Bài BẾN TẮM NGỰA của
tác giả Minh Hương, từng là cán bộ nằm vùng của MTGPMN, gạt sang vấn đề chính
trị, chúng ta xem sự mô tả về sự hình thành của địa danh này của tác giả. Xin
nói thêm địa danh Xóm Lách của thời tôi ở chỉ bao gồm phần từ hẽm 134 (bót Đặng
Văn Bắc) ra đến ngả tư Yên Đổ - Công Lý và ăn dài tới tận chủa Vĩnh Nghiêm, còn
địa danh Bến Tắm Ngựa là trong phạm vi hẽm 150, 148, 146,144.
BẾN TẮM NGỰA
Minh Hương
Thành phð ta vốn là vùng nê địa. Có nơi, bước trên đất còn nghe
bấp bênh dưới chân, nhứt là những láng thãp ven sông, gần rạch. Trước kia,
nhiều con rạch chằng chịt đâm ngang xẻ dọc, thuyền bè tấp nập Iưu thông. Rồi
những bến nước dần dần hình thành bên các cụm dân cư vừa tụ lai sát một bờ
kênh.
Ngày nay, nhiều đường nước đä bị lấp mất vì dân cư Iấn chiếm ra
mði ngày một ít, lấy đất để ở. Có đường nước vẫn còn đó, nhưng teo Iại, trông
như một khe nhỏ, chåy Iờ đờ. Một sð địa danh mang tên 'bến" như một chứng cứ
của thời quá khứ. Thành phð ta còn giữ được tới ngày nay hơn 40 địa danh có
tiếng bến đứng đầu. Quận 1 có Bến Nghé, Bến Thành, Bến Trâu. Quận 3 có Bến Tắm
ngựa. Quận 4 có Bến Nhà Rðng, Bến Súc và Bến Xúc. Quận 8: Bến Ðá. Nhà Bè:
Bến Ngựa, Bến Sao. Phú Nhuận: Bến Cừ. Hóc Môn: Bến Cỏ, Bến Cát, Bến Nọc.
Bến Nọc Nhỏ, Bến Phân. Bến Vua. Củ Chi có nhiều nhứt: Bến Cỏ, Bến Bà Thù, Bến
Cây Me, Bến Dược, Bến Đình, Bến Đường Cát, Bến Hõm, Bến Mốp, Bến Thượng, Bến
Nảy…Thủ Đức: Bến Bà Liêu, Bến Dốc, Bến Hồ, Bến Gỗ, Bến Đá, Bến Nọc. Bến Nọc
Nhỏ. Quận 6: Bến Cây Dương. Bình Thạnh: Bến Đá, Bến Lội, Bến Lức…
Bến Tắm Ngựa còn có tên Xóm Lách (thuộc quận 3), nàm
trên đường Yên Ðổ (nay là đường Lý Chính Thắng). Ðường một chiều đi ra Hai Bà
Trưng, bắt đầu giáp với Trần Quóc Thåo (Trương Minh Giảng), chạy
xuống gần ngã tư Nam Kÿ Khởi Nghïa (xưa là Mac Mahon, Công Lý). Xóm chạy theo
kênh Nhiêu Lộc giữa hai cây cầu: Lê Văn Sï (Trương Minh Giảng) và
Nguyễn Vän Trổi (Công Lý). Xóm chạy từ mé Iộ được đắp cao,
rnặt đất chạy thoai thoåi xuống mé kênh. Trước kia, nhà cất lưa thưa, phần đông
vách phên, Iợp lá, một số ít vách ván, mái tôn. Còn nhà gạch mái ngói họa hoắn
được đôi ba cän cất ngoài rnặt Iộ. Bến là một bãi rất rộng, thường có người từ
đâu dẫn ngựa đến tắm, nên khu đất xung quanh được gọi chung là Bến Tắm Ngựa.
Còn khoånh đất bên kia đường đã có một ít nhà Iầu, biệt thự cất lên hai bên
ngôi đình Xuân Hòa. Nhưng đất trống còn nhiều, cỏ hoang và cây bụi mọc dày, än
thông tới đường Trần Quðc Toån (Nguyễn Đình Chiểu) ngày nay. Ở chổ bây giờ là nhà hàng Dạ
Lý Hương (Nha Quản Thủ Điền Địa) và một cư xá (Yên
Đổ) khá rộng, trước kia chi lèo tèo ba bốn túp nhà lá. Ngựa tắm
xong, được dẫn lên đấy Cho chúng nằm lån Iộn trên mặt đất rði än cỏ.
Cuối những näm 1940,
đường xuống bến còn thoáng lắm. Con kênh rộng như một dòng nước lớn. Nhà cửa
chưa cất sát bãi cát rộng trên bến. Con nít trong xóm rủ nhau ra đây tắm, lặn
Iội, đùa giởn thóa thích. Lính pháo thủ của một đơn vị pháo binh Pháp đóng ở
Hòa Hưng thường đưa ngựa xuống bến tắm. Những con ngựa vạm vỡ, kéo đại bác, kéo
xe chở đạn dược. Mấy chú nài thường dẫn ngựa đua đến tắm rồi dẫn đi vòng quanh
trên các bãi cỏ gần đó, gọi là "quần ngựa". Ðến các chú xà ích cüng
đua ngựa và đôi khi cå xe thổ rnộ, xe cá xuống đây để tắm ngựa và rửa luôn xe
cộ. Xe thổ mộ (còn tên là xe "hộp quẹt), chỉ đóng một ngựa, thùng vuông,
mui khum như mui ghe, chở được näm sáu khách chạy trên những tuyến đường đã
được quy đinh. Tấm vè bằng gỗ, dài, to bån, gắn phía trên hai bánh xe gổ to như
cái nia lớn, vành bịt sắt, dùng để máng đồ đạc của khách mang theo hoặc thúng,
gióng, rổ, rá... Xe cá có hai loại: xe nhỏ hai bánh một ngựa; xe lớn bốn bánh
hai ngựa. Xe không mui, thùng rộng và dài bång ván đóng hở. Ban đầu dùng để chở
cá. Vê sau, chở các thứ hàng hóa cồng kềnh, đồ vật lỉnh kỉnh, nhứt là được thuê
để chở bàn ghế, tủ giường, lu khạp khi dọn nhà...
Hể có bến là có dân tụ lại làm än, buôn bán, Bến Tắm Ngựa
cũng vậy, gồm phần lớn nguồi lao động, từ nhiều địa bàn khác của đất nước trôi
giạt đến, rồi dần dần hình thành một xóm đa dạng. Ða số là người miền Trung từ
các tỉnh Quång Bình, Quång Narn, Quång Ngãi, Bình Ðịnh... Nhiều nhứt là
đồng bào Quång Bình, phần đông vào trước näm 1945, một ít vào đợt näm 1954.
Theo chân cha ông hay người làng vào Sài Gòn sống bằng hai nghề chính: thợ điện
và chằm nón. Kế đến là đạp xích lô. Buổi đầu, nghề nghiêp chưa ổn định, mướn
xích lô đạp sống qua ngày. Sau một thời gian, một số kiếm được việc làm khác đỡ
vất vå: bốc vác, giúp việc nhà, buôn thúng bán bưng... Cuối xóm là xóm Nhà Đèn
( l ) (Công ty Ðiện Iực) chạy dài lên đến cầu Nguyễn Vän
Trỗi (Công Lý). Người dân Quång Bình còn ở råi rác hai
bên đường Trần Quốc Thåo (Trương Minh Giảng), lên đến
Vướn Mít, Vườn Xoài… Gần đây, khi qua cầu Lê Văn Sĩ (Trương Minh
Giảng) và cầu Nguyễn Vän Trổi (Công Lý) vào
rnùa khô, ta thấy lá buông, lá cọ phơi đầy hai bên vĩa hè, có khi tràn xuống cả
lề đường. Có nhà đã vào đây từ ba đời. Có dịp tiếp xúc, ta tưởng họ gốc miên
Nam, nghe họ nói giống như giọng người miền Nam (nói). Họ chuyển qua giọng miền
Bắc, ta ngỡ họ là người Hà Nội. Nhưng khi họ "líu lo" với nhau bằng
thứ tiếng tỉnh nhà, thì cüng phåi chiu thôi. Họ nói như chim hót. Vốn chịu khó,
chịu cực giỏi, nên họ mau chóng thích nghi được với hoàn cånh. Nhiều nhà vào
Nam đã lâu, làm än khấm khá, đứng ra thầu bắt hệ thống điện nhà cho các công
trình và rnở tiệm bán đồ điện trên các đường lớn như Hai Bà Trung, Vö Thị
Sáu (Hiền Vương), Pasteur, Phạm Ngũ Lão (quân 1).
Nhóm dðng cư dân thứ hai là người Bắc.
Phần đông vào trước nåm 1945 hay đầu nåm 1945 do tránh đói kinh khủng ở miền
Bắc Ðặc biệt người cùng một làng. Chẳng hạn có nhóm người trước sống ở làng Phù
Thụy, thuộc Phù Lý (Hà Nam). Phần lớn làm hồ (thợ xây, Phụ hồ, gánh đất, đá,
gạch, đào móng, đào hố). Họ ở quanh quẩn gần nhau. Một số ít
làm nghề mộc. Những ngày được đi làm it hơn những ngày không làm
việc. Có việc họ gọi nhau„ thường làm chung ở một công
trường. Cư dân các tinh khác làm nhiều nghề thợ mộc, thợ giày, thợ may, thợ hớt
tóc, phụ nữ thì bán rau cải rong, hàng sáo... Ða số là những người
chịu thương, chịu khó cả.
Ðầu năm 1947, vào thành hoạt động, tôi
ở tạm nhà một người bạn mới cất gần mé nước. Một túp nhà lá đơn sơ. Phia sau
nhà, ở cái chổ đất vừa đào lên để đắp nền nhà đã trở thành một cái vüng lớn,
rồi chẳng bao lâu thành cái ao con. Mỗi ngày đêm cũng bốn Iần nước lớn nước
nhò. Chung quanh còn lổm chổm những bụi ô rô, cóc kèn và xa xa vài gốc bần, rể
đước. Mấy con cá thòi lòi leo lên các bụi gai, các gốc cây, bò lổn
ngổn, giương cặp mắt lồi nhìn ngẩn ngơ. Có anh bạn, gốc người đồng chiêm,
quen với cånh ngập nước, mua phên về, thỉnh thoång bao một khoånh nhỏ trên ao.
Rồi đan một vuông lưới nhỏ, đánh bắt những con cá bống li ti và những con tép
riu, nương theo con nước vào vũng kiếm ăn. Thinh thoång, cüng được một chén nhỏ
vừa cá, vùa tép kho mặn.
Ðứng sau nhà, nhìn xa hơn qua bên kia
giòng nước, thấy lác đác một ít cồn, ít gò có người gieo lúa, tỉa bắp. Những
vuông rau muống xanh ri bập bềnh trên mặt nước. Có người đội nón đứng câu rê.
Ðôi khi cũng giựt được con trê, con lóc, con rð. Nhiều cây sào cắm phân ranh từng
khoånh. Cột vào sào chiếc thuyền nan nhð xíu hay chiếc thuyền thúng chập chờn,
người ta dùng để di chuyển trên mặt nước để cắt rau muống. Những nåm cuối
1940, Xóm Lách (Bến Tắm Ngựa) nhà lá nhiều, nhà ngói rất ít, dần dần, nhà xây
tường, mái tôn, rnái ngói nhiều lên, nhà vách phên hay vách ván ít lại.
Ngày nay, thì nhà lầu san sát, nhà ngói chen chúc thi nhau mọc lên. Không chỉ có
những người sinh ra, lớn lên và sống ở Sài Gòn, mà cå những ai, đä một
lần sống Sài Gòn cüng sẳn lòng chia ngọt, xẻ bùi cùng Sài Gòn. Khoång thời gian
50 năm trở lại đây, thời gian tôi đã biết, đã nương náu nhiều đợt ở cái xóm lao
động, bên kênh Nhiêu Lộc này, thì Bến Tắm Ngựa cüng đã từng có những người con của rnình ra đi giữ
nước từ cuối näm 1945. Cüng có con em đã vïnh viễn nằm xuống trong các trận
đánh không cân sức và ác liệt ở các cây cầu: Âyrôdêvet (Trương Minh Giång, Lê
Văn Si), cầu Mac Mahon (Công Lý, Nguyễn Vän Trổi), cầu Kiệu (Hai Bà Trưng) và
cầu Bông đã cầm chân giặc, không cho chúng ra ngoại ô... Rði tiếp theo trong
nhữngnäm 1948, 1949, 1950 thành phố, những đợt chiến dịch chống Pháp nổi
Iên rầm rộ với truyền đơn bươm bướm, với biểu ngữ giäng ngang qua đường cột
trên hai ngọn cây, với cờ treo, với bè chuối (phương tiện cúng cô hồn và tống
khứ quý ôn ra biền), cắm trên bè cờ xí và khẩu hiệu đả đảo bù nhìn và Bảo
Ðại... cüng có mặt bà con Xóm Lách. Địch cûng biết trong khu Bến Tắm Ngựa có đặt
nhiều trạm liên lạc, những hộp thư của cán bộ nội thành và cả cơ quan ấn loát
bí mật... năm 1947, 1948, 1949, Pháp và bù nhìn mở Iiên tục những cuộc vây bắt
và bố ráp quy mô lớn để tìm bắt cán bộ ta. Có lần chúng gom hết thanh niên, đày
ra Vüng Tàu, giam cầm gần nửa năm. Những anh em cốt cán vẫn thoát ra trót lọt,
vượt qua các ngả kênh rạch, đám rau muống và bèo lục bình, qua máy bụi
bần, ô rô là đä an toàn đến được các xóm khác bên kia kênh.
Rồi năm 1953, 1954... đồng bào Xóm Lách cüng xông xáo tham
gia phong trào Bảo vệ hòa binh, đòi thi hành hiêp định Genève và đông đảo kéo
đi cứu trợ và cất nhà lại cho các nạn nhân hỏa hoạn khu Nancy, Xóm Cũi... sau
những trận đánh giữa Iính Bình Xuyên và quân đội Diệm, Nhu,
Chuyện về Xóm Lách chỉ đơn sơ có vậy.
(1) Phần đông dân cư ở đây đi làm Sở nhà đèn hay Nhà máy
điện Chợ Quán.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét