Thứ Bảy, 30 tháng 9, 2017

NGÀY ẤY VÀ BÂY GIỜ



                        1241. Vị trí Khu lăng Cha cả và đường vào Tân Sơn Nhứt năm 1968 và hiện nay.




                        1242. Bến Bạch Đằng xưa và nay.
\

                        1243. Góc Bạch Đằng - Nguyễn Huệ năm 1979 và nay.


                        1244. Một đoạn Tự Do xưa và nay cùng vị trí.


                        1245. Nhà thờ Đức Bà nhìn từ đường Thống Nhất ngày xưa và giờ đây.


                        1246. Bùng binh Hồng Bàng - Châu Văn Liêm xưa và nay.


                        1247. Góc Hồng Bàng - Tổng Đốc Phương xưa và nay.


                        1248. Biệt thư của ông bà Ưng Thi góc Hồng Thập Tự - Duy Tân ngày xưa và giờ đây.


                        1249. Đường Trương Minh Giảng khúc qua khỏi cầu ngày xưa và giờ đây.


                        1250. Dốc cầu Phan Thanh Giản ngày nào và giờ đây.



Nguồn Tim Doling, Trung Ngo, Paul Blizzard,  Le Anh Nguyen

Thứ Tư, 27 tháng 9, 2017

Hãng dĩa Lê Văn Tài: Dư âm còn vọng
  
Bao nhiêu nước chảy qua cầu từ đó, bao nhiêu người trở thành ngôi sao sân khấu, bao nhiêu tuồng tích trở thành khoảng đời trên sân khấu khiến bao người thổn thức.
Cuối thế kỷ XIX, đường A’Dran (đến 1920 đổi tên thành Georges Guynemer, từ 1955 thành Võ Di Nguy, từ 1976 là Hồ Tùng Mậu) là con đường nhỏ nhưng đông người qua lại vì gần chợ, lại có nhiều cửa hàng của người Hoa. Tuy nhiên, trên con đường này, đoạn giữa đường Denis Frères (Ngô Đức Kế) và Hamelin (Huỳnh Thúc Kháng) có tiệm tạp hóa Vĩnh Thới Sang tại số nhà 82 do người Việt làm chủ.

Thời đó, tiệm tạp hóa có bán cả nữ trang và ông chủ tiệm là Lê Văn Thanh giỏi nghề kim hoàn. Tương truyền ông đã từng chạm hoàn toàn bằng thủ công một chiếc vòng chạm trổ chi tiết rất đẹp và khéo. Thả chiếc vòng xuống nước, vòng cân đối đến độ nằm thẳng băng trên mặt nước. Chiếc vòng này đã được một giải thưởng dành cho nghề kim hoàn thời đó ở Sài Gòn. 

Ông bà Lê Văn Tài và Ngô Thị Mão (*)
Trong số các con của ông Thanh, có ông Lê Văn Tài, sinh năm 1895 tại Sa Đéc. Năm 1927, ông Tài chính thức đăng bộ cửa tiệm Vĩnh Thới Sang của cha mình. 
Do không thích nghề kim hoàn của cha và nhân một dịp ông cùng vợ là bà Ngô Thị Mão về Vĩnh Kim coi hát cải lương, ông Lê Văn Tài chuyển sang buôn bán máy hát dĩa và radio. Đó là những thứ máy móc mà giới trung lưu trở lên ở Sài Gòn, lục tỉnh thích mua. Đồng lòng với chồng, bà Ngô Thị Mão, một phụ nữ bặt thiệp, có nhan sắc và giỏi ngoại giao, chuyên lo giao dịch mần ăn trong thời gian này.


Ông Nguyễn Văn Phương, chồng bà Sáu Liên (phải) cùng người anh rể chụp tại nhà in số 101 Võ Di Nguy - Chợ Cũ Hàm Nghi (*)
Trước đó, từ năm 1936, hãng dĩa hát ASIA của thầy Năm Mạnh đang chiếm lĩnh thị trường dĩa hát cả nước, nhất là ở miền Nam. Nhiều tuồng hay và để đời đã được sản xuất từ hãng này như các tuồng San Hậu, Quan Âm Thị Kính, Tô Ánh Nguyệt, Hoa rơi cửa Phật...
Đến năm 1944, bà Ngô Thị Mão mất. Ông Lê Văn Tài thương nhớ người vợ cùng sở thích cải lương và đờn ca tài tử, nên quyết tâm chuyển từ nghề kinh doanh máy hát dĩa và radio sang lãnh vực sản xuất dĩa hát từ năm 1947 với việc thành lập hãng sản xuất dĩa hát. Cửa hiệu Vĩnh Thới Sang đã đổi thành “Hãng dĩa Lê Văn Tài” kể từ đó. Ông bà Lê Văn Tài có sáu người con. Trong đó, người con đầu Lê Văn Năng làm xuất nhập cảng và cũng có tiếng trong giới doanh thương Sài Gòn thập niên 1940, nắm giữ 18 môn bài xuất nhập cảng. Người con thứ năm, Lê Thành Kiệt sinh năm 1930 và Lê Ngọc Liên, con thứ sáu, sinh năm 1932.
Những người con này về sau giúp ích ông bà rất nhiều trong nghề mới. Anh Lê Văn Năng được cho sang Pháp học thu dĩa, khi về dạy lại cho người thứ bảy là Lê Thành Lực. Anh Lực sẽ chịu trách nhiệm thu thanh. Máy móc do ông Lê Văn Tài bỏ tiền ra để anh Năng nhập cảng về. Sau đó, hãng sẽ tổ chức sản xuất, tìm thầy tuồng, mua kịch bản, mời đào kép thể hiện lời ca tiếng hát, diễn tuồng tích, hãng thu âm xong gửi dĩa gốc qua Pháp để làm khuôn, in ra dĩa, rồi gửi về dán nhãn, đóng gói và phát hành đi khắp nơi.

Các nghệ sĩ vang bóng một thời trong buổi tiệc khai trương hãng Dĩa hát Việt Nam (*)
Anh Kiệt cùng ông gánh vác chuyện làm ăn, là người thay thế mẹ (bà Mão) đi mời các nghệ sĩ tới thâu thanh và giao tế các đại lý. Anh Kiệt khéo léo cư xử, nhất là đối với giới nghệ sĩ là những người cần được chiều chuộng. Qua công việc, ông dần đào tạo em gái mình là Lê Ngọc Liên, sau này thường được gọi là cô Sáu Liên, sẽ là người nối tiếp sự nghiệp gia đình. Các con trong nhà, ngoài giờ học đều tham gia sản xuất băng dĩa ở nhà, mỗi người một tay từ ghi âm, đóng gói, dán nhãn dĩa. Thậm chí giả tiếng gà gáy, chim hót, heo kêu để thu âm cũng là việc do anh Lê Thành Lực đảm nhiệm.
Lúc còn phụ giúp cho cha và anh, Ngọc Liên đang học ở trường Tôn Thọ Tường, nay là Ten-Lơ-Man. Đến năm 1950, Lê Thành Kiệt, người anh hướng dẫn Ngọc Liên theo nghề gia đình, mất sớm khi chỉ mới 20 tuổi vì căn bệnh tim. Đó là số phận khiến Ngọc Liên quyết chí thay anh mình nối nghiệp nhà.
Từ lúc khởi nghiệp, hãng dĩa đã thu rất nhiều giọng ca vàng thời ấy như Tám Thưa, Minh Chí, Năm Phỉ, Phùng Há... Soạn giả Viễn Châu gắn bó với hãng dĩa từ thuở ban đầu. Lúc đầu, ông là thầy đờn, chơi nhạc tài tử cùng ông Lê Văn Tài. Khi hãng dĩa được lập ra, ông Tài bảo ông Viễn Châu: “Thằng Bảy, về viết tuồng đi coi sao!”. Ông Viễn Châu về viết vở tuồng đầu tay có tên Con chim họa mi mang ra cho ông Tài xem. Tuổng được dựng và từ đó, Viễn Châu trở thành thầy tuồng, ngày càng nổi tiếng. Ông Lê Văn Tài cũng gắn bó thân thiết với quái kiệt Trần Văn Trạch và rất được ông Trạch nể nang.

Các nghệ sĩ vang bóng một thời trong buổi tiệc khai trương hãng Dĩa hát Việt Nam
Lúc đầu, hãng dĩa hát của ông thu cổ nhạc nhưng sau đó thu cả tân nhạc. Trong hồi ký, nhạc sĩ Phạm Duy kể lại khi vào Sài Gòn năm 1951: “... khi tôi tới gặp chủ nhân một hãng sản xuất đĩa hát Việt Nam là Lê Văn Tài thì tôi được lĩnh trước một số tiền tác quyền khá lớn. Tân Nhạc ở Saigon lúc này đã có đất sống. Trước kia, các hãng sản xuất đĩa hát chỉ thu thanh cổ nhạc, nay đã khởi sự thu thanh tân nhạc”. Từ đó, Phạm Duy yên tâm vì: “Tôi thấy rằng nếu vào Nam sinh sống, tôi còn có thể tổ chức cho gia đình đi hát ở mọi nơi, nếu chúng tôi thành lập được một ban hợp ca và phối hợp với một ban kịch nhỏ. Chúng tôi sẽ có thể sống bằng nghề âm nhạc, một nghề rất độc lập...” và rồi ông trở ra Hà Nội, dùng số tiền lãnh trước của hãng Lê Văn Tài để mua vé máy bay cho tất cả mọi người đi vào miền Nam.
Hãng dĩa Lê Văn Tài đã là cú hích quan trọng khiến nhạc sĩ này mạnh dạn vào sống trong Nam, tham gia đời sống văn nghệ và giữ vai trò lớn trong sáng tác ca khúc trên quê hương mới. Xem lại cuốn sổ ghi chép công việc của hãng dĩa Lê Văn Tài giai đoạn này, thấy có rất nhiều ghi chú liên quan đến Ban hợp ca Thăng Long và các nhạc sĩ Phạm Duy, Phạm Đình Chương, các ca sĩ Thái Thanh, Thái Hằng, Khánh Ngọc với các ca khúc Quê nghèo (Thái Thanh hát), Viễn du (Phạm Duy và ban Thăng Long), Tình ca (Phạm Duy và Thái Thanh ca)... Các ca khúc của nhạc sĩ khác cũng được thu âm như Hội nghị Diên Hồng, Quân lên đường (Lưu Hữu Phước), Tiếng hát sông Lô (Văn Cao), An Phú Đông (Lê Bình) mang âm hưởng hào hùng của cuộc kháng chiến. Hãng còn thu rất nhiều dĩa của người ban nhạc Soudouch (Campuchia) và kinh Phật.
Năm 1961, bà Lê Ngọc Liên lập gia đình với chồng là thầy giáo dạy Anh văn. Năm 1964, ông Lê Văn Tài mất, để lại hãng dĩa cho các con tiếp tục kinh doanh. Qua năm sau 1965, bà Sáu Liên cùng em là Ngọc Diệp xuất bản nhạc phẩm dưới danh hiệu Việt Nam nhạc tuyển để bán. Đến 1968, bà Sáu Liên tách ra riêng, thành lập một cơ sở mới ở bên kia đường, số 101 Võ Di Nguy, lấy tên là hãng Dĩa hát Việt Nam, dùng logo của hãng dĩa của cha mẹ và vẫn tiếp tục làm việc chung với cô Ngọc Diệp. Ở đây, bà mở thêm một nhà in nhỏ để in bìa băng dĩa hay các tập tuồng, vở ca cổ. Những cuốn này khổ nhỏ, không nhiều trang nhưng được chào đón nồng nhiệt của mọi người từ Sài Gòn - Gia Định đến các tỉnh. Lúc đó, radio bắt đầu phát triển hơn, dĩa hát được giới trung lưu trở lên nghe nhiều nhưng giới bình dân chỉ cần bỏ ra số tiền nhỏ mua một cuốn in bài vọng cổ là có thể nghêu ngao cả ngày. Chị Loan, con bà Sáu Liên kể: “Chỉ cần in những cuốn ca cổ nhỏ xíu thôi, má tôi nuôi được cả nhà vì bán rất đắt hàng!”. Còn căn nhà số 82 của gia đình vẫn tiếp tục kinh doanh dĩa hát do người thứ ba Lê Ngọc Anh và người thứ bảy bán dĩa hát, lúc đó không chỉ có cổ nhạc mà còn có tân nhạc, băng nhạc Shotgun...

Lúc này, ngoài hãng ASIA (do ông Ba Đức, con ông Năm Mạnh thay cha điều hành), còn có nhiều hãng dĩa như Việt Hải, Continental... Tuy nhiên hãng Dĩa hát Việt Nam đã dần lấn lướt nhờ tổ chức tốt, trong đó bà Sáu Liên lo chuyện tổ chức mời nghệ sĩ, thu âm, còn việc ngoại giao, lăng xê nghệ sĩ trên báo đài thì người chồng của bà chu tất.
Các nghệ sĩ nổi tiếng như Minh Phụng, Minh Cảnh, Lệ Thủy lần lượt đầu quân về hãng dĩa và trở thành nghệ sĩ độc quyền. Mỗi hợp đồng độc quyền trị giá vài lượng vàng, còn tiền thu bài tính riêng, đã vậy cát xê liên tục tăng. Bà Sáu Liên kể là lúc đó, cha của nghệ sĩ Minh Vương có dắt anh đến gặp bà. Lúc đó Minh Vương đang còn rất trẻ, chưa có tiếng tăm dù đã hát cho hãng dĩa Việt Hải. Bà Sáu Liên cùng soạn giả Loan Thảo quyết tâm lăng xê giọng ca của nghệ sĩ Minh Vương với bài Bông lang (sic) hát cùng với một cô đào đang nổi tiếng và từng hát cặp với Minh Phụng, Minh Cảnh là Lệ Thủy. Minh Vương phất lên từ đó, được soạn giả Loan Thảo “đo ni đóng giày”, tìm bài bản phù hợp để cho anh biểu diễn.

Sau đó, đến các giọng ca Chí Tâm, Thanh Kim Huệ được đưa lên từ hãng dĩa này. Bà Sáu Liên thỉnh thoảng còn nhắc với các con về buổi tất niên trước năm 1975 tại nhà của gia đình số 37 Phạm Đăng Hưng, Đa Kao với đông đủ các nghệ sĩ của hãng dĩa, một buổi tất niên thời hoàng kim của hãng Dĩa hát Việt Nam. Tân nhạc đã có vị trí trong hãng dĩa của bà, thu nhiều dĩa nhạc của Phương Dung, Hoàng Oanh và đến đầu thập niên 1970, các ca khúc tân cổ đều chuyển sang thu âm bằng băng cassette và băng cối. Những băng nhạc như Rạng đông trên quê hương, Tình bơ vơ rất thu hút.

Sau năm 1975, bà Sáu Liên không duy trì được hãng dĩa nhưng cố giữ nghề bằng cách liên kết với một đài truyền hình ở miền Tây Nam bộ để phát một số bài ca hay được phép hát. Đến năm 1991, bà làm lại băng dĩa, nhờ pháp nhân của ban nhạc Đồng Tháp làm lại các tuồng như Lan và Điệp, Người tình trên chiến trận. Bà tiếp tục lăng xê các giọng ca mới như Châu Thanh, Phượng Hằng, Cẩm Tiên. Bà vẫn còn lợi thế của một người trong ngành, dù không phải là nghệ sĩ nhưng từng sống trong không khí âm nhạc từ nhỏ, biết nhận ra tuồng hay, bài ca ngọt ngào và đánh hơi được giọng ca nào sẽ trở thành sao. Nhiều ngôi sao tân cổ nhạc mới xuất hiện từ hãng dĩa của bà, nhiều tuồng cải lương được dàn dựng ở đây trở nên ăn khách như Lan và Điệp, Người tình trên chiến trận, Đêm lạnh chùa hoang, Mùa thu trên Bạch Mã Sơn, Tâm sự loài chim biển...
Bà Sáu Liên năm nay đã 85 tuổi. Do sức khỏe và sự minh mẫn của bà đã giảm sút nên chị Loan, con gái bà cố giữ hãng Dĩa hát Việt Nam trong tình hình băng dĩa ế ẩm. Ngôi nhà số 82 Hồ Tùng Mậu phải cho thuê tầng trệt để có tiền nuôi hãng dĩa. Chị Loan nói: “Tôi cố giữ hãng dĩa cho má vui, dù không biết còn mấy người đi mua dĩa trong khi ai cũng có thể nghe đàn hát trên internet”. Bà Sáu không thường lui tới hãng và nơi tầng lầu bày bán dĩa, nhưng bà vẫn giữ rất kỹ những dĩa gốc thu từ khi xưa. Chị Loan kể người trong nhà thường bảo nhau: “Ăn trộm mà có vào nhà, má không sợ mất hột xoàn, tiền bạc, mà chỉ sợ mất dĩa gốc!”. Những dĩa gốc này, suýt bị tiêu hủy năm 1978, có lúc đem đi giấu nhờ dưới gầm giường nhà hàng xóm giữa đám bụi bặm cho đến sau này bà chịu tốn kém chuyển thành CD, lưu giữ được di sản vọng cổ và tuồng cải lương một thời.

Bà Sáu Liên chụp với nghệ sĩ Mỹ Châu năm 2015 nhân dịp Mỹ Châu về Việt Nam
Bao nhiêu nước chảy qua cầu từ đó, bao nhiêu người trở thành ngôi sao sân khấu, bao nhiêu tuồng tích trở thành khoảng đời trên sân khấu khiến bao người thổn thức. Những nghệ sĩ năm xưa từng thu dĩa tại hãng Lê Văn Tài và Dĩa hát Việt Nam vẫn yêu quý bà, rất vui mừng khi được gặp lại bà chủ hãng dĩa tận tâm và phóng khoáng với anh em nghệ sĩ từ thuở họ chân ướt chân ráo theo con đường ca hát. Bà đã và sẽ giữ lửa đam mê đến phút cuối, ngọn lửa có được từ khi bà còn là cô bé mới lớn phụ cha mẹ ở hãng dĩa Lê Văn Tài 70 năm trước.
                                                                                     Phạm Công Luận
(*) Ảnh tư liệu gia đình do bà Lê Ngọc Liên cung cấp

Thứ Sáu, 22 tháng 9, 2017

CÓ THỂ CHÚNG TA CHƯA BIẾT HẾT

BEYLIÉ. Tượng bán thân của  général de.
KHU TRƯỜNG THI GIA ĐỊNH.
 TRUNG TÂM SINH HOẠT THANH NIÊN.


Tượng bán thân này nằm trong bãi cỏ hình bán nguyệt thuộc khu vực Trường thi (ancien Camp des Lettrés) đường  Blancsubé.


Khu vực Trường Thi trong bản đồ 1882 lúa đó chưa có đường M. Pourpe



Bản đồ 1923 cho thấy khu vực này là một công viên



Tượng đài Tướng Léon de Beylié

           Léon, Marie, Eugène de BEYLIÉ sinh ngày 26 tháng11 năm 1849 Tại Strasbourg và qua đời ngày 15 tháng 7 năm 1910 gần Tha-Dua trên sông Mêkông (Lào), là một tướng tướng, nhà khảo cổ học và ân nhân của Bảo tàng Grenoble .
Sự nghiệp quân sự của ông diễn ra chủ yếu ở Đông Dương thuộc Pháp , nơi ông qua đời trong chiến dịch quân sự lần thứ sáu của mình.


Léon de BEYLIÉ


Quốc sử quán triều Nguyễn mô tả Trường thi Gia Định trong sách Đại Nam nhất thống chí, phần "Tỉnh Gia Định", như sau: Trường nằm trên đất thôn Hòa Nghĩa, phía tây thành Gia Định, có "chu vi 193 trượng 6 thước (khoảng 850m), tường cao 4 thước 5 tấc (gần 2m)". Như vậy khu vực này là một hình tứ giác mà các cạnh của nó là đường Blancsubé (Duy Tân/Phạm Ngọc Thạch), đường M. Pourpe (Nguyễn Văn Chiêm), đường Chasseloup Laubat (Hồng Thập Tự/Nguyễn Thị Minh Khai) và đường Paul Blanchy (Hai Bà Trưng).




Trường thi Gia Định là nơi Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp ký hòa ước Sài Gòn với Pháp ngày 5 tháng 6 năm 1962. 



Khung cảnh lều chõng ứng thí tại Trường thi Gia Định

Sau khi chinh phục được Sài Gòn và Gia Định, Người Pháp đã chiếm khu Trường Thi và lập một đài cung cấp nước cho thành phố ở cạnh khu vực này. Người Pháp sử dụng khu này cho quân đội, làm nhà ở cho nhân viên thủy cục và xây sân tennis. Về sau người Pháp cho xây  dựng một công viên nhỏ và nơi đó đặt tượng bán thân của  tướng Beylié. Không biết lý do bức tượng này đã bị dẹp bỏ nhưng một điều rõ ràng là khu vực này sau đó biến thành một quần thể sân tennis. Đây là nơi hình thành Câu lạc bộ Boule Gauloise, Hội quần vợt Garcerie -Tennis Club, tập hợp những tay vợt có tiếng sài Gòn lúc bấy giờ, cụ thể như ông Nguyễn Văn Chiêm mà về sau người Pháp lấy tên ông đặt cho con đường bên hông khu vực này.
Đến thời VNCH, phía bên Hồng Thập Tự và Duy Tân là trụ sở của Thanh niên Cộng hòa. Về sau là trung tâm sinh hoạt thanh niên số 4 Duy Tân. Năm 1972 tại nơi này đã tổ chức cuộc triễn lãm ảnh nghệ thuật quốc tế. Sau 1975 nơi này là nhà văn hóa thanh niên.

                                                                                    (Còn tiếp)

Thứ Hai, 18 tháng 9, 2017

NGÀY ẤY VÀ BÂY GIỜ


                        1231. Vị trí giao lộ Hàm Nghi - Võ Di Nguy/ Hồ Tùng Mậu - Phủ Kiệt / Hải Triều) năm 1966 và hiện nay.


                        1232. Bệnh viện Sài Gòn 125 Lê Lợi xưa và nay.



                        1233. Từ rạp Rex nhìn qua khu  passage Eden ngày xưa và giờ nay.



                        1234. Đoạn cuối đường Tự Do xưa và nay.



                        1235. Đoạn gần ngả tư Ngô Quyền - Đồng Khánh năm 1966 và hiện nay.



                        1236. Một cửa tiệm góc Hàm Nghi - Tôn Thất Đạm ngày xưa và vị trí ngày nay.



                        1237. Giao lộ Nguyễn Huệ- Huỳnh Thúc Kháng năm 1964 và hiện nay.



                        1238. Cửa tiệm ở đường Hàm Nghi khoảng giữa Tôn Thất Đạm và Võ Di Nguy xưa và nay.


                        1239. phía sau nhà thờ Đức Bà góc ra Thồng Nhất xưa và nay.



                        1240. Ngả tư Nguyễn Huệ - Nguyễn Thiệp xưa và nay.



Nguồn Tim Doling, Trung Ngo, Paul Blizzard, Nghia Nguyen, Le Anh Nguyen

Thứ Sáu, 15 tháng 9, 2017

Bài này được trích dịch từ chuyên đề GUIDE HISTORIQUE DES RUES DE SAIGON của ANDRÉ BAUDRIT.

LAI LỊCH NHỮNG TÊN ĐƯỜNG ĐẦU TIÊN

CỦA THÀNH PHỐ SÀI GÒN

(Phần tiếp theo)


TESTARD. Hướng Đông Bắc – Tây Nam nối quảng trường Maréchal-Joffre với đường Verdun.
Đầu tiên tên là đường Larclause nối dài. Tên sau này được đặt vào ngày 28 tháng 2 năm 1897.


Bản đồ 1898


Bản đồ 1958 là đường Trần Quý Cáp

Ghi chú: bản đồ hiện tại là Võ Văn Tần

Jules, Marcelin, Albert TESTARD sinh ngày 17 tháng 11 năm  1814. Ông vào quân đội thuộc địa năm 1833. Ông từng là chỉ huy tại Nouméa, Nouvelle-Calédonie. Năm 1861, ông đến Sài Gòn phục vụ dưới quyền của đô đốc CHARNER. Ông là thiếu tá thuộc trung đoàn thứ 3 hải quân. Ông chết trong trận đánh đồn Kỳ Hòa.


THÉVENET. Hướng Đông Bắc – Tây Nam nối đường Mac-Mahon với đường Verdun.
Đường Thévenet được xây dựng hai lần: Phần thứ nhất từ đường Mac-Mahon đến đường Barbé hồi đầu thế kỷ 20; phần thứ hai từ đường Barbé đến đường Verdun vào năm 1908.
Đầu tiên là đường số 6, tên sau này được đặt vào ngày 30 tháng 3 năm 1905.



Bản đồ 1923


Bản đồ 1958 là đường Tú Xương


THÉVENET đến Sài Gòn năm 1897 và là kỹ sư cầu đường, giám đốc nha Công chánh Nam Kỳ.



THOMSON. Hướng Tây Bắc – Đông Nam nối đường Mayer tới đường Legrand-de-la-Liraye và chạy dọc theo mặt đông bắc nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi.
Năm 1906, một kiến nghị tên là FONTAINE của chánh ủy viên Troupes coloniales đưa lên hội đồng thành phố nên đặt một cái tên cho con đường số 9 nơi ông ta cư ngụ. Đế nghị này được chấp thuận với cái tên là THOMSON, người kế vị của LE MYRE DE VILERS.
Về sau với quyết định ngày 23 tháng 1 năm 1943, cái tên Paulin VIAL đã thay thế tên cũ.


Bản đồ 1923 là đường THOMSON


Bản đồ 1943 là đường Paulin VIAL



Bản đồ 1958 là đường Phan Liêm



Charles, Antoine, Francis THOMSON sinh ngày 25 tháng 9 năm 1845 tại Mustapha Pacha ngày nay là Sidi M'Hamed, quận Algiers, và qua đời tại Marseilles vào ngày 9 tháng 7 năm 1898, là một quan chức và nhà ngoại giao Pháp, thống đốc của Nam kỳ 1882-1886.


Francis THOMSON

TRUONG-MINH-KY. Hướng Đông Bắc – Tây Nam nối đường Larégnère với đường Flandin. Là con đưởng hẹp và ngắn, nó còn kéo dài tới đường Lacant rồi đường Verdun.
Theo lời đề nghị của ông TRAN THAI NGUYEN mong muốn hội đồng thành phố đặt tên Trương Minh Ký cho một đường. Người ta đã lấy một phần của đường Lacant để đặt tên này.
Về sau quyết định của toàn quyền ký ngày 23 tháng 1 năm 1943 đã lọai bỏ tên Lacant và con đường này hoàn toàn mang tên Trương Minh Ký.


Bản đồ  1937 là đường Lacant


Bản đồ 1943 là đường Trương Minh Ký



Bản đồ 1958 tên không đổi

Ghi chú: Bản đồ hiện tại là đường Nguyễn Thị Diệu


Trương Minh Ký sinh tại Chợ Lớn ngày  16 tháng 10 năm 1855 và mất tại sài Gòn ngày 11 tháng 8 năm 1900. Ông là ủy viên hội đồng thành phố và đã hiến đất của ông cho việc xây dựng con đường này. là nhà giáo, nhà báo, nhà văn hóa Việt Nam. Cũng như thầy mình là Trương Vĩnh Ký, ông có nhiều đóng góp quan trọng trong việc phát triển nền văn học Quốc ngữ Việt Nam.



TURC. Hướng Đông Bắc – Tây Nam đường rất ngắn nối đường Catinat với quảng trường Rigault-de-Genouilly sông Sài Gòn.
Là một trong những con đường người Pháp xây dựng tại Sài Gòn và là con đường tỏa ra quảng trường Rigault-de-Genouilly. Đầu tiên nó là đường số 7. Với quyết định của thị trưởng BARBIER và sự phê chuẫn của đô đốc DUPRÉ ngày 27 tháng 1 năm 1871 đặt tên cho nó  là đường Turc.


Bản đồ 1882


Bản đồ 1958 là đường Hồ Huấn Nghiệp


Louis TURC sinh ngày 5 tháng 3 năm 1829 ở SaintGermain-de-la-Corbette (Lozère). Ông vào trường y hải quân năm 1854 và trở thành bác sĩ giải phẩu hạng 3 vào năm 1856.
Đến Sài gòn, ông là bác sĩ giải phẩu ở  Mỹ Tho trước khi ông qua lãnh vực dân sự. Ông là thanh tra tập sự trong Affaires indigènes ngày 1 tháng 8 năm 1865. Được xếp hạng 4 ngày 1 tháng 1 năm 1867; được xếp hạng 3 ngày 15 tháng 5 năm 1867. Tám ngày sau đó, ông trở thành ủy viên hội đồng thành phố.
Năm 1874, ông là lãnh sự tại Hải Phòng và ở đó cho tới năm 1879. Ông rời Đông Dương ngày 21 tháng 12 năm 1884.



VANNIER. Hướng Đông Bắc – Tây Nam nối đường Georges-Guynemer với đại lộ Charner.
Là một con đường xưa có tên đầu tiên là đường số 5, đổ ra quảng trường Rigault-deGenouilly. Tên VANNIER được đât bởi quyết định của đô đốc DE LA GRANDIÈRE ngày 1 tháng 2 năm 1865.
Năm 1937, đoạn đường từ quảng trường tới đại lộ Charner đổi tên lại là đường des Frères-Denis.


Bản đồ 1878


Bản đồ 1943 có một đoạn đường đổi tên des Frères-Denis.



Bản đồ 1958 là đường Ngô Đức Kế


Philippe VANNIER sinh ở Auray (Morbihan) năm 1762.   Từ năm 1778 ông tham gia phục vụ Hải quân Hoàng gia Pháp, và được ghi nhận là đã tham gia vào cuộc Chiến tranh giành độc lập Hoa Kỳ.
Philippe Vannier giúp đỡ Nguyễn Ánh theo lời kêu gọi của giám mục Bá Đa Lộc. Năm 1790, Nguyễn Ánh giao cho ông chỉ huy một còn tàu trong hạm đội của mình. Năm 1792, ông điều khiển một con tàu trước đó do Jean-Marie Dayot chỉ huy và đánh nhau trong trận Quy Nhơn. Năm 1800, Philippe Vannier chỉ huy tàu Phượng Phi, con tàu lớn nhất trong lực lượng hải quân của Nguyễn Ánh với 26 súng và 300 lính. Tháng 4 năm 1801, ông lại đánh nhau ở trước Quy Nhơn một lần nữa và được thăng lên hàm Đô đốc chỉ huy Hải quân quân Nguyễn. Trận này đã mở đường cho Nguyễn Ánh tiến ra Bắc.
Sau khi chiến tranh kết thúc, ông ở lại Việt Nam và trở thành quan Nhà Nguyễn. ông cưới một phụ nữ người Việt theo công giáo tên là Madeleine Sel-Dong và có rất nhiều con. ông phục vụ với tên Việt Nguyễn Văn Chấn tới năm 1826 nhưng rời khỏi Việt Nam cùng thời gian với Jean-Baptiste Chaigneau, sau khi vị vua không ưa Pháp là Minh Mạng lên ngôi.
Philippe Vannier mất ngày 6 tháng 6 năm 1842 tại Lorient. 



VASSOIGNE. Hướng Bắc Đông Bắc – Tây Tây Nam nối đường Paul-Blanchy với đường Paul Bert. Nó tiếp giáp với chợ Tân Định.
 Xưa là đường số 41. Ngày 30 tháng 3 năm 1906, hội đồng thành phố đặt tên Vassoigne cho con đường này.


Bản đồ 1920


Bản đồ 1942


Bản đồ 1958 là đường Trần Văn Thạch

Ghi chú: Bản đồ hiện tại là đường Nguyễn Hữu Cầu


Jules, Jean, Pierre DE VASSOIGNE  sinh ngày 27 tháng 5 năm 1811 ở Rivière-Salée ( Martinique ) và qua đời ngày 3 tháng 10 năm 1891 ở Paris , là một tướng Pháp.
Ông nổi bật ở Baltic trong năm 1854 chống lại người Nga (Chiến dịch của Bomarsund), Ngày 22 tháng 9 năm 1856, ông được bổ nhiệm làm Đại tá và chỉ huy Trung Đoàn 3 (1856/1859) tại Rochefort. Vào ngày 7 tháng 11 năm 1860, ông được thăng tổng tư lệnh và phái đến Bắc Kỳ để giải tỏa Tourane. Vào giữa tháng 2 năm 1861, ông được giao nhiệm vụ chuẩn bị tấn công mặt đất trên đường tới Ki-Hoa Ngày 27 tháng 2 năm 1861, tấn công các pháo đài của Ki-Hoa, ông ta bị thương nặng bởi một mũi tên. 


Pierre DE VASSOIGNE

VERDUN. Hướng Tây Bắc – Đông Nam nối giao lộ các đường Krantz, Frère-Louis, Phan-thanhGian, La-Grandière, Lacote tới phần giáp ngoại ộ thành phố theo hướng Tây Bắc. Nó còn là đường quốc lộ 1 nối Sài Gòn với Pnom-Penh.
Đường này trước đó chỉ là một đường mòn. Nó mang tên là đường Thuận Kiều theo tên một ngôi thành An Nam dsu này đã bị san phẳng ở một chục cây số cách Sài Gòn hay cách hai cây số của con đường Pnom-Penh trên hương lộ đến Đức Hòa.
Năm 1916, một ủy ban của hội đồng thành phố đề nghị đặt tên cho con đường này là đường Verdun và lời đề nghị được chấp thuận (10/8/1916).


VERDUN là một trận lớn chính của mặt trận phía Tây trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Trận đánh nổ ra giữa quân đội Đức và Pháp từ 21 tháng 2 đến 19 tháng 12 năm 1916 xung quanh Verdun-sur-Meuse ở đông bắc Pháp.



Bản đồ 1942


Bản đồ 1958 là đường Lê Văn Duyệt Sài Gòn

Ghi chú: Bản đồ hiện tại là đường Cách mạng Tháng 8


VIÉNOT. Hướng Bắc Tây Bắc – Nam Đông Nam là con đường chạy dọc chợ Bến Thành nhập với đường Espagne ở phần đầu đại lộ Bonard.
Tên được đặt theo quyết định ngày 20 tháng 6 năm 1913.


Bản đồ 1926


Bản đồ 1958 là đường Phan Bội Châu

Henri VIÉNOT sinh ở Fécamp (SeineInférieure) ngày 2 tháng 5 năm 1847, là luật sư. Năm 1873 ông đến Sài Gòn và hành nghề tại đây. Ông mất ngày 3 tháng 4 năm 1884.



VIGERIE. Đường René. Hướng Tây Bắc – Đông Nam nối đường Richaud với đường Legrand-de-la-Liraye khu vực Đa Kao.
Đầu tiên là đường số 5. Tên mới được đặt vào ngày  26 tháng 4 năm 1920.


Bản đồ 1926


Bản đồ 1958 là đường Phan Kế Bính



René, Jean VIGERIE sinh ở Sài Gòn ngày 17 tháng 8 năm 1890. Là thầy ký hạng 3 của tòa thị trưởng. Chết trong trận chiến tranh thế giới ngày 28 tháng 6 năm 1917.

                                                                                                     (Còn tiếp)

  Tết Sài Gòn trăm năm trước ra sao?   Biết những gì xảy ra trong quá khứ xa xưa dường như là mơ ước muôn đời của con người. Bởi trong c...