỀ VỊ TRÍ SÀI GÒN

Có cả thảy mấy vị trí mang tên "Sài Gòn" và tùy thời đại xoay hướng đổi chỗ như thế nào?
1. Prei Nokor,Sài Gòn của Cổ Cao Miên, trước năm 1680.
2. Đề Ngạn,nơi tụ tập của người Tàu, từ năm 1778.
3. Bến Nghé,nơi tụ tập của người Việt, từ năm 1790.
Đoạn này, theo tôi rất là quan trọng.
Tôi xin mở một dấu ngoặc, vừa để ôn lại những tài liệu đã biết rồi, vừa để nhơn đó, nhận định và tìm hiểu vị trí Sài Gòn, đã tuỳ thời, đổi chỗ như thế nào.
Có cả thảy ba vị trí đáng để chú ý nhứt:
1. Chỗ nào là "Cổ Sài Gòn" thành luỹ mà người Cam Bốt gọi là "Prei Nokor"?
Đời xưa, trước năm 1680, người Cam Bốt vùng Thuỷ Chân Lạp có một thành luỹ giữa rừng già, gọi "Prei Nokor". Nhờ những cuộc đào đất tìm cổ vật trước đây, khoảng năm 1940-1944, nghiệm ra Prei Nokor có lẽ ở vùng đồn Cây Mai (Phú Lâm) chạy dài tới vùng Chợ Quán, lối nhà cũ Hội quán Hội Đức Trí Thể Dục (S.A.M.I.P.I.C - Société pour l’Amélioration Morale, Intellectuelle, Physique des Indigènes de Cochinchine) (nay là trụ sở cơ quan cố vấn quân sự Mỹ quốc, đường Trần Hưng Đạo), ăn luồn lên Gò Vấp và Bà Điểm.








Đồn Cây Mai


Hội quán Đức Trí Thể Dục là tiền thân của ngôi nhà này về sau là trụ sở bộ quốc phòng VNCH thời kỳ đầu rồi trụ sở MAAG của Mỹ và trụ sở bộ tư lệnh Hàn quốc. 
Nguồn Tim Doling


Hội quán Đức Trí Thể Dục xây trên một nền chùa Thổ, nền này còn to hơn đường lộ rất nhiều; mấy mươi năm về trước, đào gặp tại đây đồ cổ đồng, tảng đá lớn, ngạch cửa bằng đá, đặc biệt nhứt là một cây đèn đồng ten xanh rất cổ tạc hình một hình nhân Thổ đầu đội mũ, chưn quỳ, hai tay dang một bồn để đựng dầu thắp, các vật này hiện có trưng bày nơi trung đường Viện Bảo tàng trong vườn Bách thảo. Sách sử cổ lại cho biết người Cam Bốt có ở vùng Thị Nghè, vùng Cầu Bông (cổ danh gọi "Cầu Cao Miên").Nơi đây, đã đào gặp một món đồ đất nung đặc sắc của người Cao Miên dùng. Từ Thị Nghè, người Miên ở giáp liên tiếp đến Gò Vấp, chạy dọc thẳng lên Biên Hoà, những nơi đất gò lên cao hoặc có giồng cát khô ráo. Kinh nghiệm cho ta biết phong tục người Khmer thích làm nhà trên chỗ cao ráo đất giồng, đã vậy còn thêm cất nhà sàn, cao cẳng; rất khác người Việt, tánh ưa tìm chỗ có sơn thuỷ: dòng nước, khúc quanh bóng mát, nhà nền đát, không nối cột làm cẳng cao như nhà Miên (B.S.E.I., năm 1942, trang 26).




Chùa Chantaransay ở đường Trần Quốc Thảo (Trương Minh Giảng) là một trong những nơi còn sót lại của dấu vết người Khmer tại Sài Gòn.

Prei Nokor, định chừng ắt giữa khu đất giáp vòng có:
Đông: Gò Vấp qua Thị Nghè.
Tây: Phú Lâm.
Nam: Vàm Bến Nghé
Bắc: Bà Điểm.
Lõm giữa này, đất tư mùa khô ráo, tức nhiên đúng với sở thích người Cao Miên. Những chỗ nào có người Miên ở khi xưa, nay ta có thể đoán được không sai nhờ hai việc sau này: thứ nhứt, khi ta gặp một nền đát to lớn cao hơn vùng chung quanh (tỷ như vùng nhà Hội Đức Trí Thể Dục cũ trên đường Trần Hưng Đạo hoặc vùng Đồn Phú Lâm Chùa Gò, còn gọi là Phụng Sơn Tự); thứ nhì khi ta gặp gần nền cao thêm có cây "bồ đề"(còn gọi cây "đa", cây "lâm vồ" vì bao giờ người Thổ cũng thích trồng cây thứ ấy để nhắc tích xưa Đức Phật Thích Ca đắc đạo. ngộ đạo dưới gốc cổ thụ loại này.
Theo bài Pháp văn "Souvernirs historiques" của cụ Trương Vĩnh Ký thì "chùa Cây Mai ngày xưa là ngôi chùa Chân Lạp, có ao hồ bao bọc chung quanh và dùng làm nơi đua thuyền trải những khi lễ Phật". Vịn theo bấy nhiêu tài liệu vắn tắt nhưng hết sức quan trọng này, và nghiệm cho kỹ, ta biết vùng Cây Mai quả là một yếu điểm của người Miên xưa. Muốn đua thuyền (ghe ngo) thì nước bọc chung quanh Đồn Cây Mai chưa đủ dùng. Khúc đua phải dài trên năm ba cây số ngàn ghe ngo mới đủ sức lấy trớn thi tài. Như vậy khúc đua phải dài ra tới vùng nước Chùa Gò (Phụng Sơn Tự) hoặc xa hơn nữa thì càng đắc thế; vả lại dọc theo đường Sài Gòn Mỹ Tho, tôi nhớ có một người Thổ nói với tôi đó là "Sre pren" (ruộng khô cạn nước). Theo tôi trước khi thành ruộng gò, có phải đây là di tích chỗ đua thuyền ghe ngo của người Chân Lạp chăng? Khảo ra đường nước Chùa Cây Mai ăn thông với con rạch trước đây gọi rạch Lò Gốm, rạch này bị lấp đi một phần khi xây xất khu Chợ Lớn mới.
Cho đến ngày nay, điển "Prei Nokor" đẻ ra Việt danh "Sài Gòn" chưa lấy làm ổn thoả. Muốn nói "Prei Nokor" là "rừng gòn" hoặc "rừng bò" hoặc "xứ ở giữa rừng" đều được. Điển đã "lạc Ông Bổn", mất căn rồi, thì ai muốn nói sao cũng được. Cắt nghĩa "Sài Gòn" do "Thầy Ngồnn" của Tàu cũng thông và nghe lọt tai hơn!
2. Sài Gòn, nơi tụ tập buôn bán của người Tàu
(Tai Ngon hay là Tingan) tạo lập từ năm 1778
(Đề Ngạn)
"Sài Gòn" do người Tàu lập ra nay biến thành Chợ Lớn.
Vị trí của cái chợ này sở dĩ có là vì:
Ngoài duyên do đã nói ở trang 44 (tài liệu Francis Garnier rút trong Gia Định Thông chí), còn có những nguyên do sau đây:
a. Duyên do chính trị:Khu vực người Tàu lựa may thay lại trúng ngay giữa khu vực Miên (vùng Phú Lâm) và khu vực Việt (Vàm Bến Nghé chợ Bến Thành); bất ngờ đây là vị trí "trái độn" giữa hai khu Miên - Việt. Ngày sau, đức Cao Hoàng xây thành 1790 cũng lựa chỗ cách xa xóm Miên cố ý để xóm Tàu ở giữa làm trung gian.
b. Duyên do kinh tài:Đây là duyên do quan trọng nhất. Chợ Lớn ở đầu những mối đường thuỷ, một xuống Lục Tỉnh, một lên Nam Vang, một mối là ngả lên Cù lao Phố (Biên Hoà) và một mối theo biển trực chỉ ra Huế. Duyên do kinh tế nhồi thêm duyên do địa lợi. Danh từ "Đề Ngạn" (đọc giọng Tàu là Tai Ngòn, Tin Gan). Thầy Ngồnn rất có thể là đầu mối đẻ ra hai chữ "Sài Gòn".

     Trước năm 1914, trên con đường Trần Hưng Đạo còn nhiều ruộng nước ao lầy. Sài Gòn và Chợ Lớn là hai khu riêng biệt, ở giữa là một cái bưng nước đọng khởi đầu từ nhà ga đại lộ Lê Lợi và đại lộ Nguyễn Huệ, đầu kia phía Chợ Lớn chót bưng là đầu đường Đồng Khánh (Thuỷ Binh cũ, rue de Marins). Năm 1916, Pháp lấp bưng, đổ đất bồi làm đường "Ba Mươi" (tức Galliéni cũ, nay là Trần Hưng Đạo). Năm 1928, đường Galliéni vừa trải đá xanh lên trên lớp đá đỏ và bắt đầu được tráng nhựa. Hai bên đường còn nhiều thửa ruộng hoang vu, chiều chiều trời gần mưa, tiếng dế, tiếng ễnh ương ri rít huềnh hoang, khó biết đây là trung tâm đô thành hoa lệ. Nhà lụp xụp không hàng lối, mái lá mái tôn (tôle), dân lao động chen chúc, gái ăn sương đủ hạng. Đầu 1929 có đèn điện giăng giữa chia con đường làm hai chiều lên xuống. Đường xe điện đặt trung tâm đại lộ, đến năm 1953 mãn hạn giao kèo khai thác mới chịu dẹp. Năm 1954, gỡ đường rầy và lấp nhựa san bằng. Phía sau đình Tân Kiểng, gần trụ sở cố vấn quân sự Mỹ đóng (SAMIPIC cũ) và chỗ nhà ga Pétrus Ký đầu đại lộ Cộng Hoà (nay là Nguyễn Văn Cừ) còn gò cao nghều nghệu: đây là nền cũ xóm Khmer, nếu đào bới ắt gặp đồ cổ tích Miên chắc hẳn.





Đường Galliéni trong thập niên 1930 cho thấy còn hoang sơ.

Một di tích chót, xóm Galliéni cũ vừa mới lấp gần đây. Ấy là khúc Rạch Bà Đô đụng với đại lộ Trần Hưng Đạo và đại lộ Cộng Hoà (NVC). Chỗ này trước đây còn là một đường sình lầy nước hôi thúi bỏ hoang. Nay lấp đi, đường sá thêm vẻ đẹp và hợp vệ sinh, nhưng tránh không khỏi động lòng hoài cổ.

3. Sài Gòn
Thuở "đàng cựu" vùng Sài Gòn chánh danh gọi "Bến Nghé". Đó mới là xóm Việt Nam. Bến Nghé, tên gọi "Ngưu Chử" tên khác nữa là Tân Bình Giang; xóm Bến Nghé chạy dài từ khu Chợ Quán tới Hiển Trung Tự (Pháp dịch "temple de la Fidélité") và chạy đến Thuỷ xưởng (Arsenal). Miếu Hiển Trung do đức Cao Hoàng dựng lên để thờ các công thần khai cơ dựng nghiệp, trong có bài vị mấy trăm cái, gồm có một bài vị thờ người thuỷ binh Pháp Matelot Manuel, miễu Hiển Trung vốn ở trong thành Ô Ma (Camp des mares, có lúc là trụ sở trung ương Cảnh sát). Sau năm đảo chính 1945, binh Pháp trở lại chiếm cứ thành Ô Ma, và dỡ bỏ miếu Hiển Trung, về sau này không còn nhìn được xưa ở chỗ nào.



Cổng thành Des Mares



Tấm hình được cho là đền Hiển Trung (?)
Cả ba vùng: vùng Miên (Phú Lâm), vùng Tàu (Đề Ngạn) và vùng Việt (Bến Nghé) nối liền nhau nhờ rạch, kinh, sông ngòi nhiều hơn bằng đường lộ đất. Nay dân cư ngày một thêm đông, nhà cửa ngày một thêm nhiều, các đường thuỷ đạo bị lấp lần hồi, không dễ gì truy tầm ra manh mối. Cách nay một trăm năm xe cộ rất ít, đường sá không nhiều như bây giờ. Muốn xê dịch chỗ này qua chỗ nọ, đường xa dùng võng, cáng, sang nữa thì chạy ngựa thêm mau lẹ, nhưng vẫn tốn kém khổ cực (ngựa phải đúng giờ cho ăn cho nghỉ dưỡng sức) đã phiền phức lại nhiều bất tiện. Đường gần, gọn nhứt và rẻ tiền là đi thuyền, ghe lồng, ghe giàn, tam bản bốn chèo hoặc hai chèo, bình dân hơn nữa là chiếc xuồng ba lá (chỉ ba tấm ván ghép lại).
Khắp Sài Gòn (Bến Nghé) và Đề Ngạn (Chợ Lớn), lối 1860, có rất nhiều con kinh đào tay, tuy bẩn thỉu nhưng thuở đó rất cần ích. Về sau, lần lần các kinh bị lấp mất dạng hình, nhường chỗ cho Sài Gòn tân thời, xứng danh hòn "Bửu ngọc Viễn Đông" (La Perle de l’Extrême Orient).
Trong thành nội, xin kể đại lược những cơ quan sau này:
a. Hành chánh:
- Dinh Ông Thượng, vùng cao ráo.
- Trường Thi.
- Trường tiền (chỗ đúc tiền).
- Hoàng cung.
- Pháp trường.
b. Quân sự:
- Cơ xưởng, vùng phụ cận.
- Thuỷ trại (arsenal).
- Trường Diêm (kho đạn, có phải là dinh Tân Xá cũ chăng?).
- Cơ dinh.
- Mô súng (đồng Tập trận).
- Khu lương thực (Cầu Kho).
c. Phố xá: nhà cửa dân cư ở vùng thấp có các rạch con nối liền nhau.




Mô tả thành nội trong bản đồ năm 1795 (click để phóng to)

d. Phía xa vô lần trong Chợ Lớn: Phố Hoa kiều (trong bản đồ Pháp đề "Bazar chinois"), có phải Đề Ngạn đây chăng?
Theo cuốn "Annuaire de la Cochinchine" in năm 1865, hồi Tây mới qua, vùng Sài Gòn đếm được bốn chục làng ở dài theo sông Bến Nghé và chung quanh Quy Thành.
Trong bài khảo cứu của cụ Trương Vĩnh Ký "Souvenirs historiques", cụ thể đại lược chung quanh Sài Gòn xưa có những làng như Hoa Mỹ, Tân Khai, Long Điền, Mỹ Hội, Nam Chơn, Long Hưng, Cầu Kho, Chợ Quán, Tân Kiểng, An Bình, Hoà Nghĩa, (Trường Thi) v.v…
Nay ta thử dạo một vòng thành phố Sài Gòn xưa, lối sinh thời cụ Trương Vĩnh Ký, và bắt đầu từ cơ xưởng thuỷ quân kể lần hồi vô trong Chợ Lớn, thì:
Từ mé Rạch Thị Nghè (Avlanche) tên chữ "Bình Trị Giang" kể lần hồi vô kinh Bến Nghé (Arroyo chinois), tên chữ "Ngưu Chử hay Tân Bình Giang", có cả thảy bốn ấp:
1. Xóm Hoà Mỹ, tức xóm Thuỷ trại (Arsenal).
2. Xóm Tân Khai.
3. Xóm Long Điền.
4. Xóm Trường Hoà, giáp với đường Công Lý (NKKN).
Thành phố Sài Gòn thuộc vùng đất thôn Mỹ Hội, bắt từ mé kinh cây Cám chạy đụng ranh làng Tân Khai.
Tân Khai, tục danh là Chợ Sỏi, hoặc Vàm Bến Nghé, ranh đất ăn giáp đường Trường Tiền (đường mé sông lối Cầu Mống).
Hồi đàng cựu, đường mé sông nhà cửa đông đúc lớp trên bờ, lớp dưới mé nước, chạy dài chen khúc khít nhau.
Khúc sông Bến Nghé ngay lối rạch Ông Bé sấp vô trong Chợ Lớn, có xóm tên gọi "Lò Vôi".
Đời xưa, ông xã trưởng làng Mỹ Hội, nhờ trong vùng đất có xây thành trì, cũng như ngày nay chức đô trưởng (1960), nên oai vệ không xã trưởng nào bì kịp. Xã trưởng làng Mỹ Hội, chức tuy nhỏ nhưng đặc cách ngang hàng Cai tổng đương thời ấy, và được đặc ân đội mão trái bí (Souvenirs historiques).
Mỗi khi làng Mỹ Hội chạy sớ xin xây cất đình chùa hoặc làm lại hay tu bổ công sở, khi sớ tâu đến kinh, bận về vua phái một khâm sai đại thần mang vào năm quan tiền kẽm và vài món tặng phẩm khác đựng trên một mâm sơn son thếp vàng "vật khinh hình trọng""ơn vua lộc nước", bấy nhiêu đó đủ phình mũi dân đen!
"Đông đảo thay phường Mỹ Hội,
Sum nghiêm bấy làng Tân Khai.
Ngói liễn đuôi lân, phố thương khánh toà ngang toà dọc.
Hiên sè cácnh én, nhà quan dân hàng vắn hàng dài.
Gái nha nhuốc tay vòng tay niểng,
Trai xênh xang chơn hớn chơn hài…"
(Cổ Gia Định vịnh, tương truyền do ông Ngô Nhơn Tịnh soạn, bản in Trương Vĩnh Ký, 1882, trang 5).
Xóm Hàng Đinh (bán đinh) ở lối vườn chơi trên con đường Tự Do, đường này đã có từ thuở cựu trào, nhưng nhỏ bé và quê mùa lắm. Từ mé sông đến dinh Thượng thơ (Direction de l’Intérieur) có mấy chòm cây cau suôn đuột chen chúc gần xóm nhà lá lụp sụp; lối năm 1860, gần đường Nguyễn Văn Thinh (d ' Ormay cũ) người ta còn thấy một ngôi chùa cổ, mái uốn cong quớt như cặp sừng, cạnh bên có một quán rượu tây của bọn lính Pháp, ban ngày che màn trắng phếu.




Quán rượu tại góc d'Ormay - Catinat

Trước Toà Đô chánh hiện nay (1960) thì thuở ấy có con kinh nhỏ, trên có xây một cái cống, gọi "Cống Cầu Dầu" vì tại xóm chuyên môn bán dầu phộng để ăn và để thắp đèn. Con kinh này, Tây đến thì lấp đi, thay vào con đường Charner cũ, hồi đó cũng gọi là "Đường Kinh Lấp".




Vị trí cống Cầu Dầu trong bản đồ 1870

Ngã tư Kinh Lấp đụng với con kinh về sau biến thành Đại lộ Bonard (nay là Lê Lợi) hồi mồ ma thời Pháp, vẫn là xóm sang trọng nhất. Tại chỗ bồn nước ngay ngã tư này, hồi đó có xây một cái bệ cao hình bát giác, vào khoảng 1920 tôi lên học Sài Gòn còn thấy tận mắt. Mỗi chiều thứ bảy, tại bệ này có mấy chú lính san đá trỗi nhạc Tây cho đồng bào ta thưởng thức. Ngày nay, nhạc Pháp, nhạc Mỹ nghe nhàm tai, các rạp chớp bóng, máy hát và máy radiô "dọn ăn" đến chán bứ ê chề, chớ thuở ấy, làm gì mà được nghe nhạc ngoại quốc cho đã con ráy. Hoạ chăng tụi nào dám lết lại gần nhà hàng "Continental" dành cho "khách Tây" ăn (đường Đồng Khởi), nhà hàng Pancrazi trên đường Bonard (Lê Lợi), và chỗ ngã tư Bồn Kèn này mới được thưởng thức.




"Bồn kèn" trước nhà hát thành phố
Tương truyền ông Huỳnh Mẫn Đạt đã gặp ông Tôn Thọ Tường và hai đàng đối đáp nhau bằng hai bài thơ bất hủ cũng tại chỗ này tục danh "Bồn Kèn".
Ông Huỳnh Mẫn Đạt, là người Rạch Giá, thi đỗ cử nhân, làm quan trào Tự Đức, chức đến tuần phủ thì xin hưu trí vì không khứng ở lại giúp Pháp. Một buổi chiều kia, ông lên Sài Gòn chơi, ông đội nón ngựa - thứ nón như nón lá nhưng kết bằng lông chim, dùng khi cưỡi ngựa - ông đứng coi lính Lang sa thổi kèn, xảy gặp ông Tôn Thọ Tường ngồi xe song mã chạy trờ tới, ông lật đật núp gốc cây không cho ông Tường thấy nhưng ông Tường đã lanh mắt nhảy xuống xe mừng rỡ. Hai người ứng khẩu như vầy:
Huỳnh Mẫn Đạt xướng:
Cửu mã năm ba đáo cặp kè,
Duyên sao(duyên đâu) giải cấu khéo đè ne.
Đã cam bít mặt cùng trời đất,
Đâu dám nghiêng mình với ngựa xe.
Hớn hở trẻ dung dường dặm liễu,
Lơ thơ già núp cội cây hòe.
Sự đời thấy vậy thời hay vậy,
Thà ẩn non cao chẳng biết nghe.
Tôn Thọ Tường biết ý, ngâm trả lại một bài thơ như sau:
Tình cờ xảy gặp(gặp gỡ) bạn tiền liêu,
Thi phú ngâm nga hứng gió chiều,
Thế cuộc đổi đời càng lắm lắm,
Thiên cơ mầu nhiệm hãy nhiều nhiều,
Nước non nhường ấy tình dường ấy,
Xe ngựa bao nhiêu bụi bấy nhiêu.
Hăm hở nhạc Tây hơi trỗi mạnh,
Nghe qua ngùi nhớ giọng tiêu thiều.
Tài liệu theo "Điếu Cổ hạ kim" Nguyễn Liên Phong soạn, bản 1925, trang 40-41
"Bồn Kèn" cũng còn là một danh từ để gọi bọn du côn ở xóm này, phần nhiều là tay dọn bàn, nấu ăn cho các quan Lang sa, thường hay cậy thế thần của chủ, hống hách hung hăng, tự xưng là "Anh chị Bồn Kèn" và hay gây ăn thua đánh lộn hoặc đâm chém với du côn xóm khác như "Xóm Dọn Bàn" (Paul Bert cũ), "Xóm Khánh Hội" (Anh chị Bến Tàu), hoặc du côn "Mặt Má Hồng"(đường Mac Mahon) hay "Lăng Xi Bê"(đường Blanscubé).
Thuở ấy dân anh chị chưa có "chó lửa"(súng lục, súng sáu) như bây giờ. Họ nói chuyện với nhau chỉ bằng tay sắt, củ chì, roi gân bò, hoặc dao tu, miễn là đủ ăn thẹo trên mặt là cùng… nhưng họ có thói ưa xăm mình và tâng bốc nhau bằng danh từ "đại ca" như trong truyện "Thuỷ Hử" hay trong các truyện Tàu khác. Có người xăm tích "Võ Tòng đả hổ", người xăm câu thơ răn đời: "Hoạn nạn bất ly chơn quân tử, Lâm nguy bất cứu mạc yêng hùng". Có kẻ xăm bùa chú, bùa "gồng", người xăm hình ý trung nhơn hoặc con "đầm" loã thể, thậm chí có người vào khám đền tội hung hăng, khi ra đem về kỷ niệm một vài câu chữ Pháp như:
"La richesse attire les amis"xăm trên vế hữu.
"La paivreté les éloigne"xăm trên vế tả (định chừng anh chàng này đã bị một vế bạn bè phũ phàng chi đây).
Có một anh, tôi được gặp, xăm khắp thân thể không chừa một da non: hai bắp tay những câu chữ nho:
"Tiền đồng tịch kim bằng cộng lạc
Hậu lâm nguy bất kiến đệ huynh".
Giữa ngực xăm một con rồng đoanh… đặc biệt nhứt là sau lưng, trên đề: "République francaise" dưới thêm câu: "Viva la France" và mấy con số "1914 - 1918", hỏi ra anh là một lính "chào mào" từng dự trận châu Âu đại chiến.
Danh từ "du côn" có lẽ do tích bọn này, nguyên là bọn du thủ du thực, tay thường cầm một "đoản côn" (côn vắn) bằng sắt, đồng hay gỗ trắc để hộ thân, về sau vì có lệnh cò bót cho bắt những kẻ tay cầm gậy hèo nên họ đổi lại, để dễ chạy án, cầm một ống iêu bằng đồng để khi hữu sự dùng làm binh khí hoặc khi nào cao hứng chè chén no say thì mươln đó thổi hơi phù trầm, kể "thơ Sáu Trọng", "thơ thầy Thông Chánh bắn Biện Lý Tây ở Trà Vinh", hoặc "thơ Cậu Hai Miêng" con của Lãnh binh Tấn.
Về danh từ "Bồn Kèn", thuở nhỏ tôi có được nghe đám con nít chợ Sóc Trăng hát như sau:
"Ác-táp lách Sô-cu-la Canh-ti-na Bồn Kèn",hoặc thông thường nhứt và vỏn vẹn nhứt là hai chữ sau "Bồn Kèn" hay "Bồ Kề" để chế nhạo lẫn nhau.
Xét ra người Triều Châu có một danh từ "Bồ Ền" (bất an) để nói với nhau khi gặp một việc gì không may? Hai tiếng này nghe tựa tựa như hai tiếng "Bồ Kề". Câu trên có thể nói là "đồng diêu" được chăng? Một điều tôi biết chắc là nó có trước năm Âu chiến 1914 - 1918. Lúc nhỏ tôi cũng bắt chước anh em la hát theo như vậy nhưng kỳ thật không hiểu đó là nghĩa gì. Về sau khi lên học trường Sài Gòn, tôi được nếm mùi tấm tablette de chocolat bán tại góc đường Catinat và Bonard gần "Bồn Kèn" tôi mới thấy có lẽ câu này thuở ấy;à một món quà sang trọng hiếm có được đem về xứ quê, chợ Sóc Trăng yêu mến của tôi, nhưng bởi phát âm không rành nên nghe trại bẹ như vậy chăng?("Ác-táp lách Sô-cu-la Canh-ti-na Bồn Kền" phải chăng là "la tablette de Chocolat … Catinat…Bồn Kèn")
"Bồ Kề" dưới xứ Sóc Trăng của tôi, thường được dùng đồng nghĩa với danh từ "lêu lêu mắc cỡ". Tháng 8 năm 1962 tôi gặp lại bạn cũ ở Sóc Trăng là anh Từ Ngươn Đông, anh mách tôi rằng câu: "Canh-ti-na Bồ Kề" do điển "Candidat bồ-ền" là tích anh Long em của Quách Xên, đi thi sơ học năm 1928 rớt nên đó là "sĩ tử bất an" ("bồ ền" tiếng Triều Châu là "không tốt").
Tôi cũng nhớ gần năm mươi năm về trước, tại châu thành Sóc Trăng có một ông già người Huê kiều đầu giát tóc bím, ông người cao lớn dềnh dàng, bình nhựt hiền như Phật, nhưng khi có một đứa trẻ con nào dám nói trước mặt bốn tiếng vô nghĩa lý: "Bổ cu ông già", thì ông giận dữ, đỏ mặt tía tai, chạy theo lấy ống điếu tre bổ "tưới hột sen" trên đầu, vừa khỏ vừa chửi "L… má mầy! Thằng Xích câm xa". Ấy đó: "bổ cu ông già" là "beaucop ông già".
"Xích câm xa" chỉ là "c’est comme cà".
Những danh từ vô tội mà đã khiến nhiều bạn đã bị ông già này rượt nhiều lần như tôi, ai đó xin lên tiếng, chúng ta sẽ hiệp hội ăn mừng và "bồ kề" một bữa!
a) - Dinh Thự, Công sở… Kinh Rạch
Từ Cột Cờ Thủ Ngữ…
Dài theo bờ sông Bến Nghé, nhà phố dân cư đều cất bằng gỗ tạp, tre nứa và lợp bằng lá "cần đóp" (lá lợp nhà chằm theo kiểu Cao Miên) hoặc lợp bằng tranh. Nhà thì làm theo kiểu nhà sàn, nửa phần ở trên đất liền day mặt ra lộ, nửa phần de ra mặt nước, tắm rửa giặt gyạ rất tiện, thêm được cái vừa rẻ tiền vừa hạp vệ sinh.


Cuối đường Tự Do, tại bến đò qua chợ Thủ Thiêm thì có "Thuỷ các" và "Lương tạ" là nhà tắm của vua, cất trên bè tre. Chỗ này đời xưa gọi là "Bến ngự" và. Gần bên nhau có con đò chèo tay đưa rước bộ hành qua lại Thủ Thiêm. Nay bến vẫn còn, duy cô lái đò ngây thơ đẹp đẽ đã thay vào bằng một động cơ ráp trên một chiếc phà chậm chạp, xục xịch tối ngày trên dòng sông bạc. Cô lái đò mỹ miều đã đi đầu thai qua nhiều kiếp khác, có còn chăng là câu hát truyền tụng đời đời:
"Bắp non mà nướng lửa lò,
Đố ai ve được con đò Thủ Thiêm!"
Xưởng đóng tàu chiến cũng ở Thủ Thiêm, đối diện với cơ xưởng Thuỷ quân. Bởi thường có tàu chiến đậu tại đây, nên xóm này cũng gọi là "Xóm Thuỷ trại" nhưng bởi dân ta quen nói tắt nên ưa gọi là "Xóm thuỷ" lâu ngày cũng quen tai. Xóm này cũng gọi "Xóm Tàu Ô" vì đây là trụ sở của bọn Tàu thường trương buồm đen. Chữ là "Tuần hải đô dinh" nghe oai vệ nhưng toán quân này, tiếng là quy thuận chúa Nguyễn, có phận sự tuần tiễu ngoài biển cả sông ngòi và tu tạo chiến thuyền nhà vua nhưng tính cũ khó chừa, rõ là quân cướp biển gặp dịp sơ hở là ra tay, bất luận đối với quân Tây Sơn hay phe Nguyễn chúa. Dân gian đều gớm mặt, đêm đêm trẻ nhỏ nghe gọi hai tiếng "Tàu Ô" là nín khóc.(Tại hãng Denis Frères đầu đường Tự Do, khi bước vô cửa lớn, lên một từng nấc thang, khách sẽ thấy gắn trên tường vài cây súng đồng cỡ nhỏ nạp đạn đàng miệng và châm ngòi hoả mai phía sau đuôi, súng đồng này tiếng nổ dữ hơn tai hại gây ra, nhưng thưở ấy nghe đủ bay hồn, đủ làm bọn Tầu Ô kiêng oai lánh mặt).
Ngang Thủ Thiêm, bên này bờ sông là cơ xưởng thuỷ quân, trước kia quen gọi với danh từ ngoại lai "Ba Son". Nguồn gốc hai chữ "Ba Son" cũng ở trong vòng định chừng. Một thuyết cho rằng "Ba Son" do danh từ Pháp "Mare aux poissons" gọi tắt lại; đành rằng thuở trước kia giữa Arsenal (tên gọi vào những năm 1960 của cơ xưởng Thuỷ quân) có một con kinh đào tay, nhỏ nhưng rất nhiều cá tôm, thuở ấy người Pháp thích câu cá tại đây, về sau xẻo nhỏ lấp đi nhưng danh vẫn còn, cho nên sự Việt Nam hoá tiếng Pháp "mare aux poissons" ra tiếng Việt "Ba Son" có phần đứng vững. Theo thuyết khác lại đổ thừa hồi xưa (đời Bà cổ Hỷ nào đó) đã có một anh thợ nguội tên "Son" là con thứ ba, vô làm sở này, rồi lấy đó đặt tên cho sở nọ, thuyết này vô căn cứ, theo tôi, phần chắc là do mấy bác túng đề cắt nghĩa gượng và xin chừa cho cô hồn phóng sự giải quyết.
Thuyết thứ ba thì cho rằng "Ba Son" do danh từ Pháp "Bassin de radoub" mà có. "Bassin" " "Ba Son", theo tôi cũng có phần đứng vững như thuyết thứ nhất "mare aux poissons". Theo quyển "Promenades dans Saigon", tác giả, bà Hilda Arnold ghi, rằng buổi đầu người Pháp đã xuất ra trên bảy triệu quan thời ấy để lấp đất và xây cái ụ tàu "bassin de radoub" này, để có thể sửa chữa các thứ tàu chiến tàu buôn tại đây khỏi đem về Pháp quốc. Thời ấy, cuộc chuyển vận đều do đường thuỷ, nên cái "bassin de radoub" giúp họ nắm vận mạng xứ này trong tay.




Xưởng Ba Son

Về danh từ "Dinh Thượng thơ" gọi thay danh từ "dinh Đổng lý nội vụ" (Direction de l’Intérieur) truy ra dinh này cất xong năm 1864, tôi đã có nói trong đoạn trước. Từ năm 1946, trở nên "Dinh Thủ hiến Nam Việt" rồi "Toà Đại biểu Nam Phần", sau đó là "Bộ Kinh tế Việt Nam Cộng Hoà".




Dinh Thượng thơ
"Dinh Thống đốc Nam Kỳ" buổi trước quen gọi là "Dinh Phó Soái" vì chức Thống đốc hồi Tây mới qua vẫn nằm trong tay võ quan chức phong "Lieutenant-Governeur". Đến năm 1878 mới có nghị định bãi chức "Phó Soái võ" và giao quyền cai trị cho Thống đốc (văn quan). Thống đốc đầu tiên Le Myre de Vilers. Nay Le Myre de Vilers đã chết ba mươi đời vương, duy còn lại một đầu xe lửa trước chạy đường Sài Gòn - Mỹ Tho, mà mới đây đã giải bản cho về chở củi! Mỗi lần chạy, đầu xe lửa Le Myre de Vilers vừa ho vừa khạc ra khói vừa thét ra lửa, mà có khi không đủ trớn lên dốc cầu Tân An và cầu Bến Lức, trèo lên tuột xuống, lên dốc không nổi… trối kệ, xe cặp bến cũng còi cũng "xả hơi" ồn ào oai vệ khiếp?



Dinh Phó Soái

Năm 1864, người Pháp lập vườn Bách thảo. Giám đốc, ông Pierre là một nhà thực vật học kỳ tài. Ông sanh năm 1833, mất năm 1905, làm giám đốc vườn Bách thảo từ 1865-1877.



Năm 1865, kiểm tra dân số Pháp kiều tại Sài Gòn, đếm được vỏn vẹn năm trăm bảy mươi bảy (577) trự trong số đó có tám mươi (80) thuộc phái đẹp. Vì thế cho nên mỗi lần gánh hát Lang sa qua diễn, vừa hay tin thì các tay có máu mặt lật đật xin giấy phép đua nhau đáp tàu qua Tân Gia Ba (Singapore) để lựa mỹ nhơn và kén chọn ý trung nhơn. Còn lại những bọn kém xu không làm như vậy được hoặc vì phải làm việc trong thâm sơn cùng cốc như Tây đoan, Tây kiểm lâm thì đành lòng tạm gá duyên cùng "chị hai", "chị ba", "thị mẹt" mà mới cũ gì cũng đều khép dưới danh từ thơm tho "con gái"!
Quên nói rằng từ năm 1863 đã có gánh hát Tây qua diễn tại Sài Gòn đây rồi để giải sầu cho khách viễn chinh. Ban sơ họ hát tại nhà cây của Thuỷ sư Đề đốc tại nơi gọi "Công trường Đồng hồ"(Place de l’Horloge) góc Tự Do và Nguyễn Du ngày nay và lúc ấy thì nhà thờ lớn (nhà thờ Đức Bà) chưa có. Kế đó nhà hát Tây được dời về xây tạm ở building Caravelle hiện nay. Còn rạp lớn thì bắt đầu xây dựng lối năm 1898, đến ngày 1 tháng Giêng năm 1900 ăn lễ lạc thành lớn lắm. Giữa hai trận giặc 1914-1918 và 1939, việc đem gánh hát từ Pháp qua đây diễn có trợ cấp khổng lồ của Đô thành, bị nhiều người phản đối và có ý muốn sửa làm nhà hoà nhạc (salle de concert). Về sau nhà hát Tây mất khách ủng hộ vì các tay ăn chơi đều bị các hộp đêm, các quán cơm có nhạc và có khiêu vũ giúp vui thu hút gần hết, còn một mớ khác thì lại thích ciné, chớp bóng nói, vừa lạ vừa hấp dẫn hơn.




Nhà cây của Thuỷ sư Đề đốc nằm ở vị trí về sau là trường Taberd



Một đoàn hát diễn tại sân khấu nhà cây của Thuỷ sư Đề đốc

Tháng Tư năm 1888, có vua Cao Miên, đức Hoàng Lân (Norodon) ngự du Sài Gòn. Chánh phủ Pháp thiết lễ tiếp nghinh trọng thể. Ngài ngự y phục đại lễ Pháp, áo nỉ kết nút kim cương, nón dưa gang (chapeau melon) có gắn hột xoàn thật lớn, nhưng ngài vẫn giữ chăn tơ chân mang giầy da láng kiểu escarpin có gắn hột xoàn.



Hai Pháp kiều Vandelet và Farault đấu giá mua "hoa chi" cho cờ bạc hốt me công khai trên Nam Vang từ 1885 đến 1889, vì nhựt trình (báo chí) la quá mới thôi. Bởi muốn không tốn tiền phụ cấp bạc mặt mà Chánh phủ Pháp nhắm mắt cho làm như vậy, để vua Miên lấy tiền xâu. Một phụ cấp lạ lùng khác trên Nam Vang là mỗi tháng "Nhà nước" phát cho vua và các hoàng thân quý tộc một số á phiện của nhà Đoan, không hút thì bán ra mà xài, hai mối tệ ấy ảnh hưởng rất nhiều đến cách ăn thói ở xứ Sài Gòn thời đó.
Sông Thị Nghè giáp với rạch Bến Nghé, chỗ giáp nước là một cái thoi loi gie ra ngoài sông, phong cảnh rất đẹp, gió mát từ Ô Cấp thổi vào tư mùa. Người Pháp dựng tại đây một cột cờ có tên gọi "cờ Thủ Ngữ" (mât des signaux). Sau đây vì có quán rượu trứ danh chiêu mộ anh hùng mặc khách rất đông, nên bợm rượu đặt tên rất khôi hài là"Mũi đất bọn tán dóc" (Pointe des Blagueurs) truy ra dưới thời Nam triều, chỗ này gọi là "trạm Gia Tân":
"Gia Tân nền tạm thuở xưa,
Ngày nay có dựng cột cờ gần bên".
(Kim Gia Định phong cảnh vịnh, bản in Trương Vĩnh Ký, trang 7).
Trên chót ngọn cờ thường thấy treo ám ngữ, ban ngày là cờ vải, cờ màu, hoặc một quả bóng sơn đen, ban đêm thì treo một ánh đèn, khi trắng khi đỏ, tức là ám hiệu báo tin cho tàu bè biết hiệu lịnh tránh lổ rạn hiểm nguy, ghe thuyền qua lại, trong lúc vô ra sông Sài Gòn.




Cột cờ Thủ Ngữ lúc mới dựng



Nghĩ cho hồi đời xưa, lúc chưa có xe ô tô lộng lẫy thì đi đó đi đây toàn là "cuốc bộ", sang lắm mới được xe kiếng, xe song mã v.v… Bởi các cớ ấy nên khúc đường từ "Dinh Thượng thơ" đổ qua "Dinh Phó soái" rồi ăn xuống tới "Cột cờ Thủ Ngữ" đã kể cho là xa mút tí tè. Ngày nay còn lại câu hát và tích sau đây:
Tiền nhựt, hồi trước có một cặp vợ chồng chắp nối, vợ là tay "dọn bàn" tứ chiếng làm cho Tây, chồng là tụi "nấu ăn" "ba rọi" của Pháp - hai người đụng nhau chung lưng làm nghề bán đồ lâm vố (do Pháp ngữ "rabiot" tức đồ dư; xưa Thống chế Joffre ưa dùng danh từ này nhứt). Ngày ngày đôi vợ chồng thay phiên nhau gánh gồng và đêm đêm mặc dầu mưa gió, anh và chị cũng phải quảy trên vai gánh "đồ Tây" bán như vậy từ đầu đường Tự Do ngang dinh Thượng thơ (Catinat) cho đến tận mé sông chỗ cột cờ Thủ Ngữ (Pointe des Blanguers) đợi khi nào nồi, soong sạch bách thức ăn mới đề huề cùng nhau gánh gánh không về nghỉ. Dè đâu, cuộc làm ăn vừa khá thì anh chồng biến chứng sanh sứa chuyện nọ kia, mèo mỡ bê tha, bỏ gánh lại một mình chị vợ đảm đương, cui cút. Tức quá, chị nghĩ ra câu hát như vầy để tỏ tình: "Thượng thơ, Phó Soái Thủ Ngữ treo cờ, hò, hơ,
Bu-don (bouillon), ỏm lết (omelette), bí tết (beaf steak), xạc xây ờ (sacré),
Mũ ni (menu) đánh đạo, bây giờ mày bỏ tao ơ! Hớ hơ"
Thân làm một mụ già trầu, một chị bếp dốt nát, ngờ đâu khi tâm hồn bị kích thích quá độ, lại sản xuất mấy câu bất hủ làm vầy, vừa lâm ly thống thiết, vừa tế nhị, bình dân. Đố ai sửa chữa hoặc thêm bớt được chữ nào. Ban đầu chị kể đường dài thậm thượt từ trước dinh Thượng thơ trải qua dinh Phó Soái, đoạn đến bờ sông… kể các thức ăn gồm hầm bà lằng xạc xây (sacré) và hổ lốn: nào nước xúp bù don, nào hột gà chiên ỏm lết, nào thịt bít tết, v.v… và v.v… Vừa kể chị vừa nhắc ngày thường chồng vợ nhỏ to thủ thỉ luận câu đạo đức, té ra mấy câu "đánh đạo khuyên đời" này mới rõ dẫu chép ra ắt không đầy tờ giấy lộn ra món ăn (menu): khổ ơi là khổ! Nào khi cực nhọc thức khuya dậy sớm có nhau, bây giờ mới vừa kha khá, ông chồng tôi đành coi nhẹ tình tấm mẳn với tôi, Trời ơi là Trời!
Buổi sơ khởi, hồi Tây mới qua, đời Đề đốc Thuỷ sư Jauréguiberry, người Pháp họ xây được một nhà tạm làm dinh quan Đề đốc, một dưỡng đường để trị bịnh cho các binh lính, một Thánh đường (1860) để lo về phần hồn, thêm một cái ấn quán để in thông cáo và một số ít sách vở cần thiết của chính phủ. Bao nhiêu cơ sở ấy đều dựng lên trong vùng gần nhà thương Đồn Đất. Đến lượt Đề đốc Bonard qua thay thế cho Jauréguiberry, khi tàu ghé Tân Gia Ba, Bonard đặt thợ làm và chở qua Sài Gòn một sườn nhà toàn bằng gỗ, về đây dựng tại nền trường Taberd bây giờ. (Bản đồ toà nhà này còn giữ kỹ tại Viện Bảo Tàng Sài Gòn).
Trước dinh có xây một toà nhà lầu cũng toàn bằng gỗ, trên đỉnh lầu có gắn một đồng hồ rất lớn để báo giờ: nhơn đó đặt tên là "Tour de l’Horloge", nghe được đến. Vị trí cái đồng hồ này ở vùng gần nhà thờ lớn và đường Gia Long nay là Lý Tự Trọng. Chỗ Thư Viện Quốc Gia bây giờ thì có Sở Ngân Khố và nhà Bưu Điện. Còn một trại binh sĩ nữa thì tạm nơi gọi là thí trường, tức Trường Thi hồi đàng cựu (Camp des lettrés), nơi đây ngày nay còn di tích mấy gốc điệp tây to lớn, do người Lang Sa trồng để che nắng cho nhóm đánh quần lăn "cổ loa" (boules gauloises). Cạnh bên là đường Blancsubé và các anh chị xóm nầy thường vỗ ngực xưng "Anh hùng Lăng-Xì-Bề".





Một cảnh thi cữ tại Trường thi

Ngang Thủ Thiêm, gần xóm Thuỷ trại, có một cầu tàu, tục danh "Cầu Gọ", cũng gọi "Cầu Quan", vì ở trong xóm có nhiều quan viên.
Trước khi đi đến kho đạn cũ, bọc theo bờ thành gần cửa Đông "Phan Yên Môn", có một con kinh nhỏ chạy dài ấy là "Kinh Cây Cám" chạy tới đường Lê Thánh Tôn đi ngang Sở Pháo thủ (Pyrotechnie) qua Sở Công binh thuật (Génie) là dứt. Con kinh này, khúc nối dài tới Chợ Cũ thì gọi "Kinh Chợ Vải" vì vải sồ hàng giẻ đều bán tại đây. Chỗ hãng xe ngang nhà hàng lớn Charner thuở ấy có một cái giếng ngọt, tên gọi "Giếng Chợ Vải". Kinh Chợ Vải chạy tới mặt tiền toà đô chính thì dứt.
Còn ở giữa khoảng Sở Thương chánh (Port de Commerce - Sở này có từ 1860) có một con rạch, tục danh "Rạch Cầu Sấu" vì nơi đây có một cái hầm nuôi cá sấu để xẻ thịt bán như ta thấy bán thịt bê thịt nai hiện thời. Rạch Cầu Sấu nối liền kinh Chợ Vải tới một con rạch nhỏ nữa do quan võ Coffyn đào, về sau cả ba con kinh này đều lấp bằng trở nên đại lộ "Đường Kinh Lấp" chạy từ dinh Đô trưởng tới giáp đường Công Lý và đại lộ Hàm Nghi (Boulevard de la Somme cũ).




Hình 1 là Sở Thương chánh (Port de Commerce)

Ngay chỗ sở Thương Chánh (Direction du Port de Commerce) có một cái đồn (fort) và một hành dinh để dành cho quan đại thần từ Huế vào Sài Gòn có chỗ ăn nghỉ. Tương truyền nơi đây có một vài ngôi nhà trước kia là chỗ trú ngụ của Thái Thượng Vương, Tân Chinh Vương và Nguyễn Ánh. (Còn ngay chỗ Viện Bảo Tàng trong vườn Bách Thảo, đời Chúa Nguyễn Ánh có cất một ngôi nhà riêng cho Ông Bá Đa Lộc ở để dạy Hoàng Tử Cảnh, gọi là Dinh Tân Xá. Dường như sườn nhà nầy được dời về cất lại dựa toà nhà của Ông Linh Mục ở đường Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu) như nay còn thấy. (Sau này hội Cổ Học Ấn Hoa "Société des Etudes Indonchinoises" có xây một bia đá kỷ niệm ngay tại nền cũ "Dinh Tân Xá", bia ấy ngày nay vẫn còn, ở về phía tả Viện Bảo Tàng, day mặt ngó ra Rạch Thị Nghè. Tương truyền đám táng Ông Bá Đa Lộc khởi hành tại nơi đây).
Vào năm 1860, chánh phủ Pháp sửa sang đường sá mở ra rộng lớn và cao ráo, chỗ trải đá ong chỗ trải dá xanh, nhưng dân gian còn giữ lòng trung thành với triều đại cựu, còn lánh nạn có ý chống Pháp, nên dầu ở rải rác lơ thơ, cùng chẳng đã, và quang cảnh Sài Gòn thời ấy có thể nói gần giống một bãi tha ma chen kinh rạch chằng chịt chớ không hoa lệ như ngày nay chút nào. Các nhà dinh Lang sa lúc ban sơ đều dùng toàn cây gỗ và xúm xít chung quanh chỗ Ngân Hàng Quốc Gia ngày nay (Banque de l' Indochine cũ).
Những con đường như Bonard (Lê Lợi), Charner (Nguyễn Huệ), de la Somme (Hàm Nghi), Pellerin xưa kia đều là kinh rạch sau này lấp đi, tức nhiên buổi đó đi đến đâu cũng gặp toàn nước và nước. Ngay chỗ Chợ Mới Sài Gòn là một ao sình lầy, Pháp gọi "Marais Boresse", chính ngay chỗ Khám Lớn đã dẹp bỏ, bọc theo đường Lê Thánh Tôn, ta còn thấy cuộc đất thấp hơn đường Gia Long (Lý Tự Trọng) chẳng hạn và hễ đào xuống vài thước sâu là gặp sình non đen nhầy, muốn xây cất nhà phố vững bền phải nhiều tiền và nhiều công xây nền móng kiên cố.
Ngay tại chỗ Toà Tạp tụng và Phá án (1960), gần Chợ Cũ hiện nay, trước kia có một ngôi Thánh đường, gọi "Sainte Marie Immaculée" ăn lễ lạc thành tháng 5 năm 1863, sau phá đi nhường chỗ cho Toà Phá án. Cũng nơi đây xưa là pháp trường, lúc ấy tả đao còn sử dụng đại đao chém tay chớ chưa dùng gươm máy. Hai cây đại đao này mấy chục năm trước còn thấy treo trên vách phía sau chỗ ngồi của viên chúa ngục Pháp Agostini, tại Khám Lớn cũ Sài Gòn.




Nhà thờ gổ tiền thân của nhà thờ Đức Bà về sau trên nền này là tòa Tạp Tụng và Phá Án.

Dinh Tổng thống, dinh cựu Phó Soái, Toà Pháp đình đường Công Lý đều do nhân công nhà binh Lang sa xây cất, thợ Tây xây gạch và làm đồ mộc, phu gánh đất đều là san đá, phu người Việt cũng có nhưng rất ít. Trong bộ ký ức lục (Souvenirs) của ông Doumer kể lại thì giá tiền xây dinh Toàn Quyền (Phủ Tổng Thống) là bốn triệu quan tiền Tây, tức một số tiền to tát vào thời ấy (Souvenirs d’Indochine, Doumer, trang 70). Cái nhà ba tầng lầu ở góc Tự Do - Gia Long (Đồng Khởi - Lý Tự Trọng) bấy giờ cũng là Sở Trước Bạ, vào đời mới xây, có danh tiếng cao nhất, cho đến nay người Trung Hoa còn gọi toà nhà aasy là "Xám xừng lầu" (lầu ba tầng).




Dinh toàn quyền lúc mới xây dựng.

Ngoại trừ những dinh thự của Chánh phủ tu tạo, những nhà kiên cố nhất thời ấy kể ra thì có:
- Nhà thờ Đức Bà.
- Nhà Dòng tu sĩ (Presbytère).
- Nhà Phước Sainte Enfrance.
- Nhà Dòng Saint Paul de Chartres, nhà này tương truyền do ông Nguyễn Trường Tộ ra kiểu và coi xây dựng.




Nhà thờ Đức Bà


Nhà Phước Sainte Enfrance.

Còn trường dạy các quan cai trị (tham biện) danh gọi "collège de Interprètes" thì xưa ở chỗ gọi nhà trường Sở Cọp, sau này xây thêm rộng lớn trở nên trường Sư Phạm, tục danh trường Nọt Manh (Ecole Normale Des Institueurs) rồi là Dưỡng đường Chi Lăng, kế nay là Tổng Giám Đốc học vụ và trường trung học Võ Trường Toản. Trường Collège des Stagiaires (Collège des administrateurs stagiaires) dùng để đào tạo quan cai trị thuộc địa. Giáo sư gồm nhiều nhà thông thái như Luro, Chéon, Trương Vĩnh Ký (Sĩ Tải), Trương Minh Ký (Thế Tải), v.v…




Ecole Normale Des Institueurs

Kể về nhà tư gia và tiệm buôn bán lớn thì năm 1863, có hãng Denis Frères, nay còn thấy y như chầu xưa từ mé sông chạy theo đường Tự Do đến đường Ngô Đức Kế mới dứt. Các nhà buôn khác thì nay đã không còn nên không kể làm chi choán giấy.




Trụ sở hảng Denis Frères

Sau Nhà Thờ Nhà Nước, đường Duy Tân, chỗ Công trường Kỷ niệm Chiến sĩ Trận vong, vào năm 1778 có xây một lầu chứa nước rất kiên cố và cao nghều nghệu, có thang khu ốc lên tận đỉnh chót. Thời ấy đã gọi là kỳ công kiến trúc, in hình bưu thiếp đề là "Château d’eau de Saigon". Về sau, dân cư ngày một thêm nhiều, hồ cung cấp nước không đủ, nên đã bị phá bỏ vào năm 1921.


Château d’eau de Saigon

Những kiến trúc khác như Sở nấu nha phiến đường Hai Bà Trưng, Cầu Mống qua Khánh Hội, Cầu Quây qua bến Nhà Rồng, xưa lập năm nào tôi truy không ra.




Sở nấu nha phiến

b) Từ lộ mé sông vào Chợ Lớn.
Con đường dài theo mé sông chạy thẳng vô Chợ Lớn, người Pháp đặt là "Route Basse"(ta đồng thời cũng gọi là Đường Dưới) để đối chiếu với đường "Route Haute" (ta gọi Đường Trên).
Đường Trên trở nên con đường Võ Tánh (nay là Nguyễn Trãi). Con rạch dài theo Route Basse, chính là rạch Bến Nghé. Từ ngày Pháp sang đây, đố kỵ danh từ Bến Nghé là một, hai là thấy dọc theo rạch có nhiều nhà cửa người Tàu, di tích sót lại của xóm dân Minh triều sợ Tây Sơn về đây lập vùng Đề Ngạn (địa đồ cũ của Pháp ghi Bazar Chinois), nên đặt tên rạch lại là "Arroyo chinois".
Theo Gia Định thông chí, Trịnh Hoài Đức kể lại, thời đại Miên triều, xửa xưa, chỗ này vốn cây cối rậm rạp. Một bầy trâu rừng từ đâu kéo đến tụ hội nơi dây, nửa đêm trâu mẹ lạc mất nghé con; canh khuya lặng lẽ rống kêu con mấy tiếng vang rền: "Nghé ọ! Nghé ọ" nghe trả lời văng vẳng đâu đây, nghe vậy mà tìm hoài không thấy bóng thấy tăm, trâu mẹ nóng tình mẫu tử, hiệp sức với đoàn trâu cổ, ruồng phá suốt canh thâu. Rạng đông, con rạch đã khai thông, lấy tích ấy đặt tên "Kompong Krabei", sau này ta dịch "Vàm Bến Nghé" chữ viết là "Ngưu Chử".
Còn danh từ "Nhà Rồng" là do tích trên nóc nhà hãng tàu chạy biển (Pháp gọi Messageries Maritimes) có gắn đôi rồng bằng đất nung tráng men xanh, ngày nay còn sừng sựng. Nhà này tạo lập hồi Pháp vừa qua đây, nay gần đúng trăm tuổi, nhưng nghe đâu sẽ phá nhường chỗ cho một dẫy lầu chọc trời. Thuở ấy, hai bên rạch Arroyo Chinois nhà sàn cất san sát, dân cư trù mật, nhưng khúc chợ sung túc hơn cả thì ở vào khoảng từ cột cờ Thủ Ngữ chạy đến cầu Mống mút đường Công Lý, xóm này có tên riêng là "Dãy Thầy Bói" cũng gọi là "Đường Thợ Tiện". Đây là dãy nhà đẹp nhứt thuở "cựu trào" phong lưu nhứt đời đó, vừa giàu vừa sang. Mà có chi đâu cho đáng danh từ vừa đẹp vừa sang: thay vì cột tạp cột tràm là được bộ cột gỗ danh mọc gõ, cẩm lai, mây núi; thay vì lợp lá lợp tranh thì được nóc lợp ngói; thay vì vách ván vách đất, được vách có phong tô hẳn hoi, chỉ được bấy nhiêu ấy mà đã gọi giàu sang tột bực, mấy chú nhà quê buổi đó đi ngang dừng chân hít hà: "Hứ! Nhà gì cột bóng ngó thấy mặt, vách rờ mát tay!"; không bì như bây giờ, nhà cao chọc trời còn muốn cao thêm, sẵn thang máy rút, phòng có máy lạnh còn chê chưa vừa ý muốn! Xưa người thưa đất rộng, xây nhà đếm căn, nay đất ít đông người, xây nhà kể từng, xưa một cắc một thước vuông đất chợ, mà dân không có tiền mua, nay đất ngoại ô mấy trăm mấy ngàn một thước cũng có người tậu để dành làm giá, ngày sau khi bán dễ siết họng.

Nhà Rồng

Từ Cầu Mống chạy giáp chợ Cầu Ông Lãnh là địa phận làng Long Hưng Môn, nhà cất tấp nập chen chúc theo mé sông.
Trong tập khảo về Tôn Thọ Tường, ông Khuông Việt có ghi rằng nhà Tôn Thọ Tường ở làng Nhơn Hoà Xã, ranh giới làng này chạy từ Rạch Cầu Kho đến đại lộ Kitchener và căn cứ theo Tôn Thọ Võ, con nuôi thứ hai của Tôn Thọ Tường thì ngôi nhà này toạ lạc tại ngã ba dưới Cầu Ông Lãnh phía Chợ Lớn gần dinh Lãnh sự Việt Nam Nguyễn Thành Ý, và gần nhà ông Trần Ngươn Vị. Tôn vay ba trăm đồng bạc "con ó" (piastres mexicaines) của trạng sư Blanscubé, tờ vay bạc có thông ngôn Janneau chứng kiến để xây cất nhà này. Về sau Tôn mất, con là Thọ Võ bán nhà một ngàn quan tiền Lang sa (trang 54-55, Tôn Thọ Tường, Khuông Việt).
Nhà Tôn có treo đôi liễn
"Anh hùng hà xứ bất,
Quân tử kiến cơ nhi".
Con đường Boresse cũ (nay là đường Yersin) thời đó là một con đường kỳ lạ nhứt. Hai bên đường chòi lá lụp xụp, ẩm thấp, bầy hầy. Đây là xóm Mọi Lào, trong số Chàm, Miên, Lào đều có, đời đàng cựu bị bắt bán mọi, nay người Pháp đánh đòn tâm lý, ra lịnh phóng thích và cho phép tụ họp nơi con đường này. Họ sanh nhai bằng nghề ít vốn là lên rừng đốn lá dừa nước đem về đương gàu lá để múc nước giếng.


Đường Boresse 



Sau này bọn Mọi Lào đều chết già hoặc chết lần mòn hoặc giả di cư theo con cháu đi làm ăn xứ khác. Đường Borresse cũng như đường Lefèbvre, đổi lại một nghề mới không thua sự quái gở là gái mãi dâm làm ăn công khai ngoài đường từ chạng vạng nhá nhem cho đến khuya lơ khuya lắc, tụ tập ngoài phố lả lơi níu kéo, bày trò khả ố, má trét phấn chì môi bết giấy khói nhang, đem đổi rẻ một hai hào bạc. Cô nào tốt số gặp khách sộp cho năm cắc một đồng bạc, còn coi quý hơn tờ giấy bạc một trăm hai trăm bây giờ; qua ngày sau, tiếng đồn rùm, tặng đó là "huê khôi" phở lở! Danh từ "đ… Bồ Rệt" có thua gì danh từ "Anh chị Bồn Kèn".
Năm 1913, xã trưởng Cuniac sai lấp ao lầy "Marais de Boresse" và xây cất toà Chợ Mới. Bọn gái mãi dâm châu Âu, gồm gái tứ chiếng: Hy Lạp, Lỗ Mã Ni (Rumanie), Ba Nhĩ Cán (Balkan) không ưa gần gụi gái "Bồ Rệt", lập riêng xóm Bình Khang đường Fillippini, d’Espagne và Mac Mahon. Chiều chiều lính sơn đá cười giỡn trêu đùa ngoài đường, đánh ma ní tay tư (Mannille à quatre) thua phải trả bốn cốc khai vị (consomation), vừa đúng 8 cắc bạc (0$80) đã là sạch túi! (Bạc quan thời ấy tính một đồng bạc Đông Dương ăn 2,15franc đến 2,20franc). Góc Bồn Kèn tứ diện có bốn nhà hàng rượu tây, ăn khách từ sáu giờ chiều đến hai giờ khuya, sau dẹp dần chỉ còn lại quán Pancrazi là giỏi chịu đựng nhứt. Quán Café de la musique ở góc đường Tự Do và Lê Lợi ngang Nhà Hát Tây, năm 1905 sang cho lão quán Pancrazi, kế biến thành nhà thuốc tây Solirène, rốt lại là nhà bán kem Givral.



Marais de Boresse trong bản đồ 1878


Nhà thuốc tây Solirène về sau là Givral

Cái Cầu Quan đã nói nơi đoạn trước, chính ở gần con đường Bồ Rệt, đúng ra đường Kitchener, chỗ ấy nay còn một ngôi đình, một rạp hát bội còn giữ tên xưa "Đình Cầu Quan" và "Rạp Hát Cầu Quan" như lúc cựu thời.
Còn gái Nhật Bổn thì tụ tập khỏi Bót Nhì (Commissariat du 2è Arrondissement) Cầu Ông Lãnh, đóng đô trên dãy lầu ngó mặt xéo qua Bót Nhì. Năm 1914, trước ngày có tin xảy ra trận châu Âu đại chiến, gái Nhật được mật lịnh bên xứ tự rút lui về đảo Hoa Đào, từ ấy không trở qua Sài Gòn nữa.
Rạch Cầu Quan chạy tới Xóm Lò Heo là rạch Cầu Ông Lãnh. Gọi làm vậy vì đây có cái cầu bằng cây danh mộc do ông Lãnh binh xuất tiền ra làm, cũng như trên rạch Thị Nghè, gần vườn Bách thảo, có cầu Thị Nghè, con gái ông Vân Trường Hầu, xuất tiền ra cất. Tích này nhiều người biết. Chồng bà là một ông Nghè chính cống; làm lại mục trong dinh Tả quân. Bà thương chồng, không muốn chồng sang đò cực thân nên tu kiều, âm đức lưu truyền đến ngày nay, cũng là một gương sáng soi chung thiên cổ.
Xóm Lò Heo đi vô một đỗi là đến "Cầu Rạch Bần". Nơi đây, năm xưa lối 1920, tôi có quen một vọng tộc họ Võ. Chủ gia có kể lại cho tôi nghe một chuyện nay. Nơi đây, năm xưa lối 1920, tôi có quen một vọng tộc họ Võ. Chủ gia có kể lại cho tôi nghe một chuyện nay nhắc lại với cả sự dè dặt là chuyện Võ Phi Loan trong chuyện Lục Vân Tiên, Ông Đồ Chiểu là "rể hụt " của gia đình này. Bởi mất vợ vì "mù loà người ta không gả con" nên ông Đồ không quên ghi lên tờ giấy trắng họ danh của con người đen bạc.
Khỏi chợ Cầu Ông Lãnh một đỗi thì gặp "Cầu Muối", vì thuở xưa, những thuyền đi biển (ghe cửa) chở muối lại đổi chác với người Sài Gòn đều đổ bến tại đây. Trong xóm có những kho bằng lá của đàng cựu dùng chứa muối. Ngày Sài Gòn bị Tây chiếm, binh ta rút lui, bỏ lại đây trơ trọi mấy dãy nhà xơ xác, mặc tình mưa sa gió táp. Chốn này cũng còn giữ được một rạp hát bội và một ngôi đình xưa để y tên cũ: Rạp hát và đình Cầu Muối.
Khỏi Cầu Muối thì đến Cầu Kho, rồi đến Xóm Bà Tiệm. Gọi Cầu Kho vì xưa đây là "Kho Cẩm Thảo" của nhà vua xây để tích trữ lương mễ từ Lục Tỉnh tải lên cống nạp. Tên chữ khác gọi là "Tân Triêm Phường".
Từ Cầu Bà Tiệm vô xa chút nữa là tới Cầu Bà Đô. Đây là địa phận làng Hoà Thạnh và làng Tân Thạnh, tục danh "Xóm Lá" (bán lá lợp nhà) và "Xóm Cốm" (bán cốm, cốm chùi). Bờ sông đối diện cũng trữ và bán lá nên cũng gọi luôn là "Xóm Lá".
Từ Cầu Bà Đô vô xa chút nữa thì đến Cầu Hộc là địa phận làng Bình Yên. Dân cư tại đây sinh sống bằng nghề đổi chác với ghe cửa và thuyền buồm từ Huế trẩy vô Nam. Gọi Cầu Hộc làm vậy vì tại đây xưa có một cái giếng xây miệng vuông vức như cái hộc đong lúa (giếng hộc). Cụ Trương Vĩnh Ký thuở sanh tiền thường khen giếng này nước ngọt nấu trà thơm ngon không nước giếng nào bì.
Từ Cầu Hộc vô xa chút nữa, thì đến một cái đập gần dưỡng đường Chợ Quán. Đó là làng Tân Kiểng, tục danh "Xóm Lò Rèn Thợ Vắp". Nhà thương Chợ Quán cất trên đất thuộc làng xưa "Phú Hội Thôn". Tại đây có một lò hầm vôi. Khỏi dưỡng đường Chợ Quán một đỗi có một cây cầu dùng làm ranh giới làng Đức Lập và tiếp theo đó là làng Tân Châu, tục danh "Xóm Câu" vì dân cư chuyên nghề hạ bạc. Xa thêm một đỗi nữa là làng An Bình Thôn tục danh "Xóm Dầu", chữ gọi "Phụng Du Thôn" (bán dầu phộng).
Từ Xóm Dầu chạy vô nhà máy xay cũng còn là làng An Bình. Đối diện bên kia rạch là làng "An Hoà" của phường Vạn Đò. Tại đây có con rạch có tên "Rạch Bà Tịnh" cầu tại đây cũng gọi là "Cầu Bà Tịnh". Rạch Bà Tịnh chạy từ nhà máy xay trở ra đường Võ Tánh, đến một cây me đại thọ thì dứt. Gốc me này lối năm 1952 tôi còn thấy nhánh gốc cằn còi có vẻ cổ thụ lắm; năm 1957, có việc đi trở lại xóm này thì gốc me xưa đã mất hay là do búa đô thành đã đi trước tôi rồi? Trước đây, lối năm 1955, "Cháo trắng Cây Me" tiếng đồn ngon nhất, khuya nào cũng kéo nhóm phong lưu xa mã về cười giỡn nơi đây!
Xa vô trong một đỗi nữa thì tới Vịnh Bà Thuông, rạch này do Phó Tổng trấn thành Gia Định Huỳnh Công Lý đứng xem đào, hồi năm 1819, rạch chạy từ đây ra ngã tư. Xóm này là xóm xay lúa giã gạo. Tại đây có một cái giếng nước ngọt hữu danh, mang tên Pháp là "puits d’Ardan". Cũng lạ: puits d’Ardan trước kia ở bên kia bờ sông. Sau nước Vịnh Bà Thuông xoáy mạnh và chảy dộng vô giếng thét lâu ngày ăn đứt mất khuỷnh đất ấy rồi giếng lọt vào giữa vịnh, kế biệt tích luôn. Bà Thuông chữ gọi Thị Thông. Xưa nơi đây có cầu Thị Thông và An Thông Hà.
Từ Cầu Bà Thuông chạy vô tới Cầu Sắt là làng An Điềm. Nơi đây đột khởi một đồi đất chỉ vừa bộng giếng, bốn phía nước sông bao vây, tư mùa đục, mặn, chỉ duy nước giếng tràn lên là ngọt, mát; xét ra mạch nước ở sâu và xa ngầm đến, tên chữ Tấn Tỉnh. Đời ấy ghe thuyền múc nước chở đi bán xa gần là múc nước giếng này (Đại Nam Nhất thống chí, Nguyễn Tạo dịch, trang 65). Xóm An Điềm, mé rạch có tên riêng là "Xóm Chỉ" (xưa bán kim chỉ) nay còn thông dụng. Cầu Xóm Chỉ bắc qua Xóm Đầm ở bên kia mé rạch.
c) Bên kia rạch Bến Nghé
Kể dài theo bờ rạch là làng: Khánh Hội, Tân Vĩnh, Vĩnh Khánh, Bình Xuyên và Tứ Xuân (Làng Vĩnh Hội sau này là do các làng Khánh Hội, Tân Vĩnh và Vĩnh Khánh gộp chung lại). Ranh làng Tứ Xuân đụng rạch Ông Bé, tục danh là Xóm Te (Te lá giủi dùng để đánh cá. Giủi trong Nam gọi là "nhủi"). Kế đến làng An Thành (sau đổi thành Tuy Thành), làng Bình Hoà (Thạnh Bình), tục danh Xóm Rớ (Rớ là một thứ lưới có thể cất lên cất xuống được). Kế đến An Hoà Đông, Hưng Phú (Xóm Than). Trước khi vô đến Chợ Lớn, ngang Xóm Than, có một giếng gần mé sông, tên gọi "Giếng Hàng Xáo", vì dân đổi nước đem về nấu ăn vẫn đồn đãi và đua nhau đến giếng này giành giựt đổi chác:
"Giếng Hàng Xáo múc lao xao,
Kẻ chở thuyền người chuyên bộ…"
(Gia Định vịnh, trương 9)
Xét ra, khi chưa đặt ống nước và dựng nhà máy lọc và dẫn nước xa về Sài Gòn, thì vấn đề giếng ăn là lợi hại nhứt trong đời sống người dân thưở ấy. Thậm chí các quan Tây, nhà nào không có hầm chứa nước mưa thì cũng ăn nước giếng, và giếng nào nước tốt thì nổi danh khắp vùng.
Từ Xóm Than vô Chợ Lớn, hai bên bờ sông, nhà sàn san sát. Chỗ nầy ghe thuyền miền Lục Tỉnh lên đậu kẹo lền, nào ghe lườn đánh rỗi, bán bánh, kẹo, cháo, v.v… bán đến khuya lơ khuya lắc, vẫn còn nghe tiếng gái rao hàng lanh lảnh dưới sông, hò, hát, nghêu ngao, tục gọi: "bán vàm", "bán rổi".
d) Cầu và Kinh Rạch Vùng Chợ Lớn…
Dọc theo kinh Chợ Lớn có nhiều cầu cao cẳng, đặc biệt của xứ Chợ Lớn, vì cầu rất cao có bực thang bộ hành lên xuống dễ dàng, xe đạp dắt tay hoặc khiêng vai qua lại không khó, nhưng bất tiện là xe cộ chạy qua không được, cầu nầy cốt ý làm ra để giúp người hai bên cầu qua lại bằng chơn khỏi đi đò đi ghe lâu lắc, duy xe cộ phải chạy vòng ngã khác, còn đường nước vẫn lưu thông, ghe chài và tàu có thể chun qua lòn lại không trở ngại lắm. Kể sơ là:
1. Cầu Xóm Chỉ, ngay con đường Tản Đà;
2. Cầu Chợ Lớn, trở vô Chợ Lớn cũ;
3. Cầu Chà Và, gọi làm vậy vì xưa đây là Phố Chà bán vải;
4. Cầu Xóm Củi;
5. Cầu Ông Lớn (vì xưa dân không dám gọi tên Đỗ Hữu Phương;
6. Cầu Bót Bình Tây qua Bình Đông;
7. Cầu Ba Cẳng trổ ra đường Cambodge và Yunnan;
8. Cầu có bực thang trổ ra đường xuống đường Gò Công;
9. Cầu Palikao, (gần đây có nhà giàu bực thứ tư là Hộ Định);
nhưng kể hoài không dứt, chỉ thêm bực trí. Vậy xin để tạm đó, tạm thời nhắc lại Chợ Lớn thưở xưa có hai đường thuỷ thông thương với Mỹ Tho và miền Hậu Giang, có thể nói là hai đường sanh mạng giúp sự chuyên chở thổ sản và mễ cốc miền Tây được mau chóng và rẻ tiền:
1. Thứ nhứt là Rạch Chợ Lớn nối liền Rạch Cát (Sa Giang) với Rạch Bến Nghé, do Kinh Ruột Ngựa (Mã Trường Giang) đào năm 1772, và Rạch Lò Gốm.
Tại ngã ba Rạch Chợ Lớn và Rạch Lò Gốm, có  ăn thông đến phía sau Đồn Cây Mai. Gọi Kinh Vòng Thành, vì khi người Pháp chiếm Sài Gòn vào tháng mười một năm 1862, theo dự án Coffyn, thì Đô Đốc Bonard truyền đào kinh nối liền Rạch Chợ Lớn đến Rạch Cầu Kiệu, để làm cho có một đường nước bao bọc vùng Sài Gòn Chợ Lớn trở thành như một cù lao. Có cả thảy bốn chục ngàn nhơn công ra đào kinh ấy, định bề ngang hai mươi thước, bề sâu sáu thước, băng qua Đồng Tập Trận, dài lối sáu cây số (6km). Nhưng công việc dở dang thất bại, và Đô Đốc Bonard đành bỏ nửa chừng công tác ấy.




Kinh Vòng Thành (Canal de Ceinture)

Đoạn Rạch Chợ Lớn, từ Cầu Sắt tới Rạch Lò Gốm, trước kia có Rạch Phố Xếp đào năm 1778, gần đây đã lấp thành Đại lộ Tổng Đốc Phương.
Khúc rạch chạy từ đường Vân Nam (Yun-nan) đến Cầu Ba Cẳng, (trước hãng xà bông Trương Văn Bền) xưa đào năm 1782. Trên đoạn này có Cầu Sắt, Cầu Đường, Cầu Vân Nam (bắc ngang Rạch đường Vân Nam), Cầu Khâm Sai (sau cất lại đổi tên là "Cầu Ba Miệng"), và cầu Phước Lâm, tại đường Xóm Vôi. Cầu Phước Lâm là cầu từ Cầu Sắt đến Rạch Lò Gốm sau lấp đi trở nên đường Khổng Tử (Gaudot cũ và Bonhoure cũ) thêm một khúc là đường Trang Tử (quai de Fou-kien) và Bến Xe Đò. Khi lấp rạch thì các cầu cũng bị triệt hạ.
Đoạn từ Rạch Lò Gốm vô Rạch Cát, tại đường Danel (nay Phạm Đình Hổ) ngay Đồn Cây Mai, có cầu có bực thang, tiếng Pháp là Pont Danel, ta đặt tên Cầu Công Xi Heo. Kế bên có lò heo Đô Thành, từ ngày lò làm heo được dời về Chánh Hưng thì trụ sở lò heo sửa lại làm trường học chi nhánh Trường Cây Gõ. Dọc theo rạch, phía tay trái có con gạch nhỏ của Lò Siêu trên có bắc cầu gọi "Cầu Khum".
Đoạn đường Minh Phụng, bắc ngang qua Rạch Lò Gốm, có Cầu Cây Gõ. Cầu này khi xưa làm bằng sắt trên lót ván, nhưng hai bên dốc cầu quẹo xuống đường Lò Gốm và Phú Lâm, cao và gắt, nên thường xảy ra nạn xe kiếng lật đổ nơi đây. Từ năm 1924, cầu nầy được đúc lại bằng đá sạn và đã bớt nạn xe ngã. Nới vô trong gần Lò Lu, thì có Cầu Bà Kế, vì ăn thông với đường Bà Kế, nay là đường Phú Lâm, và có "Cầu Xây", loại cầu nầy làm bằng cây lót hai tấm ván có tay vịn, nhưng từ khi mở con đường Renault và cầu đúc Renault, (nay là đường và cầu Hậu Giang) thì Cầu Xây đã dẹp.
Dọc theo Rạch Lò Gốm, về phía tay mặt có con rạch nhỏ của lò làm gạch hiệu Quảng Di Thành, đào để tiện chở chuyên đất hầm gạch từ Phú Định, (nay là phía tay trái đường Hậu Giang), trên con rạch nhỏ nầy có "Cầu Chú Bon", cột bằng sắt. Tại Cầu Bà Kế trở bên tay mặt, có Rạch Ông Buông, chảy một nhánh tới làng Tân Hoá, một nhánh tới làng Tân Khai. Trên nhánh đi Tân Khai có cầu sắt gọi "Cầu Đồn", vì ở trên đường trô" ngay trước Đồn Phú Lâm. Trên nhánh đi Tân Hoá có "Cầu Tre", Cầu Xe Lửa (xe chạy đường Sài Gòn - Mỹ Tho) và Cầu Ông Buông tại bót Phú Lâm là trên đường đi về Lục Tỉnh. Còn khoảng rạch từ bót Phú Lâm tới ngã ba Rạch Lò Gốm thì có cầu cây của tư nhơn bắc để đi qua chùa Giải Bịnh (nay gọi Thiên Trước Tự).
Rạch Chợ Lớn, ngày xưa là đường giao thông thạnh vượng. Tại chỗ bến xe, ngày trước ghe chài đậu tấp nập để vô ụ ghe sửa chữa. Ụ ghe ngày nay trở nên Chợ Bình Tây do ông Thông Hiệp hiến đất để xây cất. Dọc hai bên Rạch Lò Gốm, xưa có lò gạch: lò Tín Di Hưng, Quảng Di Thành, Hiệp Hưng; thêm có lò siêu và lò làm lu.
Lò gạch Tín Di Hưng, tại ngã ba Kinh Vòng Thành nay đã dẹp, trên khu đất nầy nay phố xá cất đông đúc.
Lò siêu Bửu Nguyên nay cũng nghỉ việc, trở nên lò làm ve chai và làm giấy súc. Lò gạch Quảng Di Thành, tại Cầu Chú Bon, cũng dẹp, nơi đây nay có nhà chuyên làm giấy súc.
Còn lò lu thì sau đổi thành lò chén, nhưng cũng không phát đạt cho lắm.
Lò siêu ở sau Đồn Cây Mai cũng dùng Kinh Vòng Thành để ra Rạch Chợ Lớn. Nay rạch Kinh Vòng Thành đã cạn và lò siêu cũng thôi hoạt động.
Đối diện lò siêu Bửu Nguyên, bên tay mặt Rạch Lò Gốm, khi xưa có giếng Hộ Tùng, giếng xây hộc vuông, nước thật ngọt và trong mát, mùa hạn nắng, ghe đổi nước từ Chợ Đệm, Bến Lức, Cầu Ông Thìn, Cần Giuộc, Cần Đước… đều đua nhau chen chúc đến nơi đây, gây cảnh tấp nập ồn ào. Từ khi lấp Rạch Chợ Lớn, thì Rạch Lò Gốm, Kinh Vòng Thành không thông thương và cạn lần. Các lò gạch, lò lu, lò gốm, lò siêu, sinh kế đã mất, cũng dẹp lần. Ngày nay xóm Lò Gốm chỉ còn sót lại cái tên trơn, mà không sản xuất đồ gốm nữa.
Trở lại vấn đề tìm hiểu thêm về vị trí Sài gòn
2. Con đường thuỷ thứ nhì là Kinh Chợ Lớn cũng gọi là Kinh Tàu Hũ (Arroyo Chinois).
Vùng Chợ Lớn thưở nay buôn bán thạnh vượng một phần lớn là nhờ Kinh Tàu Hũ nầy. Đây là đường thuỷ vận nối liền Sài Gòn với các sông ngòi chảy xuống miệt Hậu Giang. Con đường thuỷ nầy tiện lợi vô cùng vì đã thâu ngắn đường ghe thuyền tránh được nguy hiểm khỏi trổ ra đường biển để vào Cửa Cần Giờ. Tàu nhỏ, ghe thương hồ, các ghe chài "ăn lúa" từ Bạc Liêu, Bãi Xàu, Sốc Trăng, kéo lên, hoặc thuyền "cá đen" Biển Hồ (Nam Vang) đổ xuống, đều noi theo Kinh Tàu Hũ nầy mà "ăn hàng", "ăn gạo", hoặc đợi "cất lúa" lên cho các nhà "tầu khậu" và nhà máy xay Chợ Lớn, cũng như nhờ con Kinh Tàu Hũ nầy để giao dịch với thương cảng và các tàu hàng buôn xuất ngoại.
Con kinh nầy, ngoài việc lợi ích giao thông về kinh tế còn là con đường chiến lược, thưở xưa tàu binh Pháp đã mượn nó mà đến vây Đồn Cây Mai và thuận đường đánh úp chợ Mỹ Tho. Con Kinh Tàu Hũ đã từng chứng kiến những biến cố lịch sử đau thương của ta và lịch sử nó đã được ghi rành trong cận sử Việt.
Khảo ra vì Rạch Chợ Lớn cạn hẹp, (cũng vì thế nên sau Pháp lấp bỏ) nên để có một con kinh rộng lớn hơn, năm Gia Long thứ 18 (Kỷ Mão, 1819), Vua hạ lịnh cho đào Kinh Tàu Hũ. Phó Tổng Trấn Gia Định Thành là Huỳnh Công Lý, (cha vợ Vua Minh Mạng), được phong làm Khâm Sai, hiệp với ông Tổng Thanh Tra Gia Định, điều khiển mười một ngàn bốn trăm sáu chục nhơn công (11.460), chia làm ba tốp, mỗi dân công có lãnh một số tiền và một khẩu phần, khởi công ngày 23 tháng giêng, đến ngày 23 tháng tư năm Kỷ Mão (1819) là hoàn thành, đúng ba tháng. Con kinh này bắt đầu từ Cầu Đề Thông (nôm gọi là Cầu Bà Thuông) chạy đến ngã tư sông Rạch Cát. Sách nói kinh dài 2.129 tầm và 1 bộ, bằng chín dặm rưỡi, (mỗi dặm 576 thước tây = 576 x 9,5 = 5.472 m). Bề ngang rộng mười lăm tầm (mỗi tầm 8 xích, tính ra 0,32 x 8 x 15 = 36m90). Bề sâu được 9 bộ (mỗi bộ 6 xích = 0,32 x 6 x 9 = 17m28). Mỗi bên kinh có chừa một bờ đất rộng 8 tầm, bờ kinh ấy thông liền với đường sứ rộng sáu tầm. Đào rồi, Vua Gia Long đặt tên khúc kinh ấy là An Thông Hạ.
Nay ráp với đoạn Chợ Quán và Cầu Ông Lãnh, gọi chung là Kinh Tàu Hũ (Tài liệu rút trong Phổ Thông số 15 ngày 15-7-1959, bài của ông Lê Ngọc Trụ viết).
Theo bộ Gia Định Thông Chí của ông Trịnh Hoài Đức, thì vốn là lạch nhỏ cũ đào rộng ra, nhưng xét qua địa đồ xưa của ông Trần Văn Học vẽ về tỉnh Gia Định trước năm 1815 thì không thấy có con rạch nhỏ ấy.
Theo sử, Rạch Chợ Lớn chứng kiến hai trận chiến tranh:
1 - Thời Nguyễn Ánh, binh Tây Sơn tàn sát người Hoa Kiều nơi chỗ gọi "Thầy Ngôồn" (Đề Ngạn), trong ba tháng "không ai dám rớ tới miếng cá miếng tôm" (1782).
2 - Thời Pháp chiếm Sài Gòn, thuỷ quân Pháp dùng khinh pháo hạm Jaccaréo án ngữ trên Kinh Chợ Lớn, đậu tại đầu đường Tản Đà (vì thế họ đặt tên đường ấy trước kia là đường Jaccaréo), còn một chiếc khác họ đậu tại sông Rạch Cát để bao vây Đồn Cây Mai của Nguyễn Tri Phương.
Con Kinh Chợ Lớn thường nổi cồn cát cản trở sự thông thương và phải được vét hoài mới dùng thuận tiện.
Dọc hai bên bờ kinh, có nhiều nhà máy xay gạo như hiệu Nam Long, hiệu Kiến Phong, là danh tiếng nhứt, đều của Hoa Kiều và nhiều chành lúa gạo dựng san sát kế liền nhau từ Bình Tây đến Bình Đông. Hãng rượu Bình Tây cũng ở về hữu ngạn Kinh Chợ Lớn nầy. Những cầu bắc ngang Kinh Chợ Lớn kể từ Chợ Lớn Cũ trở vô Bình Đông thì có Cầu Chà Và dùng để đi qua Xóm Củi, Cầu Bót Bình Tây và Cầu Hãng Rượu. Cầu Bót Bình Tây và Cầu Hãng Rượu là loại cầu có mang cá, xe cộ muốn qua phải theo hai mang cá tả hữu leo lên. Hai dãy nhà máy nầy được một thời thạnh vượng. Qua đời Nhựt Bổn chiếm Sài Gòn các nhà máy nầy bị Nhựt trưng dụng về quân sự, trở nên những đích cho máy bay Đồng Minh dội bom. Năm 1945, có một trận bom dội xuống trúng nhằm nhà máy Nam Long, khiến thường dân vô tội chết rất nhiều.
Còn giữa khoảng Rạch Lò Gốm và Kinh Chợ Lớn, có kinh gọi Kinh Hàng Bàng nối liền hai đường thuỷ nầy do khúc kinh đường Vân Nam hiệp thành một ngã ba và nơi đây có cây Cầu Ba Ngã. Cầu nầy nguyên khi xưa làm bằng sắt lót ván, vì một cuộc hoả hoạn xảy ra ở đường Gia Long (nay là đường Trịnh Hoài Đức), thiên hạ bu đông trên cầu để đứng xem, dồn dập quá sức chịu đựng, nên cầu sập. Sau nầy xây lại cầu đúc sạn cốt sắt và đặt tên là Cầu Ba Cẳng.
Dọc kinh đường Vân Nam đến Cầu Ba Cẳng, trước mặt hãng xà bông Trương Văn Bền, nay đã lấp bằng. Chỉ còn khoảng từ Cầu chạy ra tới Kinh Chợ Lớn là có nước chảy.
Bắc ngang khoảng kinh nầy, dọc theo Kinh Chợ Lớn thì có Cầu Ông Lớn (Tổng Đốc Đỗ Hữu Phương). Còn từ ngã ba Cầu Ba Cẳng đến Rạch Lò Gốm, có cả thảy năm cây cầu:
- Cầu nấc đường Gò Công, xe đi không được, đã kể rồi!
- Cầu Palikao.
- Cầu nấc đường Minh Phụng.
- Cầu Kinh.
Hai cầu nấc kể sau đây nay đã thay bằng cầu đúc: cái thứ nhứt là Cầu Bình Tây mấy năm về trước, còn chở chiếc xe điện Bình Tây qua Chợ Lớn Mới, cái thứ nhì là cầu đúc Bình Tiên. Kinh chỗ nầy gọi Kinh Hàng Bàng, vì khi xưa dọc hai bên bờ kinh có trồng cây bàng bóng to mát mẻ, thường có ghe chài đậu tại kinh nầy nhiều vì có ụ sửa ghe (sau lấp bằng trở nên Chợ Lớn Mới). Hai dãy nhà hai bờ kinh phần nhiều là của người Tàu, nhà cất khít sát nhau chen chúc. Bản tính người đàn bà Tàu hay tiện tặn, đụng gì cũng cất để dành, xác mía, dăm bào không món nào bỏ, nhưng đàn bà Tàu cũng có tánh rất lơ đễnh khinh thường, thêm trẻ con của người Tàu có tánh ưa chơi lửa, nên hoả hoạn xảy ra rất thường. Khoảng đầu năm 1923, lối tháng Giêng âm lịch, một cuộc hoả tai tàn khốc chưa từng thấy, xảy ra. Hai dãy nhà lá và ngói từ khoảng Cầu Bình Tây chạy suốt đến Cầu Đúc Bình Tiên đều làm mồi cho lửa. Lửa gặp gió chiều càng mạnh dữ thêm, nên dân cư phần lo dọn đồ đạc, lớp lo cõng con dắt mẹ, la khóc rùm trời. Sức lửa mau lẹ cứu cấp không xuể, lửa dồn người ra giữa đường và từng cơn gió, lửa táp vào người một cách rùng rợn không tả xiết. Túng thế nạn nhơn nhảy xuống kinh, nhưng than ôi, nước dưới kinh lại nóng như sôi, nạn nhân chết quay, còn chết luộc! Sáng ngày sau, đi ngang đây còn bay mùi khét, nào lợn gà, bò nguyên con nằm chình ình chỏng cẳng, nào dưa hấu nguyên vựa, khô cá gộc cháy nguyên kho, bày ra không ma trơi nào lượm! Sau trận hoả tai dữ tợn năm đó, có một dạo hèn lâu, không ai dám nhắc đến chuyện trở về lập cơ chỉ nơi chốn cũ: Kinh Hàng Bàng. Chánh phủ Pháp thừa dịp làm ra con đường ở vùng đó để xe miệt Hậu Giang bận lên chạy một chiều vô Chợ Lớn, nên gọi đường Hậu Giang. Nhờ dấu vết cũ không còn, nên dân dạn lần mà trở về, đến nay mới có mòi phồn thịnh. Ngờ đâu năm 1945, quân đội Nhựt đến đây, thiếu cây dùng, nên bọn chúng hạ lịnh đốn cây bàng cây me ở hai bên bờ Kinh Hàng Bàng và Rạch Lò Gốm để làm hầm núp nơi Cầu Bình Điền, báo hại dân cư hai xóm, kẻ nào ra đường, bất luận mặc y phục Langsa hay y phục Việt đều bị chúng lùa bắt đi kéo gỗ, khiến nhiều người phải chuồi mình xuống Rạch Lò Gốm, kết gỗ thành bè thả trôi ra xa, mới thoát khỏi tay bọn quân lùn.
Kể về kinh rạch còn có Kinh Lò Gốm (Canal Des Poteries) ở vùng Rạch Cát và Kinh Đôi (Canal de Doublement), đào sau Kinh An Thông Hạ, cũng là một con đường thuỷ giúp ích rất nhiều cho sự thịnh vượng hai đô thị Sài Gòn và Chợ Lớn.
e) - Nhà Xóm trong Chợ Lớn
Những xóm trong Chợ Lớn còn giữ được tên theo xưa, là:
- Xóm Than
- Xóm Củi
- Xóm Dầu (chuyên bán dầu phông).
- Xóm Bàu Sen, gần Đồn Cây Mai. Thật ra là bàu lũ loạn, đầy cỏ rác, cỏ lục bình; sen không còn mọc nữa. Đừng lộn với Bàu Sen đường Võ Tánh nay là Nguyễn Trãi, miệt Chợ Quán.
- Xóm Giá, làm giá đậu xanh ở gần Cầu Cây Gõ. Làm nghề nầy phải thức khuya dậy sớm. Từ hai giờ khuya đến năm giờ sáng phải xuống sông đãi giá, làm cho sạch vỏ đậu xanh còn đeo theo, để kịp tang tảng sáng có bán tại chợ. Mỗi người đãi đậu có đem theo một ngọn đèn, nên quang cảnh khúc sông giữa đêm khuya thật là rộn rịp và vui mắt. Gặp chầu chợ Tết thì cảnh càng tưng bừng, náo nhiệt suốt đêm.
- Xóm Lò Bún, gần giếng Hộ Tùng.
- Xóm Phú Giáo, khi xưa giáo mắm, (gần Đồn Cây Mai).
- Xóm Rẫy Cải của người Tiều (Triều Châu), ở hai bên lộ đi về Lục Tỉnh, (người Tiều trước kia có sắm xe hai ngựa để chở cải ra các chợ Sài Gòn, Chợ Lớn, Bình Đông, Bình Tây, thứ xe nầy nay không thấy họ dùng nữa, đổi lại còn thấy ta dùng chở cá, chở đồ khi dọn nhà. Ta nay gọi đó là "xe cá", (xe cá chiếc,thắng một ngựa,xe cá đôi, hai ngựa), và quên rằng sơ khởi đó là xe cải của Tiều bày ra.
- Xóm U Ghe (Chợ Lớn Mới)
- Xóm Cây Cui (Bình Đông)
Khi xe lửa điện đường mé sông còn chạy, trong các xóm có xe chạy ngang, công ty Pháp lựa tên cũ đặt cho các trạm xe đỗ, tên Việt kèm tên Pháp, và hình dung bằng một ám hiệu tượng trưng, vừa treo trên nhà ga vừa in trên vé tàu, như gare Jaccaréo là "trạm Xóm Củi", ám hiệu "cây bò cào sắt" v.v…
f) Con Đường Sài Gòn vô Chợ Lớn
tục danh Đường Trên (Route Haute)
Đường trên (Rout Haute), xưa do ông Olivier de Puymanuel phóng hoa tiêu, để nối liền Sài Gòn vô Chợ Lớn, đối chiếu với Đường Dưới (Route Basse) ngả Mé Sông.
Xưa có hai đường xe lửa nối liền Sài Gòn vô Chợ Lớn.
A. - Một đường Mé Sông:xe chạy bằng than củi, tải vận hàng hoá; và trái cây miệt Lái Thiêu, trạm chánh trước Chợ Bến Thành, nay làm Bót Cảnh Sát. Xe chạy hai ngả:
1. Trước chạy từ Chợ Bến Thành, bọc đại lộ De la Somme (nay là Hàm Nghi), dọc theo mé sông tới đường Luro (Cường Để), lên trạm Hàng Sao (đường Mạc Đĩnh Chi), quẹo Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu), Đinh Tiên Hoàng, ghé qua Đất Hộ, thẳng vô Gia Định, trạm chót là Lái Thiêu.
2. Xe đỗ ga chánh chợ Bến Thành, rồi chạy vô Chợ Lớn, trạm chót là ga Bình Tây.
B. Một đường gọi xe lửa giữa,trước chạy than củi, sau chạy điện. Xe chở bộ hành nhiều hơn hàng hoá, bắt đầu từ ga Chợ Cũ Sài Gòn, đổ ra Chợ Mới Bến Thành, rồi chạy cặp với đường tàu hoả Sài Gòn - Mỹ Tho dài theo đường Phạm Viết Chánh, Nguyễn Hoàng, thẳng đến ga An Bình, chạy dọc đường Thuỷ Bình (nay Đồng Khánh), bọc theo đường Tổng Đốc Phương trổ ra ga chót là ga Chợ Cũ - Chợ Lớn (ga Rodier, nổi danh xưa điếm móc túi nhiều và tài nhứt). Đi xe đường này xưa đã là sang: Vé hạng nhứt Sài Gòn vô Chợ Lớn là một hào bạc (0$10) được ngồi băng dài có trải nệm bố trắng. Hạng nhì: sáu chiêm tây (0$06). Đường chỉ non sáu cây số ngàn (6km) mà chạy hơn ba mươi phút mới đến nơi, có đủ hỷ, nộ, ai, lạc; vui vì xe chạy một đỗi, thấy di tích Đồng Tập Trận mênh mông (nay là đại lộ Lý Thái Tổ) và nếu là buổi trưa, sẽ được ngắm cảnh người Tàu ngủ gà ngủ gật trên xe, buồn là có khi nội khúc đường ấy đã bị điếm giựt tiền nhảy xe hay anh chị móc túi. Sách nói khi xưa, làm con đường này gặp nhiều mả mồ, (ắt chốn Đồng Tập Trận cũ), Langsa có lệ phát ba quan tiền và một xấp vải cho mỗi ngôi mộ và mả bị cải táng.
Sau bỏ con đường nầy và xe chạy củi.Thay vào bằng xe điện và đường xe chạy từ chợ Bến Thành dài theo khoảng giữa con đường Trần Hưng Đạo, đến đường Đồng Khánh, Tổng Đốc Phương, và trạm chót là ga Rodier. Đường sắt nầy đã bãi bỏ hồi năm 1953 và qua năm 1954 được khoả lấp nhựa.
Ba bốn mươi năm về trước, hai bên đường xe lửa giữa có trồng xoài và mít chen lộn nhau, tàn lá sum sê bóng rợp, đến nay vì lần hồi mở mang đường ra rộng lớn đủ phương tiện lưu thông nên không còn gốc đại thọ nào sót lại, có còn chăng là những danh từ khêu gợi: Xóm Vườn Xoài Bà Lớn (mộ phần của gia tộc Đỗ Hữu Phương) trên đường Phan Thanh Giản. Xóm Vườn Mít (xưa dân nghèo lấy hột mít xay ra bột, bán: xóm nầy truy ra ở lối Taberd-Mac-Mahon cũ, và đừng lộn với một xóm mít ở trên Phú Nhuận, đường Võ Di Nguy nối dài.
Gần Ngã Sáu đường Võ Tánh (Nguyễn Trãi) còn thấy ngày nay ngôi mộ Lê Văn Gẫm tử đạo thời Thiệu Trị, bị hành hình lối năm 1847. Mộ nầy nay nhà phố xung quanh che gần bít mất và mộ ở lún sụt xuống thấp hơn mặt đường lộ có một thước sâu, suy ra đường và phố mãi đắp lên cho khỏi ngập lụt nay mới cao làm vậy, còn đất xóm nầy khi xưa lấy mực mộ Lái Gẫm là đủ biết thấp và nước thế nào.
Học giả Trương Vĩnh Ký chép lại rằng xưa tại chỗ Khám Lớn cũ (nay Đại Học Văn Khoa), gần bên Toà Pháp Đình, thuở đó có một cái chợ tục danh "Chợ Da Còm", tức là chợ nhóm dưới gốc một cây da nhánh còm lá gie khòm xuống mặt đất. Xưa đây là xóm bán trống, bán lọng, yên ngựa, và mão Tú Tài.
Nhắc đến cây da, còn thấy gần Toà Pháp Đình, phía góc đường Nguyễn Du và Nguyễn Trung Trực, còn mấy gốc đã lâu đời, có dính líu gì với "cây da còm" xưa chăng?
Tiếp theo Chợ Da Còm, có Chợ Đũi (bán đũi, bán lụa, v.v…) Thưở cụ Trương Vĩnh Ký còn sanh tiền, thì Chợ Đũi ăn dài từ xóm Boresse giáp qua đường xe lửa Sài Gòn - Mỹ Tho. Khỏi Chợ Đũi là Xóm Đệm Buồm rồi tới Xóm Thuận Kiều đóng dọc theo đường Thuận Kiều.
Còn nói gì vùng Chợ Mới như ngày nay ta đã thấy, xưa kia lại là một ao sình lầy nước đong. Như đã nói rồi, năm 1913 người Pháp lấp ao vũng xây nhà chợ có làm lễ lạc thành trọng thể gọi lễ "khai tân thị". Chợ nầy ở gần chỗ bến nước của thành xưa nên gọi "Chợ Bến Thành" cho đến nay vẫn còn gọi như thế. Ngày khai mạc có chưng "cộ bảy bang" có cộ bông hình "Quan Âm Tay Xách Giỏ Cá", hình "Hồng Hài Cầm Quạt Ba Tiêu Chấp Tay Bái Phật Bà" toàn do đồng nam đồng nữ tình nguyện chịu cho các thợ mã bong hình thế nộm giấy, cả ngày đứng trên một cốt sắt nhỏ có hoa lá che kín, chân tay tê liệt vì không cử động được. Lại có múa lân, thí võ, hát Triều Châu, hát Quảng Đông và hát bội diễn ngoài trời, cộ đèn, cộ bông, nhạc ngũ âm, và nhạc "mủ dích" Pháp. Sánh với ngày nay, thì cuộc lễ rất tầm thường, nhưng vào thời ấy tiếng đồn khắp Lục Tỉnh, đâu đâu cũng nô nức kéo nhau về Sài Gòn. Có câu: "Xem được lễ Tết Tân Thị một lần chết cũng sướng thân!"Mà đi thì chỉ có đường thuỷ là tiện. Nhắc lại thưở đó, có tàu "Lục Tỉnh" chạy từ Sài Gòn lên Nam Vang trải qua các chợ như Mỹ Tho, Vĩnh Long, Châu Đốc, v.v… Tầu nhỏ hơn chạy miệt Hậu Giang thì có tầu Pélican, Sarcelle, Cormoran của hãng Messageries Fluviales tục gọi Hãng Tàu Nam Vang, chạy khởi hành từ Mỹ Tho xuống Bạc Liêu đi qua các chợ như Chợ Gạo, Tam Bình, Trà Ôn, Cần Thơ, Phụng Hiệp, Sốc Trăng, Bãi Xàu, Cổ Cò v.v… và tàu khác đường Mỹ Tho - Rạch Giá. Hãng tàu các chú cũng chạy kình một đường với tàu Tây. Về sau mới có ông Phán Nuôi ở Vĩnh Long sắm tàu chạy, nhưng không tranh đua cùng hai hãng Tây, Tàu. Đường bộ thời ấy (trước 1913) chưa được thông thương, vì chưa có cầu bắc qua sông lớn. Bởi đó cho nên, như đã nói rồi, nhờ vị trí trên bờ có xe lửa nối liền với thủ đô, dưới sông có tàu thuyền chạy Lục Tỉnh, Mỹ Tho thời ấy chỉ nhượng có một Sài Gòn.
Nhắc lại lễ khai tân thị Chợ Bến Thành năm đó (mars 1914) đã phá kỷ lục về hội hè vui vẻ. Ông già bà cả từng mục kích lễ nầy đến nay còn nhắc, và tự hào chứng kiến một "Tần vương hội" (danh từ của các báo thời ấy dùng).
Tục lệ thành Sài Gòn và Chợ Lớn, cho đến về sau lâu lắm mới dẹp là dân trong thành phố hễ quá mười giờ đêm muốn ra đường phải xách theo một lồng đèn, lại nữa riêng Chợ Lớn, xóm của gái điếm cũng gọi "Xóm Lồng Đèn", đã là xóm huê nương tức nhiên phải về khuya, khách làng chơi cơm nước phủ phê rồi mới xách lồng đèn đến thăm, sự ấy cũng dễ hiểu.
g) Nay xin trở lại đường Thuận Kiều
Từ đây đến "Sở Nuôi Ngựa" cũ của nhà binh Pháp tức là trong trại "Ô Ma" đường Võ Tánh (Nguyễn Trãi) thì là chợ "Điều Khiển" do một ông Điều Khiển tạo lập. Khỏi Chợ Điều Khiển là đến "Chợ Cây Da Thằng Mọi". Gọi làm vậy nhưng khoan vội tưởng rằng đây là một nhà chợ do một người Mọi nào đó đứng ra xây cất. Sự thật là tại chợ này thường thấy bày một món hàng không đâu có bán: ấy là một thứ đèn thắp dầu phộng hay dầu dừa làm bằng đất nung, nắn hình một người Chàm (ông Phỗng): hai chân quỳ, hai tay chắp lại, trên đầu đội một thếp dầu. Trong tập "Cổ Gia Định vịnh" có câu:
"Cây Da thằng mọi, coi bán đủ thuốc xiêm cau mứt.
Cái cầu Cao Mên, thấy làm nguyên cột vắp ván trai".
(Đây là thuốc lá xắt và ướp kiểu người Xiêm dùng. Cau mứt là cau trái để già, nấu kẹo như mứt, người Thổ rất thích ăn. Hai món là gia vị đặc biệt trong miếng trầu thời xưa, nay đã ít được thấy, không khác "cây đèn thằng Mọi")..
Khỏi Chợ Cây Da Thằng Mọi, có một cánh đồng rộng lớn trống trải và cây cỏ mọc tùm lum nhiều chỗ. Ngày nay nhà cửa cất lấp bít bùng không còn nhìn được nơi nào, chớ xưa kia đây là "Đồng Tập Trận", cung gọi "Mả Nguỵ" hay "Mả Biền Tru. Nơi đây vua Minh Mạng đã sai chặt đầu ném thây chôn chung một huyệt mả (đến nay mặc dầu đào móng cất nhà vẫn chưa tìm gặp) cả thảy đến 1.137 người già trẻ bé lớn, đàn ông đàn bà lộn lạo, khép vào tội phản nghịch, theo giặc Khôi ở lại trong thành, chống binh lính triều đình ba năm (1832 - 1835).




Đồng Tập Trận còn gọi đồng mồ mả

Như đã nói rồi nơi mục chú thích về Sở Nuôi ngựa, sở này cất trên một ngôi chùa cũ tên gọi "Kim Chương Tự" (hay Kim Chung Tự). Chùa này lại xây trên một nền chùa Thổ đã có trước đời Gia Long. Theo cụ Trương Vĩnh Ký thì chúa Duệ Tông bị Tây Sơn bắt tại vùng Ba Thắc (thuộc Cà Mau) và chúa Mục Vương bị bắt tại Ba Vác (thuộc Bến Tre, gần Mỏ Cày) đều bị hành quyết gần Kim Chương Tự, lối năm 1776.
Còn tại thành lính tập Ô Ma (Camp des Mares) thì còn có miếu thờ các công thần nhà Nguyễn, lập năm 1804, chữ gọi "Hiển Trung Từ". Nơi đây khi xưa có các bài vị thờ tất cả 1015 sĩ tử liều mình vì nước trong các trận chống Tây Sơn, trong số đó có một võ tướng quốc tịch Pháp tử trận Thị Nại, ta gọi ông Mạnh Hoè (Manuel). Miễu này đã ghi vào bộ các cổ tích trường Viễn Đông Bác Cổ; năm 1927 chùa này được trường Bác Cổ xuất tiền trùng tu lại tử tế; qua năm 1939 triều đình Huế có biệt phái một đại thần vào đây tế tự (ngày 10 tháng 11 dương lịch). Tang thương biến đổi, đến thời binh Nhật hoành hành một lúc… Chùa đã hư tệ sẵn, thêm các lính tập đạo binh Lang sa phá phách, hầu hết những bài vị đều xiêu lạc. Vợ con binh lính đến ăn ở nơi đây không lòng bảo tồn, nên chùa mau điêu tàn. Đến lượt đạo binh viễn chinh Pháp trở lại chiếm thành Ô Ma sau khi Nhật đầu hàng, thì họ triệt hạ Hiển Trung Từ lúc nào không rõ ắt, bất chấp đó là di tích hiếm có trong Nam. Kịp đến khi Pháp trả thành Ô Ma cho Việt Nam Cộng Hoà, thì đền Trung Hiển chỉ còn một danh từ hão trong trí nhớ của những người hiếu cổ. Lại nữa, trong tập kí ức của cụ Trương Vĩnh Ký, còn nhắc một cổ miếu của thành Ô Ma này, danh gọi "Miễu Hội Đồng" (thờ đủ chư vị), cũng gọi là "Miễu Thánh", có trước đời Gia Long. Tập kí ức cho ta biết thêm rằng vị trí miếu này ở giữa hai hào sen lớn. Nhưng năm 1885 võ quan Pháp chiếm cứ miếu này làm nơi ăn ở thành thử lâu ngày miếu xưa mất tích, nay không còn biết rõ chắc xưa ở nơi nào. Cụ Trương Vĩnh Ký nhắc lại chính trước Hiển Trung Từ và Miễu Hội Đồng ngoài Lộ cái, thuở cựu trào có xây hai cột gạch và đá, một đề "Khuynh Cái" (nghiêng lọng nghiêng dù), một đề "Hạ Mã" (xuống ngựa), nay di tích ở đâu?
Lại còn một ngôi chùa khác nữa gọi "Chùa Oâng Phúc", cũng gọi "Chùa Phật Lớn", trong tập kí ức ghi ở bọc theo một con lộ nhỏ dài theo bờ ao sen lớn thành Ô Ma, thì cụ Trương Vĩnh Ký đã nhìn nhận mất tích từ năm 1885 vậy.
Khỏi một cống nước ăn thông với ngọn "Rạch Cầu Bà Đô", thì xưa kia có hai ngôi mộ khá to, tương truyền là mộ phần của hai hoàng tử con của Nguyễn Văn Nhạc tục gọi là "Mộ Hoàng Thuỳ" và "Mộ Hoàng Trớt", nay đã không còn vì có lẽ bị phá bỏ từ lâu để xây cất nhà phố, đâu còn cháu con dòng họ để nhìn nhận? Thậm chí tiếng đồn trước kia tại Rạch Bà Đô có một cái chợ, vì nhóm họp buổi sáng nên danh gọi là "Chợ Mai" nay cũng không biết khi xưa toạ lạc chốn nào? Rạch Bà Đô, di tích tồn tại đến năm 1959, còn dấu cũ con rạch nước dơ, nay đã lấp đi, nhường chỗ cho một trạm bán xăng, đường Trần Hưng Đạo, ngó xéo qua đại lộ Cộng Hoà (Nguyễn Văn Cừ).
Con đường ngang Nhà Thờ Chợ Quán có hai ngôi chùa, một gọi "Kim Tiên Tự", sau đổi lại là "Nhân Sơn Tự", một cái khác nữa gọi là "Chùa Gia Điền". Hai chùa này đã không còn từ năm 1885.
Từ Chợ Quán trở vô Chợ Lớn thì đầu tiên gặp "Xóm Bột", ngày ngày phơi trắng dã tận lề đường những bột mì, bột đậu, bột lọc, bột khoai v.v… Đi tới nữa thì gặp "Chợ Hôm", nhóm chiều tối để đối với "Chợ Mai" đã nói trên.
Sau Chợ Hôm, có một ngôi chùa thờ một vị tướng lãnh của Cao Hoàng, bị Tây Sơn giết, không biết tên, chỉ ghi họ Trần. Chùa "Trần Tướng" ở đâu cũng không ai biết.
Trên một con rạch nhỏ, gần mộ nghĩa địa người Tàu có một cái cầu, gọi "Cầu Linh Yển". Yển là một quân sĩ trung thành của Nguyễn Chúa, một hôm cõng vua trên vai, chạy đến đây thì ngộ nạn. Chúa được một lực sĩ thay vai cõng chạy vuột, Yển bị Tây Sơn giết. Chúa Nguyễn thương tiếc lắm, sau tức vị sai dân lập miếu thờ Yển. Trong sách ghi miếu thuộc xóm Tân Thuận, cũng có tên khác là "Hàm Luông".
Gần nơi đây, thuở xa xưa có một gốc me thật lớn, dưới bóng râm có lập một quán chuyên bán bánh nghệ tục danh là "Quán Bánh Nghệ". Cũng vì cây me ấy, nên xóm này gọi "Xóm Cây Me Mát".
Đường Đồng Khánh (Marins cũ) có hai xóm là "Xóm Cốm" và "Xóm Chỉ". Mặc dầu nay đã có tên Việt (Đồng Khánh), đường Marins xưa vẫn có một tên riêng rất thơ là "Hàng Cháo Muối", cho đến nay người cố cựu đất Chợ Lớn vẫn quen dùng chưa bỏ. Truy ra ở đây lúc trước có một người Triều Châu khuya khuya gánh "cháo muối" (thứ cháo trắng nấu thật nhừ với tấm xay nhỏ, trong cháo lỏng bỏng có vài trái bạch quả, cũng gọi "bạch quả chúc". Người Quảng Đông thích ăn cháo muối sau một đêm thức trắng, vì nhẹ tiêu mau khỏe con người). bán dài theo con đường nầy. Món hàng rẻ tiền, vừa nóng vừa ngon, đã giúp ông "danh lưu hậu đại". Cũng như đường Tản Đà, thuở trước mì cháo đều ngon, có thứ tép lăn bột chiên nguyên con và cháo "bào ngư" thật ngọt. Ngày nay đã cấm bán rong ngoài đường, những thức ăn khuya đặc biệt nầy mất, và mất luôn "những thú phong lưu" cựu thời của bợm sành ăn!
Trong kẹt đường Đồng Khánh, gần đầu cầu Chà Và vài ba mươi năm trước, có một lão Tiều gánh gánh bán cháo khô cá hường ăn với cải "tằng ô". Đèn nhá nhem, người bu đông đến độ cháo không kịp bán, thêm tuổi vừa đôi mươi "ăn sắt cũng tiêu", bàn ghế không có, mỗi người tự tiện lấy húp ngon lành, ngó mặt nhau vẫn quen quen: Cô Ba Trà, ông Cò mi Kính và tớ đây, kẻ còn, người mất, đứa bạc đầu!
h) Cầu Đường, Cầu Khâm Sai, Chùa Cây Mai
Nay thử bắt đầu từ trong Chợ Lớn kể ra. Về phía bên kia "Đường Trên" (Route Haute), lần lượt ta gặp:
Nghe nói lại, lối năm 1885, thì chợ cũ ở vào xóm nhà Dưỡng đường Chợ Rẫy, nay chỉ còn trơ lại một danh trơn và đây có lẽ là một chợ hồi đời trước, đến trào Pháp lại dẹp đi. Trước Dưỡng đường Chợ Rẫy, xưa kia có một ngôi mộ cổ bằng vôi, kiểu chạm trổ rất khéo, tương truyền là của một ông hầu tước họ Đỗ (Tombeau du marquis de Đỗ). Trường Viễn Đông Bác cổ đã xin liệt kê làm cổ tích, nhưng chủ đất là người có thế lực, một hai xin phá để cất phố xá và viên Toàn quyền Decoux ưng lời, thiệt là rất tiếc cho một cổ tích không có người ủng hộ. Mộ phần họ Đỗ này có dính líu chăng với Tả quân phu nhơn, tên tộc là Đỗ Thị Phẫn. Tương truyền khi Lê Tả quân bị tội, phu nhơn về ngụ nơi xóm Chợ Rẫy, trong một ngôi chùa Phật, do bà mẹ năm xưa đứng tạo lập tục danh là Chùa Bà Dội.
Từ con đường Cháo Muối (Đồng Khánh) xuống một con kinh, sau lấp đi biến thành đại lộ Tổng Đốc Phương, thì có xóm người "Minh Hương", ngày nay còn sót lại một di tích nguy nga tráng lệ là chùa "Minh Hương Gia Thạnh", tạo lập năm 1788, về sau có tu bổ lại nhiều lần. Chùa này nằm trên đờng Đồng Khánh, day mặt ngó qua Bót Cái Quận Tư (nay đổi làm Quận Năm), trong chùa còn giữ được đạo sắc thần của vua phong, cùng bài vị sơn son thếp vàng của các ông Trần Thắng Tài, Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tịnh, Vương Hữu Quang và bút tích liễn đối do tay Trịnh Hoài Đức viết. Đây là một xóm kỳ cựu nhất và hiệp với xóm Chùa Quan Võ, đường Triệu Quang Phục (Quảng Tống Cái cũ), là trung tâm buôn bán của cựu Chợ Lớn ngày xưa. Ông Trương Vĩnh Ký nhắc năm 1885 tại đây có nhiều nhà buôn giàu có, vách xây gạch hai mươi, nnóc có phong tô, lợp ngói lăn ống y một kiểu kiến trúc như bên Trung Quốc, nay xem lại nhiều nhà vẫn y như cũ.
Các nhà buôn lớn người Tàu xưng "Tầu Khậu", do danh từ (đây là từ tiếng Hoa, đọc âm Hán Việt là "Thổ khố", nghĩa là nhà chứa hàng hoá) phát âm giọng Triều Châu Phúc Kiến. Cũng có khi họ dùng danh từ "Đại Khố" (đồng một nghĩa với từ trên). Khi khác họ tâng nhau, xưng là "Tàu kê" (Đại Gia), tỷ dụ như Chà Đen cho vay bạc, tức Chà chetty cũng xưng "Tàu kê mập", "Tàu kê ốm", Chà bán vải cũng xưng "Tàu kê bán vải", thậm chí mụ tú bà cũng bắt gọi mình là "Mụ Tàu kê" và oái ăm thay, "hạng lãnh giấy số ở nhà má" hẳn đòi để treo giá ngọc, cũng xưng mình là "con gái nhà đại gia", "gái Tàu kê" chính cống!
Mỗi năm cứ đến mùa gió thuận, thì thuyền buôn miệt Sơn Đầu (Swa-tow) chở hàng từ Trung Hoa sang đất Việt đổi chác lăng xăng: cam Quảng (Quảng Đông), cam Tiều (Triều Châu), hồng khô, kim quýt kiểng, hàng lụa Bắc Thảo…
Ở gần vùng này, trong sách còn ghi một cái cầu danh gọi Cầu Đường, vì ở xóm bán đường phèn, đường thẻ, đường hạ, đường cát, đường phổi đủ thứ. Cầu Đường này nối liền hai cái chợ:
- Một chợ nhà lồng hình tam giác, trong chợ bán đủ món, dọc ba bên có tiệm chạp phô Hoa kiều tấp nập (nay nhà chợ đã nhường chỗ cho nhà Bưu điện Chợ Lớn).
- Một chợ hình chữ nhật, từ Cầu Đường đến đường Thuỷ Binh, nay trở nên một đoạn của đại lộ Tổng đốc Phương. Và ngày nay Rạch Chợ Lớn cũng gọi Rạch Cầu Đường biến thành đại lộ Gaudot, và nhà "Thông Hiệp" của Quách Đàm chính ở đây day mặt tiền ra Rạch Cầu Đường (Rạch Chợ Lớn) với cái mộng "phong thuỷ đầu Rồng".
Từ Cầu Đường vô Cầu Khâm Sai, trên đường Gò Công, cũng gọi Cầu Khâm Sai hay Cầu Ba Miệng, nhà cửa nối liền san sát xem rất ngoạn mục. Xóm Lò Gốm ở ném về làng Phú Lâm, trên một con kinh thông ra Ngã Tư, đầu kia chạy tới Cầu Khâm Sai, dân trong xóm sanh nhai bằng nghề làm đồ gốm, ngói gạch, chậu kiểng, lu mái, đôn sành để chậu kiểng v.v…
Tại ngã tư, đầu đường Cây Mai cũ (nay Nguyễn Trãi) xưa có một cái cầu, danh gọi "Cầu Phố" vì bắc trong con đường "Phố Xếp", là đường Tổng Đốc Phương hiện nay, nơi đây có kinh và nhà Đỗ Hữu Phương, nay kinh đã lấp, nhà họ Đỗ đã bán cho người Tàu dỡ mất và thế vào là nhà phố lầu cao ngất, tửu quán, ciné. Kinh Cầu Phố hồi đó gọi là "Kinh và Đường Phố Xếp". Thân trên Chùa Bà (thờ bà Thiên Hậu Thánh Mẫu), dọc đường lên Cầu Phố, xưa có một cái giếng, tục gọi nôm na "Giếng Chùa Bà" hoặc "Giếng Bộng". Có danh là nước tốt và ngọt hiền nên các nhà văn nhân thuở ấy đặt là "Giếng Cam Tuyền".
Dài theo bờ kinh từ Cầu Đường trở ra đến Cầu Kinh Phố Xếp, là địa phận làng Quới Đức. Chợ nơi đây cũng gọi là "Chợ Kinh".
Chỗ Nhà Thờ Cha Tam hiện nay xưa là "Chợ Lò Rèn", đây là xóm của thợ rèn và thợ kéo chỉ sắt. Vì họ chuyên môn giỏi giắn nên thời ấy đã gọi họ là quân Mậu Tài. Chợ Lò Rèn ở bên kia đầu Cầu Phố. Ngày nay vẫn còn vài tiệm chuyên nghề kéo chỉ sắt và cán kim ngân ra lá, trước cửa tiệm có trưng bày một hay vài cái máy cán, quen gọi là "bàn cán" (laminoir).
Lối Đồn Cây Mai có một cái cầu gọi "Cầu Ông Tiều". Theo tôi, "Tiều" đây là "Triều Châu" đọc trại đi, vì xóm có nhiều người làm rẫy dân Tiều, chớ không có người tiều phu nào.
cùng bài vị sơn son thếp vàng của các ông Trần Thắng Tài, Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tịnh, Vương Hữu Quang và bút tích liễn đối do tay Trịnh Hoài Đức viết. Đây là một xóm kỳ cựu nhất và hiệp với xóm Chùa Quan Võ, đường Triệu Quang Phục (Quảng Tống Cái cũ), là trung tâm buôn bán của cựu CHợ Lớn ngày xưa. Ông Trương Vĩnh Ký nhắc năm 1885 tại đây có nhiều nhà buôn giàu có, vách xây gạch hai mươi, nnóc có phong tô, lợp ngói lăn ống y một kiểu kiến trúc như bên Trung Quốc, nay xem lại nhiều nhà vẫn y như cũ.
Các nhà buôn lớn người Tàu xưng "Tầu Khậu", do danh từ (đây là từ tiếng Hoa, đọc âm Hán Việt là "Thổ khố", nghĩa là nhà chứa hàng hoá) phát âm giọng Triều Châu Phúc Kiến. Cũng có khi họ dùng danh từ "Đại Khố" (đồng một nghĩa với từ trên). Khi khác họ tâng nhau, xưng là "Tàu kê" (Đại Gia), tỷ dụ như Chà Đen cho vay bạc, tức Chà chetty cũng xưng "Tàu kê mập", "Tàu kê ốm", Chà bán vải cũng xưng "Tàu kê bán vải", thậm chí mụ tú bà cũng bắt gọi mình là "Mụ Tàu kê" và oái ăm thay, "hạng lãnh giấy số ở nhà má" hẳn đòi để treo giá ngọc, cũng xưng mình là "con gái nhà đại gia", "gái Tàu kê" chính cống!
Mỗi năm cứ đến mùa gió thuận, thì thuyền buôn miệt Sơn Đầu (Swa-tow) chở hàng từ Trung Hoa sang đất Việt đổi chác lăng xăng: cam Quảng (Quảng Đông), cam Tiều (Triều Châu), hồng khô, kim quýt kiểng, hàng lụa Bắc Thảo…
Ở gần vùng này, trong sách còn ghi một cái cầu danh gọi Cầu Đường, vì ở xóm bán đường phèn, đường thẻ, đường hạ, đường cát, đường phổi đủ thứ. Cầu Đường này nối liền hai cái chợ:
- Một chợ nhà lồng hình tam giác, trong chợ bán đủ món, dọc ba bên có tiệm chạp phô Hoa kiều tấp nập (nay nhà chợ đã nhường chỗ cho nhà Bưu điện Chợ Lớn).
- Một chợ hình chữ nhật, từ Cầu Đường đến đường Thuỷ Binh, nay trở nên một đoạn của đại lộ Tổng đốc Phương. Và ngày nay Rạch Chợ Lớn cũng gọi Rạch Cầu Đường biến thành đại lộ Gaudot, và nhà "Thông Hiệp" của Quách Đàm chính ở đây day mặt tiền ra Rạch Cầu Đường (Rạch Chợ Lớn) với cái mộng "phong thuỷ đầu Rồng".
Từ Cầu Đường vô Cầu Khâm Sai, trên đường Gò Công, cũng gọi Cầu Khâm Sai hay Cầu Ba Miệng, nhà cửa nối liền san sát xem rất ngoạn mục. Xóm Lò Gốm ở ném về làng Phú Lâm, trên một con kinh thông ra Ngã Tư, đầu kia chạy tới Cầu Khâm Sai, dân trong xóm sanh nhai bằng nghề làm đồ gốm, ngói gạch, chậu kiểng, lu mái, đôn sành để chậu kiểng v.v…
Tại ngã tư, đầu đường Cây Mai cũ (nay Nguyễn Trãi) xưa có một cái cầu, danh gọi "Cầu Phố" vì bắc trong con đường "Phố Xếp", là đường Tổng Đốc Phương hiện nay, nơi đây có kinh và nhà Đỗ Hữu Phương, nay kinh đã lấp, nhà họ Đỗ đã bán cho người Tàu dỡ mất và thế vào là nhà phố lầu cao ngất, tửu quán, ciné. Kinh Cầu Phố hồi đó gọi là "Kinh và Đường Phố Xếp". Thân trên Chùa Bà (thờ bà Thiên Hậu Thánh Mẫu), dọc đường lên Cầu Phố, xưa có một cái giếng, tục gọi nôm na "Giếng Chùa Bà" hoặc "Giếng Bộng". Có danh là nước tốt và ngọt hiền nên các nhà văn nhân thuở ấy đặt là "Giếng Cam Tuyền".
Dài theo bờ kinh từ Cầu Đường trở ra đến Cầu Kinh Phố Xếp, là địa phận làng Quới Đức. Chợ nơi đây cũng gọi là "Chợ Kinh".
Chỗ Nhà Thờ Cha Tam hiện nay xưa là "Chợ Lò Rèn", đây là xóm của thợ rèn và thợ kéo chỉ sắt. Vì họ chuyên môn giỏi giắn nên thời ấy đã gọi họ là quân Mậu Tài. Chợ Lò Rèn ở bên kia đầu Cầu Phố. Ngày nay vẫn còn vài tiệm chuyên nghề kéo chỉ sắt và cán kim ngân ra lá, trước cửa tiệm có trưng bày một hay vài cái máy cán, quen gọi là "bàn cán" (laminoir).
Lối Đồn Cây Mai có một cái cầu gọi "Cầu Ông Tiều". Theo tôi, "Tiều" đây là "Triều Châu" đọc trại đi, vì xóm có nhiều người làm rẫy dân Tiều, chớ không có người tiều phu nào.
Theo ông Trịnh Hoài Đức, Chùa Cây Mai, tên chữ là Thứu Lãnh Tự, nguyên cất trên một nền chùa cổ Cao Miên, xung quanh có đào ao rộng và sâu, hồi xưa mỗi năm tại đây có tổ chức lễ đua "ghe ngo" (ghe ngo là "túk nguâ" của người Miên dùng để thi đua các làng có chùa Miên) tức là lễ "đưa" nước khi cuối mùa làm lúa và "lễ rước nước" đầu mùa làm ruộng. Dưới đời vua Minh Mạng, chùa được tu bổ lại, tương truyền hai ông Nguyễn Tri Phương và Phan Thanh Giản có lập tại đây một thuỷ tạ trên có gác cao. Bấy lâu nghe đồn tại chùa có một gốc mai già bông trắng, từng trải mấy phen biến cố, và đã làm đầu đề bài thơ bất hủ sau:
Vịnh Mai Sơn Tự (Chùa Cây Mai) Phú Lâm
"Đau đớn thay cho Mai cách dưới đèo.
Mười phần trong sạch phận cheo leo.
Sương in tuyết đóng cành thưa thớt.
Xuân đến thu về, sãi quạnh hiu.
Lặng lẽ chuông quen con bóng xế.
Tò le kèn lạ mặt trời chiều.
Những tay rượu thánh thi thần cũ.
Trông cảnh bao nhiêu tiếc bấy nhiêu".
(Tôn Thọ Tường, bản Khuông Việt, tr.88)
Đầu xuân năm Canh Tý (1960), thi sĩ Đông Hồ đã đến thưởng bạch mai tận gốc, bận về viết bài "Tìm dấu bạch mai" đăng trong Bách Khoa số 76 ngày 1/3/1960 trang 23-32.
Kế đó ông bạn Thái Văn Kiểm có đưa tôi đến ngắm Cây mai "cổ tích" và viết tiếp bài ông Đông Hồ "Tìm dấu bạch mai" cũng trong Bách Khoa số 78 ngày 1/4/1960 trang 51-58.
Như vậy cũng đã cạn tàu ráo máng.
Sách Gia Định thông chí chép rằng năm 1816, sư tăng tu bổ chùa, nhân đào đất, có gặp dưới nền chùa nhiều thức gạch cũ và ngói cũ kiểu cổ Cao Miên, nhưng tiếc thay thời ấy chưa biết giá trị của những vật ấy nên không để lại dành làm tài liệu khảo cổ.
Gần Chùa Cây Mai (chữ gọi Mai Sơn Tự, khi gọi Thứu Lãnh Tự) còn một ngôi chùa khác gọi Phụng Sơn Tự, cũng thuộc lịch sử cận kim thời đại. Chùa này gọi tục danh là "Chùa Gò" vì cất trên một gò nổi cao, chung quanh nước bao bọc, quả là di tích của một nền chùa cổ Cao Miên. Hỏi thăm, một ông đạo trong chùa nói xưa có đào được một đại hồng chung của người Miên; tôi lấy làm ngờ vì người Cao Miên tu đạo Phật không dùng chuông như ta. Có chăng thì sách ghi lại rằng tại một nền Chùa Gò có đào gặp một khúc tay Phật đá, kiểu Miên, nhưng cũng không biết để dành khảo cứu. Vùng Cây Mai và Chùa Gò đáng được các nhà khảo cổ chú ý nhiều nếu muốn sưu tầm gối Prei Nokor.
Còn chỗ toà Hành chánh Chợ Lớn, xưa thuộc huyện Tân Long. Ngoài vòng rào toà Hành chánh có con đường rải đá chạy bọc theo hông Chùa Chà Và đạo Hồi, mấy năm trước còn mang tên "rue des Clochetons". Đó là con đường xẻ chạy thẳng vô Chùa "Kiểng Phước" cổ tự. Năm 1860 binh ta lấy chùa Kiểng Phước làm ổ kháng chiến chống giặc Pháp. Năm 1866 chùa đã điêu tàn vì bị dỡ phá, chỉ còn chút phương danh trong lịch sử kháng chiến mà thôi. Truy ra vị trí chùa này nằm lọt giữa con đường Maréchal Foch (nay là đường Nguyễn Văn Thoại), còn một phần lớn lại ở về lô đất bông đồ mới số 20 và 23 ngang ngang lại với trường học con gái (bông đồ 21) thường gọi "Trường Bà Đầm".
i) Trở về Chợ Quán
Tân Kiểng, Nhơn Giang (trước 1885 mang tên Nhơn Ngãi), Bình Yên là tên ba làng xưa, sau sáp nhập làm một là vùng CHợ Quán. Trước kia, nơi đây có làng Thợ Đúc, trong một bản đồ đính theo tập nhỏ này gọi "ancien village des fondeurs" - dân trong làng chuyên nghề trau lư đồng có tiếng, nổi danh một thuở, không kém lư Chợ Gạo (Phú Lâm). Gọi là "Chợ Quán" vì thuở trước chợ nhóm họp dưới gốc những cây me đại thọ lối nhà thương Chợ Quán hiện nay. Chung quanh chợ có nhiều quán xá lốc cốc tựu một chỗ nên đặt tên làm vậy.
Mấy mươi năm về trước, có một phú ông, sanh trưởng tại Chợ Quán di cư xuống miệt Sóc Trăng khai phá, làm ruộng lớn, lập nên sự nghiệp đồ sộ, về già thâu tóm của cải và tạo lập tại đường Trần Hưng Đạo một ngôi nhà hùng vĩ lấy tên là "Villa Nhơn Giang", để nhắc lại tên xưa làng cũ. Tôi còn nhỏ không biết, mỗi lần đi ngang đều cười thầm hai chữ "Nhơn Giang". Sau này, chủ nhân mãn phần, gặp năm kinh tế khủng hoảng, hội "Đức Trí Thể Dục" đấu giá mua lại rất rẻ, nhưng không biết vì sao lại lọt vào tay quân đội Nhật đến ở, rồi chuyển lần sang quân đội Pháp đến chiếm, mãi đến khi trở nên trụ sở cơ quan cố vấn quân sự Mỹ. Đến đây là dứt hay còn thay đổi chủ nữa? Phải chăng vì nhà choán chỗ nền cũ Chùa Miên nên không ai cầm giữ được lâu bền? Hỏi thì ló mòi dị đoan, nhưng không hỏi không được! Ngôi nhà này toạ lạc trên một cuộc đất cao ráo, trong sách ông Trương Vĩnh Ký viết năm 1885 đã bày rõ vẻ cổ tích của vùng đất này, sau Viện Bảo Tàng đến đào và tìm gặp nhiều tảng đá to kiểu Cao Miên, hiện đem về đặt ngoài hành lang Việt, xem lại hình như đó là táng cửa, táng cột phướn Khmer và định chừng nếu có dịp đào đất chỗ này, may ra còn gặp cổ tích Prei Nokor nữa.
Ngang toà nhà cũ "Đức Trí Thể Dục", có một ngôi nhà lầu không kém vĩ đại và có liên quan đến cổ tích Cổ Sài Gòn. Nhà xây cất trên nền nhà xưa của học giả Trương Vĩnh Ký tiên sinh, ngoài cửa, chục năm về trước, còn thấy gắn một bảng đá biên rành mạch sự tích này, nhưng nay không rõ vì sao đã dẹp không còn treo nữa? Chủ nhà này (quý danh là H.M.Ph). là một người đàn bà có chí lớn và có sự nghiệp ruộng đất mênh mông vùng Sóc Trăng quê tôi. Hôm nay tôi tưởng niệm bà là người mua sắm đồ sứ cổ trước nhất trong Nam và bà quả là người có ngọc nhỡn trong khoa chơi cổ ngoạn. Năm 1940, Nhật đổ bộ vào đây, trước tiên đến chiếm cứ ngôi nhà này, đặt làm trụ sở và trục xuất bà. Nhật bại binh, ngôi nhà này sang tay quân đội Pháp, mãi đến nay tang thương biến đổi, gia chủ đã lìa trần, ngôi nhà thay chủ, trở nên một xưởng dạy đóng giày và may quân phục… Bây giờ là trại Yên Thế. Cố chủ đã mất, không rõ những đồ xưa quý giá dời giấu lúc loạn ly nay còn gìn giữ nguyên vẹn hay chăng?
Nhắc đến bà, khiến tôi nhớ lại một buổi sáng năm 1939. Lúc ấy bà còn sõi lắm, tuổi tác trên 80 mà nhanh nhẹn như người cỡ lục tuần. Sáng hôm ấy, tôi đến gõ cửa nhờ báo tin có khách muốn xem đồ cổ ngoạn. Đến khi tôi trình diện, bà thấy tôi còn nhỏ tuổi, bà hơi ngại dạ, nhưng đẫ hứa lỡ, bà cũng chẳng đã ừ hữ có chừng. Sẵn bà ngồi rửa mặt, bà đưa tay chỉ sơ những món chưng bày gần chỗ bà ngồi cho tôi xem, tức những món để nhà bếp! Tôi rảo một vòng, thấy nào chóe lớn, tô xưa đủ cỡ, cái nào cũng khá, cũng coi được. Xem rồi, tôi định kiếu từ, nhưng nãy giờ tôi không dè chừng bà để ý từng cử chỉ, từng lời bình phẩm. Độ chừng không chướng tai bà lắm nên bà sai trẻ mở rộng cửa nhà trên lúc nào tôi không hay biết, khi tôi cáo thoái bà không cho, mời tôi bước thẳng lên thưởng thức đồ sưu tập chính thức. Đây mới quả là một bộ môn có giá trị, gồm đủ các loại: be, bầu, ngõng, hũ, chóe, nai, nậm, nhạo, vò, chum v.v… cái nào cái ấy toàn hảo xinh tốt thật cổ, thật quý, đáng gọi đồ sưu tập danh bất hư truyền. Tôi xem mãi không biết chán, day lại thấy mắt bà lóng lánh vui vui. Nhưng ngày giờ có hạn, tôi không dám lợi dụng lòng tốt của bà nên xin kiếu một phen nữa. Phu nhân không nghe, mời lên lầu xem nốt những đặc phẩm thuở nay ít cho mắt người lạ ngó vào. Ban đầu, tôi cũng tưởng vị lòng phu nhân lên xem lấy lệ, nhưng khi vào được "tháp ngà chứa toàn bảo vật" này, tôi mới hiểu tôi tốt phước bậc nào! Làm sao tả được những cái khéo cái lạ chứa trên lầu của phu nhân? Hạt hổ phách lớn bằng trái mù u chưa lột vỏ! Ngọc mã não tiện tròn làm hạt chuỗi Bồ đề, nhưng khoét bộng ruột để chứa thuốc độc (nghe đâu đó là chuỗi thánh trị gia đời Tự Đức thường đeo hộ thân, phòng khi ngộ biến lấy đó huỷ mình, khỏi lậu cơ mưu, và cũng không cho tục nhân xâm phạm quý thể). Còn đây là bộ chén trà bằng ngọc lưu ly, nếu rót nước vào thì vun chùn như miệng chén lên be thêm; còn kia là bầu thuỷ tinh trong suốt, lóng lánh chói như hạt sương gặp nắng; này là đấu rượu bằng sừng tê giác (nôm gọi u tây) chạm rõ khéo, tuyệt đẹp. Mà đẹp nhất, quý nhất có lẽ là hai tấm cửa bật để che gió: khuôn vành bằng trắc "hổ bì" vân mun vằn vện rất lạ mắt; mặt khảm ngọc thạch nguyên miếng và cẩm thạch màu xanh lục "phỉ thuý", một bên thì chạm "kỳ sơn dị thảo", một mặt khắc bài thi, toàn "thi ngự chế, ngự bút" vua Càn Long, nội mấy tấm ngọc này, giá thử lấy ra làm trang sức phẩm thì không biết bao nhiêu tiền. Nơi giữa nhà, dựa theo hai cột cái, chưng hai lộc bình to tướng, men lam chấm "sơn thuỷ", cái nào cái nấy sức tôi ôm không giáp và cao còn chút xíu nữa đụng trần nhà, cả hai không tì không vết, không khờn cũng không mẻ, mới đáng gọi là của vua của chúa gì đây! Nhưng theo ý tôi, những món này tuy quý lạ, vẫn không làm cho tôi say mê bằng mấy bộ chén trà và tô uống trà, có thơ nôm hoặc hiệu đề đúng vào những năm đi sứ của sứ bộ Nguyễn triều, hoặc những bình tích "Mạnh Thần", "Thế Đức", thật cổ thật xinh, thuở nay tôi chưa từng thấy ở đâu có nhiều và có đẹp như ở nhà này. Xem không mãn nhãn, nhưng phu nhân bản thân hướng dẫn, sớm giờ đã quý lắm rồi, tôi kiếu từ, bà dặn với bảo tôi khi nào rảnh trở lại tiếp xúc với các công tử và ráng giùm giảng giải nghĩa các cậu nghe rằng mua sắm đồ cổ không phải là đem tiền vứt sông vứt biển! Lúc từ giã, tôi có cảm giác sống cảnh "Cao Thiên Tứ viếng nhà Lưu Dung" tả trong truyện Tàu "Càn Long hạ Giang Nam". Cao Thiên Tứ là tên giả của vua Càn Long, xưng tạm trong khi đi chơi miền Nam, viếng nhà Lưu Dung, thấy biển đề năm chữ "THIÊN HẠ ĐỆ NHẤT GIA", vua không bằng lòng nên tự tìm hiểu trước khi phán đoán. Nhà năm ngăn bảy nắp có vòng tường bao bọc không khác cung điện của nhà vua. Vào nhà trước gặp cháu nội Lưu Dung, còn học sinh, chưa biết gì. Vô nhà tầng nhì gặp con trai họ Lưu, cũng ú ớ không trả lời được. Nhập vào tầng thứ ba gặp em Lưu Dung và tầng thứ tư gặp cha của Lưu Dung, đều ấp úng cắt nghĩa không gãy gọn năm chữ vàng nọ. Duy khi đến đại thính đường gặp một lão trượng đầu râu bạc phếu, dáng điệu thanh kỳ, đây chính là ông nội của thừa tướng Lưu Dung. Oâng giải rằng ông được tám mươi mốt tuổi, ăn lễ bát tuần thượng thọ, anh em trong xóm thấy nhà ông năm đời khoa giáp nối tiếp không dứt, phú quý vinh hoa tột phẩm, thêm trường thọ sum vầy, nên đi tặng ông tấm biển sơn son thếp vàng "THIÊN HẠ ĐỆ NHẤT GIA" ấy. Cao Thiên Tứ nghe rõ tự sự, gật đầu nhận thầm rằng năm chữ vàng rất xứng và không có chi là phạm thượng. Tôi đứng lại kể sự tích này cho phu nhân nghe, không dám tự ví mình với Cao Thiên Tứ hoặc với ông hoàng đế phong lưu nhà Mãn Thanh, nhưng nhấn mạnh nơi chỗ nhà phu nhân kể từ nhà bếp, nhà dưới lầu trên không khác mấy đời thế phiệt, câu "THIÊN HẠ ĐỆ NHẤT GIA" sánh với chỗ này không chi là ép gượng. Phu nhân không trả lời, đứng trước thềm nhà tiễn tôi, hai hột kim cương nơi trái tai runh rinh lóng lánh. Dè đâu đó là buổi chót! Nay bảo ngọc trân châu quý đến mấy phu nhân cũng chẳng màng bao, mấy hàng tưởng niệm thành kính này phu nhân cũng không bao giờ đọc!
Trở lại câu chuyện làng Chợ Quán, từ đường Nhà Thương đi đến một cái ao lớn, chỗ này mới đúng là làng Thợ Đúc năm xưa.
Gần ngôi nhà lầu Đức Trí Thể Dục, còn dấu tích một xóm cổ người Miên, hiện nay trong xóm còn một gò đất cao hơn mặt đường cái, khách đi trên đường Trần Hưng Đạo dòm vào thấy cao ngùn ngụn, đây là nền chùa và xóm Thổ đời trước. Thỉnh thoảng dân cư còn đào gặp gạch cũ kiểu Cao Miên, và cách nay mấy chục năm Viện Bảo tàng có sưu tầm tại chỗ, nào Phật đá nhỏ, Phật đồng đủ cỡ, đồ từ khí lụn vụn, đặc biệt là một đèn đồng xưa hình hoa sen, trổ tượng một nô bộc chân quỳ, hai tay bưng thiếp dầu; thêm có ba tảng đá lớn mòn lỳ, độ chừng đây là ngạch cửa chùa Thổ đời xưa. Các vật này hiện đem về lưu trữ tại Viện Bảo tàng để làm dấu tích "Cổ Sài Gòn", một mớ thu xếp theo hành lang, một mớ để trong tủ kiếng Trung đường.
Từ làng Nhơn Ngãi (sau đổi Nhơn Giang) tới giáp đường Cầu Kho, xưa kia nhà phố đông đúc lắm, mỗi nhà chung quanh đều có vườn tược cây trái xum xuê. Gần đây có một xóm nguyên là của những người ăn mày khi trước. Thuở Nguyễn Ánh tỵ nạn trong Nam, bọn này có công cứu giá. Theo khẩu truyền, bữa đó binh Tây Sơn truy nã ngặt lắm. Tưởng vua khó thoát chết. May sao chạy đến đây, bọn ăn mày ra tay ủng hộ. Một mặt họ chỉ đường cho vua ăn nấp. Một mặt họ xúm lại người đánh trống kẻ đập thùng… làm phở lỡ thế nào, binh tướng Tây Sơn ngộ tưởng binh mã Chúa Nguyễn tụ tập nơi đây đông lắm, e quả bất địch chúng, nên họ rút lui, Nguyễn Ánh thoát nạn. Về sau nhớ ơn xưa, Gia Long cho phép lập xóm này ban cho ba chữ "Tân Lộc Phường". Chỗ này, truy ra trước kia là ruộng lúa của người Miên trồng trọt, đủ biết hồi đời đó, dân thưa đất rộng đến bậc nào.
Qua tay Nam trào, dân ta bồi ruộng thành đất nền và đào một con kinh để lấy đất lấp nền, dân trong xóm làm một cây cầu lấy tên "Cầu Gạo", vì trong xóm chuyên bán gạo. Cách đó không xa có một xóm bán lá lợp nhà, tục danh "Xóm Lá Buông". Xóm Lá Buông ăn thông qua đường Boresse cũ, giáp lại với Xóm Cầu Quan đã có nói rồi.
Xóm Lá Buông nay biết được vị trí của nó nhờ trong sách có ghi rằng nơi đây có một khúc đường danh gọi "Đường Nước Nhỉ". Đường này xét ra ở giữa đường đi Chợ Lớn đầu này trở ra Bến Thành, mé ngoài là chợ Kim Chung (Kim Chương), mé trong là "Xóm Cây Da Thằng Mọi". Tài liệu này tôi gặp trong chú thích ghi dưới bài "Gia ĐỊnh vịnh" bản in Trương Vĩnh Ký 1882.
Theo một chỗ khác trong diễn văn đọc tại trường Hậu Bổ 1885, "Souvenirs historiques", chính cụ Trương Vĩnh Ký cắt nghĩa thêm rằng: "Đường Nước Nhỉ" có cái tên làm vậy vì thường thường đường này bị ngập lụt, tứ mùa ẩm ướt. Nếu ai còn giữ bức địa đồ xưa nào, xin tìm hộ con đường Nước Nhỉ, theo cụ Vĩnh Ký thì ở vào lối khoảng đất đi chưa tới Sở Nuôi Ngựa (Haras) của nhà binh và Đồng Tập Trận (Plaine des tombeaux), từ vườn Bà Lớn (Phan Thanh Giản) ngó qua Trường Đua cũ, cánh Đồng Tập Trận ăn thông đến Xóm Lách, trên đường Yên Đỗ, chạy ra sau nhà cũ Blancsubé, vì nhà này thường được nhắc đi nhắc lại trong bài khảo cứu của cụ Trương Vĩnh Ký. Nay định chừng thì nhà Blancsubé vốn ở lối đường Lê Văn Duyệt (Verdun cũ) giữa chặng thành Ô Ma (trụ sở Công an và Cảnh sát) chạy lên Chợ Đũi. Con Đường Nước Nhỉ phải chăng nay là con đường Cống Quỳnh ăn qua đường Phạm Ngũ Lão? Đường Cống Quỳnh trước kia là con đường Blancsubé sau đổi làm rue d’Arras.
Để nhắc lại đây là một danh từ "là lạ" xưa thường dùng mà không nghe nay nói nữa, danh từ này thoạt nghe như có tính cách tục tĩu đó là hai tiếng "Cầu Khấc". Theo cụ Trương Vĩnh Ký xưa có đến hai cái cầu trùng tên như vậy: ấy là "Cầu Bà Châu" (phải chăng Bà Lệ Châu thờ làm tổ của những người thợ bạc thợ vàng Chợ Lớn?) và một cầu khác nữa là "Cầu Khấc" ngoài chợ Cầu Kho đi lên Đường Nước Nhỉ nói trên.
Trong "Gia Định vịnh" có câu:
"Trên cây Da Còm, nỡ để ông Già gùi đội;
Dưới đường Cầu Khấc, chỉ cho trẻ con lạc loài"
Hai câu này dạy ta hai việc:
- Một là người xưa tánh tình chất phác thấy sao nói vậy, không hiểu nghĩa đôi ba, thanh ý tục, không kỵ cữ tiếng trùng âm như bây giờ;
- Hai là bởi quá say mê văn biền ngẫu, mỗi câu đều muốn đối chọi, chơi chữ, thành thử tối nghĩa. Đại ý như hai câu trên là:
Câu thứ nhất nhắc"Cây Da Còm" nảy ý nhớ đến cảnh "Ông Già" gùi đội trong đèn dầu "Thằng Mọi chân quỳ", hoặc văn vật, nhớ câu"Lão giả bất phụ đái ư đạo lộ" (lời Thầy Mạnh), ý muốn nói hễ nước nhà thịnh trị thì "ông già không gùi đội"… (gùi đội là mang đội).
Câu nhì nói "Cầu Khấc" thị tứ, trẻ con có thể lạc đường… (câu này theo tôi không có cũng được).
j) Gần Dinh Độc Lập
Toà án hiện nay và trường Pháp Chasseloup cũ, đều ở ngoài thành luỹ. Dinh Tả quân phu nhân ở vòng rào dinh Thống Nhất (dinh Độc Lập - 1960) ngày nay.
Xa một độ thì có "Nhà Hoa", tức là chốn dành cho Tả quân đến thưởng hoa giải muộn. Nhà hát bội, trường bắn ná cũng của Tả quân, nền Xã tắc đều ở vùng này. Xóm Lụa (dệt và bán lụa) cũng ở gần đây. Còn con đường Hồng Thập Tự chạy đến Sở Nuôi Ngựa cũ thì có "Xóm Thuẫn", "Xóm Chậu", "Xóm Củ Cải".
"Chợ Cây Vông" thì ở lối nghĩa địa đô thành ngày nay ăn giáp tới Cầu Bông. Theo ông Trần Văn Học là ông quan đàng cựu đời Gia Long có công vẽ ra bản đồ thành Sài Gòn thời ấy (1815) thì Cầu Bông, trước kia gọi là "Cầu Cao Miên" sau đổi là "Cầu Hoa" rồi vì huý tên một bà phi tần của đức Minh Mạng nên gọi "Cầu Bông" cho đến ngày nay.
Còn trên đường Trưng Vương, có một cái cầu gọi là "Cầu Xóm Kiệu" sau gọi tắt "Cầu Kiệu", nay còn giữ tên y như trước.
Qua khỏi "Cầu Kiệu" thì tới chợ Phú Nhuận, tục danh xưa là "Chợ Xã Tài", (mả ở đường Công Lý nay đã cải táng). Làng Phú Nhuận, theo cụ Trương Vĩnh Ký, xưa sung túc lắm, trong làng đếm đến bảy mươi hai kiểng chùa, nay đâu còn?
k) Qua bên Thị Nghè
Thì gặp hai cầu: "Cầu Sơn" ở vùng đình Cầu Sơn và "Cầu Lầu".
Cũng tại Thị Nghè, trước nhà thương Dưỡng lão, có một khoảng ruộng công điền, xưa gọi là "Tịch Điền", mỗi năm Lê Tả quân đều có đến khai "lễ hạ canh" làm gương cho nông phu bắt đầu mùa năm mới, kế bên sở "Tịch Điền" có cái đền "Thần Nông", nay nhà cửa dân cư đã xâm nhập mất dấu.
Theo cụ Trương Vĩnh Ký, lối năm 1885, gần rạch Thị Nghè đổ ra sông Sài Gòn, có một miếu thờ Đức Thánh Khổng Phu Tử, nay cũng không truy đúng ra ở nơi nào (trong phần chú thích "Gia Định vịnh" có ghi Văn Thánh Miếu, xưa ở đường Cầu Thị Nghè qua Cầu Sơn, Cầu Lầu, khúc vòng nông, thân trên Rạch Bà Nghè). Theo nguyên văn câu này đó ai biết Miếu Văn Thánh nay ở vào đâu?
l) Trên đường Cao Thắng
Gần Tam Tông Miếu, mấy năm về trước còn thấy một ngôi mộ xây ô dước to lớn, vì chồm ra lộ cái quá nhiều nên bị cải táng. Hỏi ra đó là mả Huỳnh Công Lý. Công Lý là quan to có con gái hầu đức Minh Mạng, được vua sủng ái nên hay cậy thế ỷ thần. Theo cụ Trương Vĩnh Ký chép lại, Lê Tả quân mắc ra chầu vua ngoài Huế, Công Lý ở lại Sài Gòn, có làm nhiều điều ngang dọc và dường như có xúc phạm đến một cô hầu của Tả quân. Khi về Quan Lớn Thượng hay được cả giận bèn tâu tự sự lên Minh Mạng. Oâng ua này có ý binh vực cha vợ nên hạ chỉ giải Công Lý ra Kinh đặng dễ bề tha tội. Tả quân biết trước, sẵn có trong tay Thượng phương Kiếm được quyền "tiền trảm hậu tấu" bèn chém đầu Huỳnh Công Lý, sai quân đóng thùng ướp muối, gởi thủ cấp về Kinh, trên nắp thùng viết mấy chữ: "Phụng Thừa Thánh Chỉ, xử trảm tội nhân". Minh Mạng thấy sự đã rồi, trong lòng căm giận nhưng không làm gì được Lê Công. Sau Bố chánh Bạch Xuân Nguyên đem chuyện này ra kết tội khi quân cho Lê Công và vu thêm nhiều tội lớn nữa. Vì vậy mới có giặc Phó Vệ uý Khôi làm phản, giết Bạch Xuân Nguyên, chiếm cứ thành Sài Gòn cố thủ được ba năm. Năm 1834, Khôi đau bịnh rồi chết, bình định xong giặc Khôi, Minh Mạng sai phá bỏ thành Sài Gòn, và năm 1836 xây lại cái thành khác nhỏ hơn bằng vật liệu sẵn như đã nói rồi đoạn trước.
Thuở ấy trong dân gian có câu hát:
"Bao giờ bắt được giặc Khôi.
Cho yên việc nước chồng tôi đặng về".
Khôi có hai phó tướng giúp sức, là ông Hoành (tú tài) và ông Trấm. Hai người ăn ở ngang tàng, ai ai cũng sợ họ. Ngày nay, mỗi khi gặp người quá ngang ngạnh, bực tức quá thì người dân Sài Gòn Bà Chiểu thường nói:
- Cha! Bộ nó là ông Hoành tái thế sao mà?
- Mấy cha đó, đâu cũng là ông Hoành ông Trấm chi đây!

Chú thích:  
 [38] Le nom de Chợ Quán, applique' aux villages de Tân Kiểng, Nhơn giang, Bình Yên, était celui du marche' qui se trouvait sous les grands tamariniers de l'avenue de l'hôpital de Chợ Quán. Il y avait beaucop d ' auberges, de la le nom de Chợ (marche') quán (auberge).
Entre l'avenue de l'h ôpital et la ferme des Mares était le village de fondeurs. Nhơn Ngãi (aujuord'hui Nhơn Giang). On y remarque les vestiges dun ancien village cambodgien. Une grande pagode cambodgienne avec des tours en brisques, se trouvait sur une propriété. En y creusant on trouve des brisques cambodgiennes, des nénuphars en terre cuite, de petits bouddhas en bronzee, en pierre. Il y reste encore deux blocs de granit bien poli et ornés de sculptures en relief.(Ces pierres se trouvent actuellement au Musée National du Viet Nam (Jardin Botanique) Saigon NDLR. De Chợ Quán (Nhơn Giang) jusqu à la route qui descend à Cầu Kho, ce bord était habite' et parseme' de maisons entoutees de jardins. (Souvenirs historiques de Saigon et de ses environs, par Trương Vĩnh Ký, 1885, page 28).
[39] Cao Man Kiều: Ở Bình Dương, năm Tân Hợi quốc sơ – 1731 – vua nước Cao Man là Nặc Tha bị Nặc Sô đánh đuổi chạy qua Gia Định ở nương cậy chỗ đất khoáng đãng nơi thượng du con sông, mà chỗ ở lại cách sông, phải làm cầu ván qua lại, nên gọi là cầu Cao Man, trích từ Đại Nam nhất thống chí, tập 2, bản dịch Nguyễn Tạo, trang 77.
[40] Miên gọi “Kompong Krebei” – krompong là vùng, krebei là trâu, nghé – Việt có danh từ “Ngưu Chử” nôm na là “Bến Nghé” hay là dịch lại của người Miên chăng?.
[41] Danh từ “lâm vồ” tôi chỉ nghe phổ hóa ở vùng Sóc Trăng, Bạc Liêu, Trà Vinh tức những xứ có người Miên ở. Theo tôi, “lâm vồ” do chữ “đơn pô” của người Miên mà có. Cây ficus indica, figuier d’Inde, Banian trong từ điển Génibret chắc “bồ đề”, cây “da”, cây “lâm vồ” là phải? Người Miên họ nói thà sát nhơn còn hơn “hạ lâm vồ” vì sát nhơn chỉ giết người còn “hạ lâm vồ” là phá nơi Phật dựa.
[42] Đường Trần Hưng Đạo, lúc dự thảo thì định phải chạy ngay từ trước nhà “Quốc Hội” - nay là nhà hát thành phố - thẳng một mạch vô Chợ Lớn, đi ngang chợ Bến Thành, thẳng bon một đường, như vậy mới đúng luật thẩm mỹ, nhưng khi bắt tay vào việc thì “đụng chạm phong thủy, mồ mả nhiều vọng tộc”, nên đành sửa lại uốn vẹo từ chợ Bến Thành, vẻ mỹ quan bớt đi một vài.
[43] Bouchot - La naissance et les premières années de Saigon, ville francaise (B.S.E. I. 1922. No 2 page 73 và B.S.E.I. Octobre 1935, page 84 )
[44] Người Miên xưa gọi vùng này là “kongpongluong” tức “bến vua”. Sách sử Việt đã âm từ này ra “lâm phong long” trong tấu sớ. Về sau, đặt “Huyền Tân Long” đất Sài Gòn, theo tôi ắt cũng dễ khêu gợi ít nhiều danh từ Miên “kompongluong” vậy_VHS.
[45] Theo bà Hilda Arnold, lại có một hành cung ở chỗ Sở Thương Chánh hiện nay, vào đời Chúa Nguyễn. Năm 1865, Pháp lập nơi đó nhà chi nhánh Bưu Điện, khúc đầu đường de la Somme, lối năm 1947 - 1948, tôi còn đến đây lãnh bưu kiện. (Còn nhà Bưu điện chánh, xưa xây từ năm 1886, đến năm 1891 mới hoàn thành).
[46] Arsenal có từ năm 1864. Nhà của viên giám đốc sở Ba Son, góc đường Cường Để Nguyễn Du. Dinh này xây từ năm 1877.
[47] Một thuyết khác, theo ông Trần Văn Hương, thì “Répatation” biến thành “Ba Son” cũng như danh từ “Bồ Rô” do chữ “pelouse” mà ra. Tôi xin chép cả ra đây, mặc cho các bạn tự do lựa chọn.
[48] Dinh Gia Long hiện nay. Trước lấy kiểu theo viện triển lãm hội họa thành Munich (pinacothèque de Munich) vì định xây xong sẽ lấy đó làm viện trưng bày những kinh tế phẩm trong xứ (musée de économique). Nhưng khi xây cất rồi thì viên thống đốc choán ở, cho đến nay viện bảo tàng kinh tế phẩm chưa có chỗ xứng đáng để dọn. Dinh Gia Long, xây từ năm 1885 đến năm 1890 mới hoàn thành. Lối năm 1941-42, viên Thống đốc Hoeffel phá bỏ mặt tiền dinh nầy và mặt tiền Nhà Hát Đô Thành, thay bộ diện theo kiểu mới như ta thấy ngày nay...
[49] Câu trên có khi nghe hát: “Thượng thơ bán giấy”_tức bán giấy tín chỉ dân mua đặng lập tờ ly hôn;Thủ Ngữ treo cờ_treo cờ ám hiệu; Mũ ni đánh đạo v.v… Theo tôi, câu này không thiết thực bằng câu trên - VHS.
[50] Ông Nguyễn Liên Phong, một thi sĩ thời ấy, đã ghi lại mấy câu như sau:
Có chỗ ghi giờ nhựt trung
Trên tàu Ông Thượng đặt vòng địa la;
Còn năm ba phút vậy mà,
Đem đồ hiệu lịnh kéo qua cột cờ,
Đợi đến đúng mười hai giờ,
Đồ kia rớt xuống súng hờ giật dây,
Nổ lên một tiếng vang dầy,
Châu thành bốn phía sum vầy giấc trưa...
(Nam Kỳ Phong Tục Nhơn Vật Diễn Ca,Nguyẽn Liên Phong, in nhà Phát Toán, 1909).
[51] Theo bà Hilda Arnold, thì tờ điều ước ngày 5-6-1862 giữa ba nước Pháp - Iphanho - Đại Nam, vẫn ký nơi Trường Thi nầy...
[52] Loài cá sấu sức khỏe và sống dai lắm. Ở Cần Thơ cũng có Rạch Cầu Sấu, chuyên bán thịt cá sấu như ở Sài Gòn. Họ trói hai khuỷu chân trước, xỏ luồn qua một cây tre dài. Con này nối đuôi con kia ngâm cả xâu hai bên thuyền để cá sấu dưới nước làm bè thả từ Sông Cái Nam Vang về Cần Thơ, bán lần hồi cho đến hết sạch mà không chết con nào. Trong sách “Thói thực ký văn” trang 208 ông Trương Quốc Dung thuật rằng làm thịt sấu, cứ để vậy, trước cắt đuôi ăn dần lên, miễn đừng chạm đến tạng ruột thì đến một tuần nhựt cá sấu vẫn không chết? Trên Nam Vang mùa nước hạ, thổ dân đốt đèn lấy tre dập mặt nước ao hồ thì cá sấu sợ, bò lên, họ theo sau lừa dịp nắm hai chân trước lật khuỷu trói lại thì bắt được, dễ quá! Chờ được nhiều rồi sẽ xỏ tre rồi lấy dùi sắt chích con chót, nó trườn tới đẩy lẫn nhau, muốn đem đi đâu tùy ý...
[53] Tôi vừa điều tra lại, rõ ra tòa nhà gỗ năm căn cất trong vòng rào nhà Linh Mục đường Phan Đình Phùng, như hiện ta thấy tu chỉnh làm tiểu giáo đường, vốn là nhà xưa của đức cha Lefebvre, chớ không phải của đức cha Bá Đa Lộc. Nhà cũ Lefebvre nầy, như vậy thuộc thời Tự Đức (1847 - 1883).
[54] Về dinh Tổng thống sau gọi là dinh Độc Lập. Dinh cũ thời Pháp để lại, xưa lễ đặt viên đá đầu tiên là ngày 23-02-1863, dinh này xây xong năm 1869, tới năm 1875 mới hoàn thành phần trang hoàng bên trong. Sau này bị phá mất và xây lại hoàn toàn mới.
[55] Trại lính sen đầm (caserne Lelièvre), nay là trại lính Hiến Binh Cộng Hoà, gần Thư viện Quốc Gia đường Gia Long, xây năm 1874.
- Khám Lớn Sài Gòn xây năm 1886 đến năm 1890, phá bỏ lối năm 1954.
Mé sông, ngay đầu đường Catinat(Đồng Khởi), trước kia có tháp Lemaille, dựng năm 1865 do Phòng Thương mãi Sài Gòn đảm đương. Lemaille từ trần lối 1862-1863. Tháp Lemaille sau dời về khu “Một Hình”, đối diện tháp Doudard de Lagrée, mất năm 1895. Chung quanh tháp de Lagrée có đặt 12 khẩu súng đồng kiểu chế đời Gia Long, Minh Mạng, đặt họng trở xuống đất, trên có xiềng lòi tói như hàng rào, xem rất nhục… cũng may nay súng gỡ ra đêm nhập Viện Bảo tàng. Một Hình cũng bị phá bỏ.
Chủng viện (Séminaire), còn thấy trên bảng kỷ niệm câu này: “Cette maison a été dédiée à Saint Joseph. Construite par le Père Wibeaux en 1863, elle fut agrandie et bénie par Mgr Colombert 1881”-Nhà này dâng kính cho Thánh Joseph. Đây là công tạo lập của cha Wibeaux xây năm 1863. Đức Cha Colomber nới rộng thêm và ban phép lành năm 1881.
Lính I Pha Nho theo chân lính Pháp qua đây năm 1859, trước đóng binh đường d’Espagne, đến ngày 31-03-1863, có lịnh rút về căn cứ Manille.
Cerle Militaire của Pháp, đường Thống Nhất thuộc Bộ Tư pháp, xây năm 1876.
[56] Đường Norodom cũng gọi đường Hoàng Lân, (Thống Nhất), cho thông thương từ 1872. một khúc đường này và đường Catinat được tráng nhựa đầu tiên, xưa chúng tôi gọi là đường keo su.
- Các giếng đường Thống Nhất đều do kỹ sư Berger đứng coi đào năm 1884.
- Trại lính thủy mé sông (caserne Garnier) có từ năm 1906.
- Dưỡng đường Angier, có từ năm 1908, ở ngay vườn Bách thảo, góc Nguyễn Bỉnh Khiêm-Lê Thánh Tôn, bị bom Mỹ dội năm 1944, nay đã dẹp và thay vào là dưỡng đường Saint Paul, đặt ở đường Phan Thanh Giản (nay là Điện Biên Phủ) ngay trường nữ học Gia Long.
- Đường Lefèbvre (Nguyễn Công Trứ) có ngôi nhà số 1 cũ nhất, xây năm 1865.
- Đường Chaigneau (Tôn Thất Đạm), nơi nhà số 49, bà Arnold thấy một hồ nước bằng đá đề 1856, đường Pellerin (Pasteur), nhà số 20 và đường Dayor (Nguyễn Văn Sâm) số 26 là nhà xưa, kiến trúc theo điệu Tàu, có hồi văn, bắt chỉ, sơn son, mạ vàng.
- Tòa Pháp đình, xây từ năm 1881 đến năm 1885.
- Trường Chasseloup Laubat, nay đã đổi là trường Jean Jacques Rousseau, kế là trung tâm giáo dục Lê Quý Đôn, xây từ 1879 đến 1885.
[57] Kompong là vũng; Krabei là trâu => Vũng Trâu
[58] Nên tìm xem bản đồ nhà phố đời xưa trong quyển "Souvernirs đinochine" của Paul Doumer, trương 69.
[59] Nay khảo bộ Đại Nam Nhất thống chí bản dịch ông Cử Nguyễn Tạo trang 74 thấy ghi: “nơi chợ Tân Kiểng, thường năm đến ngày Nguyên đán, có tổ chức cuộc chơi vân xa và đánh đu tiên, nên gọi là Chợ Lớn”. Lấy đó mà suy chỗ này xưa phải phồn thịnh nhứt mới có bày những thú phong lưu xưa như “vân xa”, “đu tiên”. Có phải là “Đề Ngạn” sơ khởi ở chốn này chăng? Nào dè chưa đầy hai trăm năm, mà đã “sao dời vật đổi”, chốn phồn thịnh nhứt đã không còn ở chỗ cũ năm xưa! Cũng trong Đại Nam Nhất thống chí trang 91 có nhắc tích năm Canh Dần thứ sáu-1771-đời vua Duệ Tông có con hổ vào nhà một người dân phía Nam chợ Tân Kiểng, nhờ có sư Tăng Ân và đồ đệ tên Trí Năng hiệp sức mới hạ được. Điển này cho ta biết thế kỷ XVIII, vùng Chợ Quán còn cọp đến viếng!
[60] Tầu khậu, hoặc "tùa khậu", do hai chữ "Đại Khố" đọc giọng Tiều (Triều Châu).
[61] Tháng hai năm 1961, đang lấp bằng, nhưng Cầu Ba Cẳng đến năm 1968 vẫn còn ngó thấy chớ không phá bỏ.
[62] Còn một đường xe lửa nhỏ nối liền Chợ Đất Hộ (Đa Kao) qua Chợ Tân Định, chạy dài theo con đường Paul Bert (Trần Quang Khải). Sơ khởi chạy không lấy tiền, sau phải thâu tượng trưng mỗi chuyến một xu, để tránh nạn trẻ nít lên ngồi chóan chỗ khách bộ hành phải đứng!
[63] Danh từ "Thuận Kiều", trong vài sách Pháp lại viết "Tong Keou" khiến chúng ta hoang mang: kẻ dịch "Đông Kiều", người rằng "Đông Khấu"! Trong quyển Histoire de l'expédition de Cochinchine của Pallu de la Barrière, danh từ "Đồng Cháy", Pháp viết "Done Chai", thiệt là "bí lù".
Trong quyển Bulletin de la Société des Etudes Indonchinoises, trương 93, tác giả kể "les forts de Nghia, de Biguckague, et de Kiala, ceux de Tangray et de Tanky" (de Bazancuort p. 307 - 308). Il est difficile en raison de l'orthographe apdaot ée par l'auteur, de savoir òu se trouvaient ces ouvrages." (B.S.E.I Octobre - Decembre 1935, p.93). Theo tôi, tôi định cho đây là những đồn: đồn Nghĩa, đồn Bình Khánh, đồn Chà Là, đồn Tấn Ngãi, đồn Tân Kỳ, định vậy nhưng còn chờ các học giả uyên thâm phủ chính.
Về chú thích (63), xin nói rằng lối ghi âm xưa của người Pháp không liên quan gì mấy với mục khảo cứu nầy, nhưng xét cũng nên dẫn ra đây, để bớt hoang mang hỗn độn trong trí óc non một phần nào.)
[64] Bảy bang có phải: Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến, Hakas (Khách gia, Hẹ) Hải Nam, Chettys, Chà Và (gồm người mập lễ " Pakistanais", người Hồi Hồi "Mahométans" chănng? Khó trả lời dứt khoát, vì xưa chưa có người Tàu tỉnh Bắc Kinh và Tô Châu và các tỉnh khác qua đây. Bảy bang là bảy bang Trung Hoa hay pha lộn bảy bang người ngoại kiều như trên: tức liệt người Ấn Đô, khác tôn giáo, khác phong tục, chung hàng ngũ với Trung Hoa? Kẻ ăn thịt mỡ, người chừa thịt heo, thế mà khi xưa người Pháp ép nhập nhau, lạ thật?
[65] Điều Khiển là một chức quan võ cầm binh đánh giặc trước thời Gia Long, thuở ấy thành lũy tại Sài Gòn chưa có cho nên chỗ ông Điều Khiển đồn binh hạ trại thì gọi là“Đồn Dinh”. Danh từ "Điều Khiển" và "Đồn Dinh" đã tùy thời thế, tùy địa lợi mà thay đổi xê dịch, khi thấy sách tả "đóng đồn bên kia Tân Thuận", khi lại ghi " ở bên nầy sông Thị Nghè", chúng ta không nên thắc mắc như nhiều tác giả ngoại quốc, không nên "quơ đũa cả nắm như một sử gia Pháp, cắt nghĩa: "Đồn Dinh" là chỗ đóng binh, là dinh trại của "Đông Định Vương Nguyễn Văn Lữ "!
"Sở Nuôi Ngựa "haras" ": Luôn tiện nên nói là "Sở Nuôi Ngựa" như trong tập "Ký Ức Lục" của cụ Trương Vĩnh Ký thường kể lại, theo tôi ắt ở vùng gần nền chùa cũ "Kim Cương Tự", trong bản đồ Trần Văn Học, còn chỗ khác lại viết "Kim Chương", không biết danh từ nào đúng. Đây là một Sở Nuôi Ngựa của nhà binh Pháp, họ đóng binh ở đâu là đặt sở nuôi ngựa của họ gần đó cho tiện, chớ Sở nuôi ngựa "xa vinh" (civil) thời kỳ ấy chưa có (mới lập nghe lối đầu năm 1913).
Maison Blancsubé:Cụ Trương Vĩnh Ký trong "Souvenirs historiques" thường nhắc nhà Blancsubé làm căn cứ phăng cho ra mối các địa điểm khác. Tôi có hỏi thăm Sở Địa Chánh cũng như Sở Tạo Tác, Sở Kiến Thiết Đô Thành, không đây biết toà nhà nầy xưa tọa lạc tại đâu. Căn cứ vào tài liệu nhiều nơi, tôi định chừng nhà Blancsubé ở lối đường Verdun cũ, khỏi Chợ Đũi nhưng chưa tới Rạch và Mộ phần ông Nhiêu Lộc, mà đá Nhiêu Lộc nay tìm ra trong đất xóm sân bay nới rộng đường Chi Lăng, giữa khoảng ngã tư Chi Lăng - Ngô Đình Khôi, và Chi Lăng - Võ Di Nguy. Xin chờ các bậc lão thành phủ chính.
[66] Danh từ Mả Ngụy bây giờ thỉnh thoảng còn nghe trong dân gian dùng từ nguyền rủa độc địa: “Đồ Mả Ngụy đầu thai!” để trách những đứa con ngỗ nghịch bất hiếu cãi lời cha mẹ – V.H.S. Còn đây là chú thích của ông Đặng Văn Ký, tự Minh Tải, học giả ở Gò Vấp. “Mả Ngụy Khôi – chỗ ngã tư Lê Văn Duyệt và Phan Thanh Giản – nay là CMT8 và ĐBPhủ – khoảng Bình Dân bệnh viện. Từ đường Lê Văn Duyệt vào Chợ Lớn, Mả Ngụy nằm mé tay mặt.”
[67] Ông Lê Thành Khôi, tác giả một cuốn sử Việt bằng Pháp Văn rất hay rất đầy đủ, cẩn thận hơn, viết "pr és de 2000... " ( số bị hạ sát dưới 2.000 người )
[68] Khôi là người Nùng, Tả quân bắt được, thương tài không giết, nuôi làm dưỡng tử cho ăn họ Lê Khôi, võ nghệ tuyệt luân, tay không hạ cọp trước mặt sứ thần Xiêm La quốc. Tả quân từ trần, Khôi không chịu nổi cử chỉ đê hèn của vài ô quan nên dậy giặc, giết quan triều đình chống binh chính phủ trong ba năm. Sau Khôi bị chết, triều đình mới hạ được thành Sài Gòn, Minh Mạng chưa hả cơn giận, sai phá thành bình địa và làm cỏ dân vô tội một cách tàn nhẫn.
[69] Đây là một đoạn sử bi thảm. Duệ Tông và Mục Vương bị binh Tây Sơn bắt một phần lỗi lớn là tại Đỗ Thành Nhơn bất hòa cùng một tướng Tàu. Tướng này đã đầu hàng chúa Nguyễn, tên Lý Tài, có chân trong một hội kín, kiểu như Thiên Địa Hội sau này. Xét ra nếu Lý Tài và Đỗ Thành Nhơn biết liên kết thì Nguyễn Chúa chưa bị bắt, Tây Sơn chưa mạnh thế như sau, việc trong Nam đã thay đổi khác. Một điều khác là trong đạo binh Nguyễn Huệ đánh binh Thanh sau này có trà trộn một phần binh Minh tiếp tay nhưng không ra mặt.
[70] Trong Đại Nam nhất thống chí, quyển 2, bản dịch Nguyễn Tạo, thấy trang 79 ghi như vầy: “Trần Tướng quân từ” – ở địa phận thôn Tòng Chính huyện Bình Dương. Tướng quân họ Trần, tên Thương Xuyên, người Quảng Đông, làm chức Tổng binh đời Minh, Minh mất, không chịu thần phục vua nhà Thanh, nên quy phục bản triều, đánh Cao Man có công, lại lập phố chợ ở Sài Gòn_xin hiểu là Chợ Lớn ngày nay_chiêu tụ khách thương, người đời sau nhớ công đức lập đền thờ, trong niên hiệu Minh Mạng, Thiệu Trị, đều phong làm thượng đẳng thần, đến nay xã dân phụng tự, hương hỏa như xưa. Có phải chùa “Trần Tướng” và “Trần tướng quân từ” vẫn là một hay không? Dầu sao hai chùa đã mất tích từ 1885 rồi!.
[71] Tài liệu này tôi viết theo nhiều sách cũ nhưng năm 1960, tôi gặp bạn học năm xưa trường Chasseloup là ông Kha Vạn Lượng, làm chủ ban quản trị chùa Minh Hương Gia Thạnh, thì ông cải chính rằng trong chùa không có sắc vua vì đây là “người gốc Tàu nên vua Việt không sắc phong được”. Ông KVL thêm rằng trong chùa thờ hai chữ đại tự “Long Phi” là chỉ thờ vua Minh Mạng đó, và nghĩ cho điển này qua lọt mắt người Mãn Thanh vào thời ấy, cũng lạ vậy thay - VHS.
[72] Cũng bài thơ“Vịnh Cây Mai” của Tôn Thọ Tường, tôi thấy còn hai bản khác nữa, tiện đây xin chép ra nhàn lãm. Xin hỏi tại sao một bài văn của Pháp, Trung Hoa như thơ của Victor Hugo, của Lý Thái Bạch thì Pháp, Trung Hoa, Nhật Bản, Đài Loan, Mỹ đều y như nhau một bản, không sai một chữ, còn đến phiên thơ trong Nam như Lục Vân Tiên của cụ NĐC, thơ của Tôn Thọ Tường, thơ của Phan Văn Trị cho đến ngoài Bắc như Kim Vân Kiều của cụ ND, thơ của các ông Nguyễn Khuyến, Cao Bá Quát đều tam sao thất bổn, mỗi ông sao chép đều sửa đổi khác nhau rất nhiều, và chừng nào mới nói chuyện thống nhất các bản văn xưa lại cho học sinh, sĩ tử nhờ?
Một bài đề Đông Mai Sơn cảm tác – số 61
“Lắc lẻo thương mai phận dưới đèo,
Trăm phần trong sạch phận cheo leo,
Hoa in tuyết đóng nhành thưa thớt,
Gió thổi hương tàn sãi quạnh hiu,
Lẳng lặng chuông rung cơn bóng xế,
Tò le kèn thổi mặt trời chiều,
Những tay rượu thánh thi thần cũ
Nhìn cảnh bao nhiêu cảm bấy nhiêu.”
Bản này sao y nguyên văn trong xấp “Cổ Thị” trang 42, tập “Việt âm văn tuyển” của nhà in J.Viết năm 1919.
Còn đây làbản của Đông Hồ tiên sinh sao lục , đăng trong “Bách Khoa” số 76 ngày 1/3/1960:
“Cám cảnh Cây Mai cách dưới đèo,
Mười phần trong sạch phận cheo leo.
Sương in tuyết đóng cành thưa thớt,
Xuân tới thu về nỗi quạnh hiu.
Lặng lẽ chuông quen cơn bóng xế,
Tò le kèn lạ mặt trời chiều.
Những tay rượt thánh thơ thần cũ,
Trông cảnh bao nhiêu tiếc bấy nhiêu.”
Dám xin hỏi nội quân tử nhất là Đông Hồ lão huynh dạy cho tôi biết còn bản nào khác nữa chăng và bản nào đúng chính nguyên văn của Tôn Thọ Tường?
[73] Trong vài sách Pháp họ viết “Tả quân” là “le Ta kun”.
[74] Theo “Monographie de la province de Gia Dinh” thì năm 1833, lúc đánh với giặc Khôi, ông Trương Minh Giảng ra lệnh đốt cầu Cao Miên.
[75] Gọi làm vậy vì đây là “hoa viên Lê Tả quân”.

1 nhận xét:

  1. Con vô tình đọc được bài này khi tìm kiếm thông tin về Đồn Cây Mai. Đọc xong trong lòng cảm thấy thật sự ấn tượng. Con cảm ơn tác giả rất nhiều vì những kiến thức rất hay về Sài Gòn xưa ạ.

    Trả lờiXóa

  Tết Sài Gòn trăm năm trước ra sao?   Biết những gì xảy ra trong quá khứ xa xưa dường như là mơ ước muôn đời của con người. Bởi trong c...