Thứ Ba, 29 tháng 3, 2016



CĂN CỨ TRUYẾN TIN PHÚ LÂM
(ĐÀI RA ĐA PHÚ LÂM)

Xin nói trước đây không phải là công trình có giá trị như những kiến trúc của thời thuộc địa còn lưu lại trong ký ức người Sài Gòn – Gia Định, Chuyện tôi đề cập ở đây là cái căn cứ này chỉ mới hình thành trong thời gian chiến tranh Việt Nam nhưng nó mang dấu ấn với người dân nơi này mổi khi đi đến xa cảng miền Tây hay về miền Tây phải đi ngang nó vào cái thời mà khu vực chung quanh còn trống trãi, khu dân cư còn thưa thớt với những trũng nước đưng lác, rau muống hoang và hơn nữa là một bãi rác to lớn nằm tại giao lộ Lục Tỉnh – Hậu Giang.


Căn cứ truyền tin Phú Lâm (màu xanh lá cây) trong bản đồ năm 1966

Căn cứ truyền tin Phú Lâm mà người dân thời đó gọi lầm là đài ra đa Phú Lâm vì thấy những tấm phản chiếu tín hiệu to lớn đặt dài theo căn cứ và cái tên gọi lầm này tồn tại cho tới ngày hôm nay mặc dù dấu vết của căn cứ này không còn nữa.
Mãi cho đến đầu những năm 1950, Hoa Kỳ có sự quan tâm đối với khu vực Đông Nam Á, dù đang bận rộn với cuộc chiến tranh lạnh ở châu Âu. Do đó, Hoa Kỳ thành lập một trạm thông tin liên lạc nhỏ ở Sài Gòn vào năm 1951 để theo dõi các sự kiện đang phát triển ở Việt Nam. Trạm đó, nằm trong khu cơ quan hỗ trợ quân sự và Tư vấn (MAAG), bao gồm một kênh đơn, vô tuyến H.F.liên kết với căn cứ không quân Clark ở Philippines và phục vụ cho đại sứ quán Hoa Kỳ và cho một số ít các cố vấn quân sự. Nó dần dần phát triển thành khu phức hợp truyền thông lớn ở Phú Lâm. Với thất bại của Pháp ở Điện Biên Phủ năm 1954 và sự xuất hiện của Lý thuyết Domino, sứ mệnh của Hoa Kỳ tại Sài Gòn và trạm truyền thông Starcom của quân đội có ngày càng trở nên quan trọng hơn. Trong năm 1956, các máy phát vô tuyến đã được chuyển đến các trạm truyền tin cũ của Pháp trong khi trạm thu đã được chuyển tới Bà Quẹo, gần sân bay Tân Sơn Nhất.



Vào cuối những năm 1950, sự dính líu của Hoa Kỳ vào Việt Nam càng ngày càng leo thang, đặc biệt là sau khi hai cố vấn Mỹ đầu tiên thiệt mạng trong năm 1959, và kế hoạch đã được thực hiện để nâng cấp hệ thống truyền tin. Trong năm 1962, các hệ thống truyền thông băng rộng Wet Wash đã được phê duyệt cho Tây Thái Bình Dương. Nó bao gồm một cáp ngầm từ Philippines đến Nha Trang và truyền tín hiệu đối lưu từ đó đến Phú Lâm. Đến giữa năm 1962, 130 người đã đóng quân tại Phú Lâm và chịu trách nhiệm về hoạt động mạch phát thanh H.F. đến Bang Pla, Thái Lan; San Miguel, Philippines; và Ft. Buckner, Okinawa. Đến cuối năm 1965, khi quân đội Mỹ tăng ở mức 180.000 quân, nhu cầu về thông tin liên lạc vẫn tăng đều đặn. Số nhân viên làm việc ở trạm Phú Lâm sau đó vượt quá 350 người. Đồng thời, 23 doanh trại dành cho 200 nhân viên đã được hoàn thành. Năm 1968 tăng lên 700 nhân viên và xây dựng thêm một thư viện và một nhà nguyện.




Căn cứ truyền tin Phú Lâm trong quá trình xây dựng





Nhà nguyện



Doanh trại dành cho nhân viên

Năm 1972 sau khi thực hiện chính sách Việt Nam hóa chiến tranh và quân đội bắt đầu triệt thoái, căn cứ truyền tin Phú Lâm giãm cường độ hoạt động và chấm dứt hoạt động vào tháng 11 năm 1972, khi Lữ đoàn Signal 1 chuyển qua Hàn Quốc. Căn cứ được trang bị những phương tiện truyền tin tối tân nhất của quân đội Mỹ lúc bấy giờ như siêu tần số, vi ba, vệ tinh, v.v. Tuy nhiên hầu hết những phương tiện này đã được tháo gở đem về Mỹ. Quân đội VNCH sau đó tiếp thu trạm này và duy trì hoạt động cho đến tháng 4 năm 1975.

Ngày nay khi mọi người đi ngang qua khu vực này đều không biết một thời đã có một căn cứ truyền tin lớn nhất được đặt tại đây. Thời gian trôi đi dấu vết không còn, bãi rác đã thành một công viên rợp bóng mát và những trũng nước đưng lác, rau muống hoang, khu căn cứ trở thành khu dân cư đông đúc.








Thứ Tư, 23 tháng 3, 2016

Câu chuyện đẹp về những chiếc nơ vàng 

gắn trên hàng xà cừ ở đường Tôn Đức Thắng



Rồi đây những hàng cây xanh rợp bóng mát trên đường Cường Để xưa kia không còn nữa. Một con đường êm đềm, thơ mộng nữa sẽ biến mất mang theo biết bao kỷ niệm của người dân Sài Gòn. nếu có linh hồn tôi xin cầu chúc cho những cây tội nghiệp này đừng bao giờ đầu thai tại xứ Việt Nam này nữa.



Hai ngày qua, người dân Sài Gòn khi đi trên "con đường màu xanh" Tôn Đức Thắng (Quận 1), đều khá ngạc nhiên khi nhìn thấy những chiếc nơ vàng được gắn trên mỗi thân cây xà cừ.

Câu chuyện đẹp về những chiếc nơ vàng gắn trên hàng xà cừ ở đường Tôn Đức Thắng 1

Hai ngày qua, người dân Sài Gòn khi đi trên "con đường màu xanh" Tôn Đức Thắng (Quận 1), đều không khỏi chạnh lòng khi nhìn thấy những chiếc nơ vàng được gắn trên mỗi thân cây xà cừ. 
Câu chuyện đẹp về những chiếc nơ vàng gắn trên hàng xà cừ ở đường Tôn Đức Thắng 2

"Bạn cũng đến chào tạm biệt nhé. Hãy tranh thủ đi qua những ngày cây còn đó, và có thể gắn tặng một chiếc nơ" - Đó là thông điệp của một nhóm bạn trẻ gửi đến những ai yêu quý hàng cây trên con đường này. Các bạn trẻ hy vọng mọi người cũng đều gắn tặng chiếc nơ lên mỗi thân cây, thay cho lời cảm ơn và tạm biệt khi những hàng cây này trong tương lai sẽ biến mất.

Câu chuyện đẹp về những chiếc nơ vàng gắn trên hàng xà cừ ở đường Tôn Đức Thắng 3

Người dân thành phố đều biết rằng, hàng cây cổ thụ trên đường Tôn Đức Thắng sẽ bị đốn hàng loạt để xây cầu Thủ Thiêm 2. Việc đốn hạ sẽ được thực hiện trong 3 năm và dự kiến thay thế bằng cây bằng lăng.

Câu chuyện đẹp về những chiếc nơ vàng gắn trên hàng xà cừ ở đường Tôn Đức Thắng 4

Hàng cây 100 tuổi này là những "báu vật xanh" của thành phố, khí trời oi bức của Sài Gòn nhờ những nhánh xà cừ xanh tươi tỏa mát mà dịu đi hẳn.
Câu chuyện đẹp về những chiếc nơ vàng gắn trên hàng xà cừ ở đường Tôn Đức Thắng 5

Việc gắn nơ được cô gái Lại Hồng Vy, 23 tuổi - là người quản lý fanpage Chuyện của Nghề - lên ý tưởng thực hiện. Những mùa lá bay trên con đường Tôn Đức Thắng đã là mùa thu của cô gái ấy trong suốt 9 năm ở Sài Gòn. Vy chia sẻ: "Hồi nhỏ lúc tôi học tiểu học, tôi đi bộ đến trường giữa mùa thu lá vàng rụng đầy. Khi vào Sài Gòn, cứ ngỡ mình chẳng bao giờ bắt gặp lại khung cảnh đó nữa, và rồi tôi gặp được hàng cây này..."

Câu chuyện đẹp về những chiếc nơ vàng gắn trên hàng xà cừ ở đường Tôn Đức Thắng 6

Trên fanpage Chuyện của Nghề, Hồng Vy viết: "Hôm qua, tôi cùng bạn đi gắn nơ cho những cây xà cừ trên đường Tôn Đức Thắng. Chúng tôi chỉ muốn nói lời cảm ơn và tạm biệt những hàng cây này. Một ngày kia, ở đây sẽ chẳng còn thấy lá rơi xao xác, chẳng còn bóng mát lung linh trong nắng vàng. Nếu buồn thì hãy cứ để mình buồn. Đừng ngại khi có tấm lòng".

Câu chuyện đẹp về những chiếc nơ vàng gắn trên hàng xà cừ ở đường Tôn Đức Thắng 7

Không chỉ riêng nhóm bạn trẻ cảm thấy nuối tiếc khi biết hàng cây sẽ bị đốn bỏ, những người dân lao động nghèo hàng ngày mưu sinh dưới bóng mát của những hàng cây trên con đường này đều không khỏi chạnh lòng. "Ngày mai, có lẽ tôi cũng sẽ tự gắn lên thân cây này một chiếc nơ", một bác vá xe lâu năm tại đây cho biết.

Câu chuyện đẹp về những chiếc nơ vàng gắn trên hàng xà cừ ở đường Tôn Đức Thắng 8

Những chiếc nơ vàng được gắn dưới mỗi số thứ tự đánh dấu trên những thân cây, thay cho lời tạm biệt gửi đến hàng cây cổ thụ trên "con đường màu xanh" của thành phố.
Câu chuyện đẹp về những chiếc nơ vàng gắn trên hàng xà cừ ở đường Tôn Đức Thắng 9

Trong 272 cây xanh ảnh hưởng bởi dự án có 84 cây phải đốn hạ, 37 cây sẽ được di dời và 151 cây được giữ lại. Từ ngày 25/11, đã có 5 cây xanh trên tuyến đường này bị đốn bỏ.
Câu chuyện đẹp về những chiếc nơ vàng gắn trên hàng xà cừ ở đường Tôn Đức Thắng 10

Người Sài Gòn hiểu rằng, việc xây dựng cầu Thủ Thiêm 2 tại đây sẽ rất thuận tiện cho việc lưu thông sau này. Việc "đánh đổi" là tất yếu nhưng phải mất đi hàng cây từng gắn bó với người thành phố thế này khiến họ cảm thấy nuối tiếc.
Câu chuyện đẹp về những chiếc nơ vàng gắn trên hàng xà cừ ở đường Tôn Đức Thắng 11

Hồng Vy cho biết, ý tưởng gắn chiếc nơ ruy-băng vàng lên thân cây được lấy từ bài hát "Tie an yellow ribbon round the old oak tree" (Hãy buộc dải ruy băng lên cây sồi già). Bài hát này được sáng tác dựa trên 1 câu chuyện có thật ở Mỹ. Một chàng trai phải ngồi tù trong 3 năm đã viết lá thư gửi về cho vợ, nói rằng nếu cô còn yêu anh và vẫn đợi anh về thì hãy buộc một dải ruy-băng màu vàng trên cây sồi già.  Ngày trở về, anh bật khóc nức nở dưới tán sồi vàng rực bởi hàng trăm dải ruy-băng...

Câu chuyện đẹp về những chiếc nơ vàng gắn trên hàng xà cừ ở đường Tôn Đức Thắng 12

Cũng như lời bài hát, "Anh sẽ quên đi chuyện của chúng ta, nếu như cây sồi già không được buộc một dải ruy-băng nào...", mọi người đều gửi gắm tình cảm của mình đến hàng cây thông qua những chiếc nơ ruy băng này, và hy vọng nó sẽ không bị gỡ bỏ xuống cho đến ngày hàng cây chính thức biến mất.
Theo Quỳnh Trân / Trí Thức Trẻ

Thứ Hai, 21 tháng 3, 2016


Nuối tiếc cầu Ghềnh trăm năm tuổi

Trường Trí - Chủ Nhật, ngày 20/3/2016 - 21:14
((PLO)- Cầu Ghềnh được khởi công xây dựng từ năm 1901 ngay sau khi tuyến quốc lộ 1 và đường sắt Sài Gòn - Nha Trang chạy qua tỉnh Biên Hòa cũng được xây dựng.\

Theo cuốn “Địa chí Đồng Nai” (NXB Tổng Hợp Đồng Nai, 2001), vào ngày 14-1-1904, việc khánh thành cầu Ghềnh đã giúp đoạn đường xe lửa Sài Gòn - Biên Hòa bắt đầu thông xe, chính thức đi vào hoạt động.




Cầu Ghềnh do người Pháp xây dựng từ những năm 1901,
 bắc qua sông Đồng Nai. Ảnh tư liệu

Cầu Ghềnh (người dân còn gọi là cầu Gành) do kỹ sư người Pháp tên Eiffel thiết kế, ông cũng chính là tác giả của tháp Eiffel ở thủ đô Paris (Pháp), nổi tiếng khắp thế giới.

Hệ thống cầu Ghềnh được nâng đỡ bởi ba trụ xây bằng đá rất lớn băng qua một khoảng sông rộng, ba trụ móng này nâng một khối lượng sắt khá lớn. Những nhịp cầu được làm hình vòng cung, gồm có bốn vòng nên người dân quen gọi là cầu bốn nhịp.

Hình dáng của cầu Ghềnh tương đối giống với cầu Trường Tiền (Huế). Điểm đặc biệt nhất của cây cầu này là dù đến nay trải qua hơn 100 năm nhưng cầu Ghềnh vẫn đang là tuyến giao thông đường sắt xuyên Việt.

Như vậy, "cụ" cầu Ghềnh hơn 100 tuổi từ lâu đã là biểu tượng của Biên Hòa, đã thuộc về ký ức thân thương của mỗi người dân Biên Hòa.



Cầu Ghềnh có tổng chiều dài 223,30 m, bao gồm bốn nhịp. Cầu có kết cấu bằng sắt lúc trước trải nhựa sau được lót ván gỗ, có hai lối song hành ở hai bên còn hệ thống đường sắt dành cho xe lửa ở chính giữa. Ảnh: Trường Trí


Cầu Ghềnh là nhịp nối giữa hai bờ Cù Lao Phố (xã Hiệp Hòa, TP Biên Hòa) và phường Bửu Hoà (TP Biên Hòa) xích gần lại với nhau. Ảnh: Trường Trí


Không những thế, cây cầu Ghềnh còn là điểm nhấn độc đáo, tạo một cảnh quan đẹp trên dòng sông Đồng Nai. Ảnh: Trường Trí


Sự kiện cầu Ghềnh bị sập trưa ngày 20-3 gây bàng hoàng và tiếc nuối trong lòng mỗi người dân Biên Hòa. Ảnh: Trường Trí


Phải mất ít nhất 3-5 tháng mới khắc phục xong sự cố sập cầu Ghềnh nhưng hình ảnh và kiến trúc cây cầu xuyên suốt 100 năm qua khó mà phục dựng lại được như nguyên trạng ban đầu. Ảnh: Trường Trí

                                                                                    Trường Trí

Thứ Bảy, 19 tháng 3, 2016

Những công trình trong ký ức


Sân vận động Mayer


Ngày nay không còn ai biết đến sân Mayer, chỉ có những người trên 60 tuổi và là dân Sài Gòn chính cống thì mới biết đến. Thật vậy vết tích của nó đã bị xóa hết từ năm 1965 khi quân đội Mỹ sử dụng nơi này làm kho hậu cần. 




Vị trí sân Mayer trong bản đồ thời Pháp thuộc






Vị trí hiện nay mà khi xưa là của sân Mayer

Theo dòng lịch sử thì sân Mayer được thành lập vào ngày 19 tháng 1 năm 1929 bởi tổng cục thể thao An Nam. Sân nằm trong khu vực của các đường Mayer (Hiền Vương/ Võ Thị Sáu), Le Grand de Liraye (Trương Minh Giảng/ Trần Quốc Thảo), Pierre Fladin (Đoàn Thị Điểm/ Trương Định) và Champagne (Yên Đổ/ Lý Chính Thắng). Lúc đầu diện tích sân rất lớn về sau bị cắt bớt thay vào đó là những biệt thự, khu dân cư. 
Từ ngày thành lập, sân là nơi tổ chức những trận đá banh, là nơi chứng kiến những thành tựu ban đầu của nền bóng đá Nam kỳ. Như năm 1933, đội nữ Cái Vồn đã thủ hòa 2-2 với đội nam Paul Bert.
Ngày 8 tháng 2 năm 1931, Lý Tự Trọng đã bắn chết viên thanh tra mật thám Le Grand trong một cuộc mít tinh xảy ta tại sân Mayer sau một trận đá banh.
Từ ngày 28 tháng 12 năm 1935 đến ngày 1 tháng 1 năm 1936, tại sân Mayer tổng cuộc hướng đạo Nam kỳ tổ chức trại họp mặt Huynh đệ với sự tham dự của hướng đạo bắc, trung kỳ, Pháp, Trung Hoa, Cam Bốt nhân dịp lễ giáng sinh năm 1935 và năm mới 1936.
Năm 1957, đoàn trượt băng nghệ thuật Holiday on ice của Mỹ sử dụng sân này để biểu diễn phục vụ dân Sài Gòn.
Năm 1962, Đoàn xiếc Cộng hòa liên bang Đức sang biểu diễn cũng tại sân này. 
Năm 1968, kho hậu cần của Mỹ tại đây bị VC tấn công trong tết Mậu Thân.
Trong những thập niên đầu 1960 khi đi qua ngả tư Hiền Vương - Trương Minh Giảng, sân Mayer hiện ra là một bãi đất trống với cỏ hoang mọc, sát lề đường là hàng cây me tây. Chỉ có vậy và ngày ngày các thanh niên sống các vùng chung quanh thuở đó mang banh ra đá. Từ đó nó đã chấm dứt thời hoàng kim còn nghe chăng đâu đây văng  vẳng tiếng cổ vũ reo hò của nhưng cổ động viên một thời.






Sân Mayer nhìn từ 2 góc của ngả tư từ năm 1965 về sau

Thứ Năm, 17 tháng 3, 2016

NGÀY ẤY VÀ BÂY GIỜ



                               861. Đường Võ Di Nguy/Hồ Tùng Mậu năm 1966 và hiện nay.


                               862. Ngã 3 Nguyễn cư Trinh & Cống Quỳnh xưa và nay.


                               863. Đường Chu mạnh Trinh xưa và nay.



                               864. Đường Thống Nhất  xưa và nay.



                               865. Đường Duy Tân xưa và nay.



                               866. Một đoạn đường Tự Do xưa và nay.


                               867. Đoạn từ Hàng Sanh vào cầu Phan Thanh Giản xưa và nay.



                               868. Tòa nhà Société Française des Distilleries de l'Indochine về sau là bộ chỉ huy NAVFORV 117 Phan Đình Phùng xưa và nay.


                               869. Cercle Sportif Saigonnais đường Hồng Thập Tự xưa và nay.



                               870. Đường Phan Chu Trinh xưa và nay.



Nguồn Tim Doling, Xuan Nhu Tran

Chủ Nhật, 13 tháng 3, 2016


Những công trình trong ký ức


Quảng trường Francis Garnier
Quảng trường Lam Sơn
Công viên Lê Lợi

Ngày nay thì vết tích toàn bộ khu này kể cả cái xưa nhất và cái mới đây nhất đã bị hoàn toàn xóa sổ. Tôi viết bài này dành cho mọi người nhớ về một công viên giữa lòng thành phố Sài Gòn như một lời ai điếu dành cho số phận của nó.





Ngày xưa khi người Pháp xây dựng thành phố Sài Gòn. Họ đã chú trọng đến những công trình phục vụ cho đời sống sinh hoạt, trong đó là việc quy hoạch lại toàn bộ khu vực trung tâm. Lúc đó khu vực này còn nhiều cây cối mọc um tùm và con kênh chạy dài mà sau này là đường Charner. Đầu thế kỷ 20 nhà hát thành phố xây dựng xong, người Pháp cho xây dựng phía trước một công viên ngăn cách bởi đường Catinat để tạo hài hòa cho không gian kiến trúc này.



Tượng Francis Garnier phía sau lưng là khu vực cây cối um tùm chưa có đại lộ Bonnard

Sau khi khánh thành nhà hát thành phố (theatre munucipale), người Pháp cho xây một công viên như đã nói ở trên và ngày 12 tháng 1 năm 1902 cho khánh thành bức tượng cùng lúc đặt tên cho công viên này là Francis Garnier. (theo tài liệu trang Saint-Etienne-Hanoï-Paris: Francis Garnier- http://www.forez-info.com/encyclopedie/histoire/150-saint-etienne-hanoi-paris-francis-garnier.html)
Bức tượng quay lưng về hướng đại lộ Bonnard và nhìn vào nhà hát thành phố.
Thế còn Francis Garnier là ai? Điều này ai đã từng làm học trò trước năm 1975 tại miền nam Việt Nam cũng đều biết qua giờ học sử.
Marie Joseph François (Francis) Garnier (25 tháng 7 năm 1839  21 tháng 12 năm 1873) là một sĩ quan người Pháp và đồng thời là một nhà thám hiểm, được biết đến vì cuộc thám hiểm sông Mekong 1866-1868 tại khu vực Đông Nam Á, cũng như vì chiến dịch quân sự do ông chỉ huy ở Bắc Kỳ năm 1873 và bị giết bởi quân Cờ Đen.
Sử Việt cũ thường phiên âm tên Garnier là Ngạc Nhi.(Wikipedia)


Sau đây chúng ta xem một đoạn bài viết của Nguyễn Dư từ Lyon viết về việc cải táng thi hài của Francis Garnier: 
" Chiếc xác mất đầu của Francis Garnier được trung sĩ Champion mang về thành cùng với xác của hai lính thuỷ cùng bị giết. (...) Sau buổi lễ cầu hồn do đức cha Puginier thực hiện vào lúc 8 giờ sáng ngày 23/12 (năm 1873) trước sự có mặt của các cha Sohier và Colomer, các thi thể được đóng trong các áo quan bằng gỗ rất dày và được chôn gần Hoàng cung ở chân hai gốc đa lớn ". ( André Masson, Hà Nội giai đoạn 1873-1888, Bản dịch của Lưu Đình Tuân, Hải Phòng, 2003, tr. 58).
Theo thoả thuận được kí kết, mấy cái xác chỉ được chôn tạm gần Hoàng cung. Bao giờ tìm được đất khác thì phải dời đi.
Ngày 31/8/1875, triều đình nhà Nguyễn kí thoả ước nhường đất (nhượng địa) cho Pháp. Khu Nhượng địa nằm phía bờ đê sông Hồng, quanh nhà thương Đồn Thuỷ (Bệnh Viện Hữu Nghị ngày nay).
Có đất, Pháp xây nghĩa địa. Garnier được cải táng.
7 giờ 30 sáng ngày 3/11/1875 bác sĩ Jardon cho khai quật tử thi Garnier để khám nghiệm, viết báo cáo pháp y. Công việc kéo dài đến 4 giờ chiều mới xong. Đám tang được cử hành đưa về một nhà thờ nhỏ của Hà Nội. 7 giờ sáng hôm sau (4/11/1875) đức cha Puginier làm lễ cầu hồn. Sau đó, đám tang được đưa về nghĩa địa mới trong khu Nhượng địa (sđd, tr. 59).
Masson không kể tiếp " hậu vận " của Garnier.
Nằm trong khu Nhượng địa nhưng Garnier vẫn chưa được mồ yên mả đẹp. Gia đình Garnier đòi chôn Garnier trên " đất Pháp ", tại Sài Gòn. Lại cải táng. Ngày 16/12/1875, chiếc áo quan đựng hài cốt Garnier cập bến Sài Gòn. Garnier được đem về chôn tại nghĩa địa Tây (cimetière européen) (địa điểm công viên Lê Văn Tám ngày nay). (Albert de Pouvourville, Francis Garnier, Plon, 1931, tr. 234). Ngôi mộ của Garnier tại Sài Gòn (Tombeau de Francis Garnier à Saigon) được vẽ lại trong sách của de Pouvourville (tr. 192-193). Nhưng tiếc rằng mộ vẽ lại không phải là ngôi mộ được đại uý Charles Peyrin chụp ảnh, năm 1928. Mộ Garnier nằm cạnh mộ de Lagrée ! Lí do của sự gần gũi này như sau :
Trước khi được phái ra Hà Nội năm 1873, Francis Garnier sống tại Sài Gòn và đã từng là phụ tá đắc lực của Doudart de Lagrée trong đoàn thám hiểm sông Cửu Long (từ 5/6/1866 đến 29/6/1868). De Lagrée hơn Garnier 16 tuổi. Hai người tin cậy lẫn nhau. Đặc biệt, Garnier rất mến phục vị trưởng đoàn. Sang đến Trung quốc thì de Lagrée bị bịnh gan, chết tại Vân Nam, ngày 12/3/1868. (De Pouvourville chép là ngày 26/3/1868) (sđd, tr. 120). Garnier quyết định mang thi hài của de Lagrée đi tiếp đến Thượng Hải, lấy tàu trở về chôn ông trên " đất Pháp ", tại Sài Gòn. (Francis Garnier, Voyage d'exploration en Indochine, Jean-Pierre Gomane giới thiệu và chú giải, La Découverte, 1985, tr. 224-226).
Tình cảm sâu đậm của Garnier đối với de Lagrée được mọi người trân trọng. Năm 1875, hài cốt Garnier được mang từ Hà Nội vào Sài Gòn. Người Pháp chôn Garnier cạnh de Lagrée. Cho " thầy trò " gặp lại nhau. Tấm ảnh của Peyrin cũng cho thấy tác giả sách Francis Garnier đã chép sai ngày chết của de Lagrée. 
Tháng 7/1976 Sài Gòn đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh. Vài năm sau, nghĩa địa Tây bị giải toả. Nước Pháp cho Bá Đa Lộc, Doudart de Lagrée, Francis Garnier... " hồi hương ". Lại cải táng. Hài cốt các ông đáp máy bay sang Singapour, rồi được chuyển lên tàu Jeanne d'Arc, đưa về Pháp. Tàu cập bến Brest ngày 26/4/1983. De Lagrée được an nghỉ tại quê nhà vùng Dauphiné. Garnier được táng tại đài kỉ niệm dựng tại ngã tư Saint Michel - Observatoire, quận 5, Paris. (J.P. Gomane, sđd, tr. 17).
Francis Garnier (1839-1873) lập được thành tích... ba lần cải táng. Một kỉ lục !
Nguyễn Dư (Lyon, 3/2010)



Mộ của Francis Garnier trong nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi (cimetière Massiges)

Tem Đông Dương in hình Francis Garnier


 Phiên bản tượng Francis Garnier tại quảng trường Marengo (ngày nay là Jean Jaurès) của điều khắc gia Tony Noël đã bị quân Đức mang đi năm 1942.

Những thay đổi theo dòng thời gian của công trường Francis Garnier và không gian chung quanh.













Khi phát triển hoàn chỉnh người Pháp chi xây dựng một nhà tròn dùng cho dàn nhạc kèn biều diễn mà người dân Sài Gòn thờ đó gọi nôm na là "Bồn kèn"


Năm 1940 tượng Francis Garnier vẫn còn đó và bồn kèn đã dỡ bỏ


Năm 1943 tượng Francis Garnier không còn 


Thời gian sau những kiến trúc hiện đại thay thế dần và
 một đài nước được xây ở vị trí bồn kèn

Khi người Pháp ra đi, chính phủ Việt Nam quyết định đặt tên công viên này là công viên Lê Lợi và khu vực đài nước gọi là công trường Lam Sơn. Nhưng cái tên công viên Lê Lợi thì lại ít người biết mà gọi chung là công trường Lam Sơn.


Công viên Lê Lợi khi chưa có tượng thủy quân lục chiến




Năm 1967, tại vị trí trước đây là bức tượng Francis Garnier chính quyền Đệ nhị Cộng hòa Việt Nam đã cho xây dựng tượng đài Thủy quân lục chiến cao 9 mét, trong tư thế xung phong hướng vào trụ sở Hạ viện. Dư luận đương thời cho đó là một điềm gở khi quân đội "chĩa súng" vào Quốc hội.


Ngày 25 tháng 7 năm 1970, hai người Pháp phản chiến là André Marcel Menras và Jean Pierre Debris đã trèo lên tượng để phất cờ Mặt trận Giải phóng Miền Nam Việt Nam và rải truyền đơn kêu gọi phản chiến. Cả hai đều bị chính quyền Sài Gòn bắt giam và bị Tòa án binh Sài Gòn kết tội "phá rối trị an" với mức án bốn năm tù giam đối với Jean Pierre Debris và ba năm tù giam cho André Marcel Menras. Cả hai bị giam ở khám Chí Hòa sau đó cả hai đều bị đày ra Côn Đảo mãi đến đến cuối năm 1972 thì được trả tự do và trục xuất về Pháp.


Đô thành Sài Gòn – 30 tháng 4 : Cảnh sát Trung tá Nguyễn Văn Long tuẫn tiết trước tượng đài Thủy quân lục chiến (khuôn viên Công trường Lam Sơn, đối diện tòa Hạ nghị viện).


Tượng đài Thủy quân lục chiến bị phá bỏ vào ngày 2/5/1075


Sau 1975 bức tượng "mẫu tử" được dựng tại công viên này.

Và những gì các bạn đều biết sau đó, công viên và đài nước đã bị xóa bỏ dành chổ cho công trình metro. Từ đây cái tên công trường Lam Sơn và công viên Lê Lợi giờ chỉ còn trong ký ức của người Sài Gòn.

  Tết Sài Gòn trăm năm trước ra sao?   Biết những gì xảy ra trong quá khứ xa xưa dường như là mơ ước muôn đời của con người. Bởi trong c...