Phục
hồi Chợ Lớn góp phần phát triển Việt Nam
Nguyễn
Quang Duy Gửi đến BBC từ Melbourne, Úc
Thời Pháp thuộc, Chợ Lớn từng là một
đặc khu thương mại lớn nhất Đông Nam Á, một khu vực thịnh vượng nhất của người
Hoa hải ngoại, nổi tiếng hơn Singapore, ngang tầm với Hong Kong và Thượng Hải.
Ngày nay Chợ Lớn thua xa, thua rất
xa ba đặc khu kể trên. Đến cái tên Chợ Lớn cũng biến mất trên bản đồ.
Khách quan nhìn nhận sự suy thoái
của Chợ Lớn là hậu quả một chuỗi những thất bại trong việc hoạch định chính
sách từ thời Việt Nam Cộng hòa đến nay.
Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang
diễn ra, Việt Nam đến nay vẫn chưa có một trung tâm về tài chính, công nghiệp
hiện đại và thương mại được quốc tế công nhận. Thiết nghĩ, Chợ Lớn nếu được
phục hồi sẽ là địa điểm thuận lợi nhất.
Nhân tranh cãi về việc thành lập ba
đặc khu, xin dành chút thời gian cùng nhau suy ngẫm về quá khứ biết đâu sẽ tìm
ra con đường phục hồi Chợ Lớn góp phần phát triển Việt Nam. Rất mong nhận được
ý kiến bạn đọc.
Chợ
Lớn xưa
Chợ Lớn vốn mang tên Chợ Sài Gòn do
người Minh Hương thành lập từ năm 1778.
Người Minh Hương trung thành với nhà
Minh chống lại nhà Thanh nên trốn xuống miền Nam. Họ theo chúa Nguyễn đánh Tây
Sơn và có công rất lớn trong việc mở mang bờ cõi về phía Nam.
Vì thế Vua Gia Long trao cho họ
nhiều đặc ân như quyền tự trị, nhẹ thuế khóa, miễn lao dịch và không phải đóng
thuế thân. Các đời vua sau tiếp tục duy trì.
Nhờ thế ngay từ thời Nguyễn, Chợ Lớn
đã trở thành khu thu hút Hoa kiều đến lập nghiệp làm ăn buôn bán. Với địa thế
vô cùng thuận lợi cho việc xuất nhập cảng nơi này đã trở thành một đặc khu
thương mại nổi tiếng trong vùng.
Người Minh Hương từ lâu đã trở thành
người Việt nên không có trong số thống kê hay không được nói trong bài này. Hoa
Kiều là ngoại kiều Trung Hoa. Còn người Hoa là người Việt gốc Hoa khi đã có
quốc tịch Việt Nam. Hoa Kiều và người Hoa là trọng tâm bài viết.
Chợ
Lớn thời Pháp thuộc
Khi người Pháp chiếm nước ta, những
quy chế ưu đãi được duy trì như cũ, đặc biệt là quyền tự trị của các bang.
Người Pháp còn nhìn xa hơn biến Chợ Lớn thành một trung tâm thương mại mang tầm
vóc quốc tế.
Ngay khi chiếm được Gia Định năm
1859, người Pháp đã cho rời Chợ Sài Gòn về khu Bến Thành để thành lập thành phố
Sài Gòn làm trung tâm hành chính.
Ngày 6/6/1865, Pháp cho thành lập
Thành phố Chợ Lớn như một đặc khu phát triển thương mại. Chợ Lớn do các bang
trưởng người Hoa quản trị về hành chính là một khu vực giao thương tự do, thuế
nhẹ, ít bị người Pháp can thiệp…
Đến ngày 20/10/1879, Pháp ra Nghị
định công nhận thành phố Chợ Lớn là đô thị loại 2 ngang cấp tỉnh. Chợ Lớn khi
ấy đã trở thành một trung tâm thương mại xuất nhập cảng và sản xuất công nghệ
vào bậc nhất của Đông Dương.
Ngày 20/12/1899, Pháp cho thành lập
tỉnh Chợ Lớn. Đến thập niên 1950, tỉnh Chợ Lớn có xấp xỉ 1 triệu dân, quá nửa
là Hoa Kiều và đa số sinh sống chung quanh Thành phố Chợ Lớn.
Thời
Đệ nhất Cộng hòa
Khi đất nước chia đôi, Hoa Kiều gần
như nắm trọn việc xuất nhập cảng, sản xuất và cung cấp hàng hóa tại miền Nam.
Đáng quan tâm là Hoa kiều Chợ Lớn
vẫn mang quốc tịch Trung Hoa (hoặc Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa - Trung Hoa đại
lục, hoặc Trung Hoa Dân quốc - Đài Loan). Họ lại có quan hệ rất chặt chẽ về gia
đình, buôn bán với cộng đồng người Hoa ở Singapore.
Cùng lúc, Singapore là thuộc địa
Anh, nơi cộng đồng người Hoa chiếm đa số đang nổi lên đấu tranh đòi tự trị.
Người Pháp đã nghĩ đến việc Hoa Kiều Chợ Lớn sẽ đòi chính thức tự trị vì thế
năm 1948 đã bãi bỏ quy chế các bang trưởng .
Khi Việt Nam thu hồi độc lập ảnh
hưởng của các bang trưởng tại Chợ Lớn vẫn còn rất mạnh. Thành phố Chợ Lớn vẫn
tự trị và điều hành ngầm dưới quyền các bang trưởng .
Chủ trương của Thủ tướng Ngô Đình
Diệm là người Hoa phải bình đẳng và chia sẻ trách nhiệm dân sự như bao công dân
Việt Nam khác trong một đất nước vừa thu hồi độc lập.
Chiến lược của ông Diệm là tự do
giao thương quốc tế, khuyếch trương công nghiệp và tất cả những hoạt động kinh
tế phải do người Việt chủ động làm lấy.
Ngay năm 1955, ông Diệm cho nhập
thành phố Chợ Lớn vào thủ đô Sài Gòn đổi tên thành Đô thành Sài Gòn - Chợ Lớn.
Ngày 22/10/1956, Tổng thống Ngô Đình
Diệm ký Sắc lệnh 143/VN đổi tên Đô thành Sài Gòn - Chợ Lớn thành Đô thành Sài
Gòn. Chợ Lớn chỉ còn là một khu vực nằm trong Đô thành Sài Gòn.
Theo Sắc lệnh 143/VN tỉnh Chợ Lớn
hợp nhất với tỉnh Tân An thành tỉnh mới có tên là tỉnh Long An. Một khu vực nhỏ
của tỉnh Chợ Lớn nhập vô tỉnh Gia Định. Đặc Khu Chợ Lớn xem như không còn tồn
tại.
Trước đó ngày 7/12/1955, Tổng thống
Ngô Đình Diệm cho ban hành Dụ số 10 qui định tất cả những ai sinh ra trên lãnh
thổ Việt Nam đều là người Việt Nam. Như vậy hầu hết con cái của Hoa kiều đều là
người Việt Nam.
Dụ số 48 ban hành ngày 21/8/1956,
quy định Hoa kiều sinh trưởng tại Việt Nam là người Việt Nam, bắt buộc phải
nhập quốc tịch Việt Nam. Nếu ai không chịu nhập tịch thì phải xin hồi hương về
Đài Loan trước ngày 31/8/1957.
Dụ số 52 ban hành ngày 29/8/1956 qui
định Hoa kiều sinh sống tại Việt Nam phải mang quốc tịch Việt. Khi có quốc
tịch, họ được tự do giao dịch, đi lại và buôn bán. Tên hiệu các cơ sở thương
mại, văn hóa phải viết bằng Việt ngữ.
Dụ số 53 ban hành ngày 6/9/1956 cấm
người ngoại quốc không được làm 11 nghề. Hoa kiều có vợ Việt có thể tiếp tục
kinh doanh dưới tên vợ với điều kiện phải hợp thức hóa bằng một văn kiện hộ
tịch chính thức.
Hoa kiều biểu tình phản đối ba Đạo
dụ 48, 52 và 53 cho rằng nội dung bài Hoa, cưỡng bức không cho người Hoa quyền
chọn lựa quốc tịch, trái với Hiến chương về Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc.
Chính quyền nhất quyết không nhượng bộ tuyên bố nếu Hoa Kiều không đồng ý gia
nhập quốc tịch thì hồi hương về Đài Loan.
Tòa Tổng lãnh sự Trung Hoa Dân Quốc
tại Sài Gòn can thiệp đề nghị Tổng thống Diệm xét lại ba Đạo dụ 48, 52 và 53.
Trung Hoa Dân Quốc và Hoa kiều vận động cả Hoa Kỳ can thiệp. Nhưng đều không
được ông Diệm nhượng bộ.
Năm 1957, cảnh sát tại Sài Gòn bắt
giữ nhiều Hoa kiều, tịch thu thẻ căn cước Đài Loan và tự động cấp cho họ thẻ
căn cước Việt Nam, bất kể ý muốn của họ. Nhiều địa phương khác cũng có hành
động tương tự.
Vài ngày sau khi ba đạo dụ trên bắt
đầu có hiệu lực, Hoa kiều ồ ạt đến các ngân hàng rút hết tiền ký thác đồng thời
tìm cách chuyển ngân ra ngoại quốc.
Đồng bạc Việt Nam trên thị trường
chứng khoán Hong Kong liên tiếp bị mất giá từ 35 đồng đổi 1 Mỹ kim năm 1956 tăng
lên đến 90 đồng năm 1957, và trên thị trường chợ đen lên đến 105 đồng.
Nhiều cơ sở, xí nghiệp thương mại
của Hoa Kiều đóng cửa, hay dời về Đài Loan, Hong Kong, Singapore hay những quốc
gia Đông Nam Á.
Thương gia buôn bán thịt và vải
chống đối mạnh nhất, những người bán thịt đóng cửa tiệm và chuyển sang nghề làm
thịt nguội, những người bán vải tích trữ vải để sau đó tuôn ra bán trên thị
trường chợ đen.
Người Hoa trong vùng Đông Nam Á,
nhất là Singapore và Hong Kong, làm áp lực với chính quyền Việt Nam bằng cách
tẩy chay hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam. Hong Kong từ chối mua 40.000 tấn gạo
đã ký hợp đồng trước đó. Số gạo này được chở qua Singapore và cũng bị từ chối
mua.
Toàn bộ sinh hoạt kinh tế của Hoa
kiều ngừng hoạt động. Kinh tế miền Nam bị ảnh hưởng nặng nề.
Nền kinh tế không hoàn toàn sụp đổ
phần nhờ những người miền Bắc di cư có vốn và kinh nghiệm đã nhanh chóng thay
thế Hoa kiều. Phần khác nhờ mùa màng thuận lợi, nông nghiệp phát triển mạnh và
khi ấy du kích quân Cộng Sản gần như chưa xuất hiện.
Cơ hội làm ăn tại Việt Nam không còn
thuận lợi đa số doanh nhân Hoa Kiều rời Việt Nam. Những Hoa Kiều còn lại, đa số
là giới bình dân lao động, ít vốn, hay đã an cư lạc nghiệp nhiều đời tại Việt
Nam.
Theo số liệu của Nha thống kê Sài
Gòn, trong năm 1955 có 620.858 Hoa kiều trên toàn lãnh thổ, năm 1958 chỉ còn
123.638 người. Con số khác biệt là 497.220 người, trong số này có gần 235.000
người đã xin nhập tịch, những người còn lại chưa quyết định còn chờ sự can
thiệp của Đài Loan.
Theo báo cáo của tòa Tổng lãnh sự
Trung Hoa Dân quốc tại Sài Gòn, cho đến ngày 19/7/1957 đã có 52.144 người xin
hồi hương.
Những năm đầu Đệ nhất Cộng hòa là
thời kỳ vàng son của người Việt thì lại là thời kỳ tăm tối của đa số người Hoa.
Cuối cùng những người Hoa còn ở lại đều xin vào quốc tịch, trở thành người Việt
gốc Hoa.
Có 2 lý do chính sách quốc tịch gặp
khó khăn. Thứ nhất, Hoa kiều chưa tin vào chính sách quốc gia và chưa chuẩn bị
tinh thần để sống dưới sự quản trị của người Việt. Thật ra chưa có dấu hiệu nào
cho thấy Hoa kiều muốn tách Chợ Lớn khỏi Việt Nam. Và thứ hai là họ không muốn
thi hành lệnh tổng động viên hay đi quân dịch.
Khi trở thành công dân Việt Nam,
người Hoa được phép kinh doanh trở lại. Người Hoa nhận ra chính sách tự do
thương mại và khuyếch trương kỹ nghệ có lợi cho họ. Nhiều cơ sở kỹ nghệ lớn
được thành lập đóng góp gia tăng tổng sản lượng quốc gia và đáp ứng phần nào
nhu cầu tiêu dùng trong nước.
Nền kinh tế miền Nam cất cánh trở
lại. Chính phủ và giới lãnh đạo người Hoa ngày càng hiểu nhau hơn càng gắn bó
vì lợi ích chung cả cộng đồng dân tộc, trong đó có người Việt gốc Hoa.
Ngày 2/11/1963 khi bị phe quân nhân
đảo chính, Tổng thống Ngô Đình Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu đã vào Chợ Lớn tá
túc trong nhà ông Mã Tuyên, một thương gia Việt gốc Triều Châu. Ông là Tổng
bang trưởng của 10 bang người Hoa tại vùng Chợ Lớn. Sau đó được ông đưa vào nhà
thờ Cha Tam để lánh nạn.
Năm ngày sau ông Mã Tuyên bị bắt
giam ba năm. Tài sản ông bị tịch thu và đem bán đấu giá nhưng người Hoa mua lại
được trong cuộc đấu giá và trả lại cho gia đình ông.
Sau 30/4/1975, ông hai lần bị bắt
giam, lần đầu bốn tháng, lần sau bốn năm tù. Nhà cửa và tài sản của ông bị tịch
thu.
Năm 1983, ông và gia đình chính thức
rời Việt Nam đi định cư tại Đài Bắc, Đài Loan. Đến tháng 2 năm 1992 thì ông
cùng một phần gia đình về lại Chợ Lớn và qua đời tại đây tháng 9/1994. Ông được
chôn tại nghĩa trang Triều Châu ở Biên Hoà.
Chợ Lớn
Sau
thời Đệ nhất Cộng hòa
Người Hoa bắt đầu đầu tư trở lại.
Khu kỹ nghệ Biên Hòa tràn ngập các đại công ty kỹ nghệ tân tiến do người Hoa
thành lập với sự giúp vốn và kỹ thuật của người Hoa Đông Nam Á, đặc biệt là Đài
Loan. Người Hoa mở ngân hàng và làm chủ phần lớn các hãng bảo hiểm tại miền
Nam.
Nhiều hãng xưởng được xây dựng quanh
khu vực Chợ Lớn. Nhiều công ty đúc, cán sắt và lắp rắp nông cơ tầm vóc nhỏ hơn,
kiểu gia đình, hoạt động rất náo nhiệt quanh khu vực Chợ Lớn.
Đời sống của cộng đồng người Hoa trở
nên sung túc. Nhiều khách sạn, nhà hàng, rạp chiếu phim, khu giải trí được mở
ra. Chợ Lớn dần dần hồi phục.
Với sự tham chiến của quân đội Hoa
Kỳ và đồng minh năm 1965, người Hoa nhanh chóng đầu tư vào các khu vực chiến
tranh như cung cấp vật liệu xây dựng, hàng tiêu dùng và nơi giải trí.
Khi chiến tranh gia tăng, người Hoa
nhận thầu cung cấp cho quân đội Hoa kỳ rồi ký hợp đồng với Hoa kiều Đài Loan,
Hong Kong, Singapore và Thái Lan sản xuất đáp ứng nhu cầu quân đội. Đóng góp
không ít cho sự phát triển của các nước này.
Có đến 80 tỷ phú người Việt gốc Hoa,
đa số đứng đầu hay độc quyền trong lĩnh vực kinh doanh nào đó nên được gọi là
"vua" như vua gạo, vua xăng dầu, vua nông cụ, vua bột mì…
Chủ nhân người Việt gốc Hoa thường
chăm lo đời sống công nhân một cách tận tình và chu đáo. Bởi thế trước năm 1975
không hề có biểu tình hay đình công đòi quyền lợi xảy ra như ngày nay.
Qui chế bang hội tuy không được
chính thức thừa nhận nhưng những bang hội người Hoa được tự do hoạt động. Các
trường tư thục Hoa ngữ được mở lại.
Báo chí Hoa ngữ hoạt động tự do, có
11 nhật báo và 5 tuần báo, với số lượng phát hành khá cao và rất nhiều sạp báo
nơi đông người Hoa cư ngụ. Chính quyền còn dành cho mỗi bang chương trình phát
thanh riêng.
Nhiều viện đại học và trường kinh
doanh với vốn đầu tư chính từ người Hoa đã được thành lập, đào tạo nhiều chuyên
viên trong lĩnh vực kinh doanh và quản trị. Người Hoa còn gửi con em đi du học
trong các ngành kinh tế, kế toán, ngân hàng, kinh doanh và quản trị.
Mặc dù chiến tranh đang leo thang
người Hoa vẫn xuất tiền thành lập doanh nghiệp lớn ngay trong nước, tạo công ăn
việc làm cho rất nhiều người, thay vì cất gửi vào các ngân hàng ngoại quốc hay
chuyển ra nước ngoài.
Dân số cộng đồng người Hoa tăng
nhanh từ 620.858 người năm 1956 lên 2,2 triệu năm 1972. Rất đông Hoa kiều đã
đến từ Hong Kong và Đài Loan.
Mặt tiêu cực, người Hoa bị mang
tiếng là trốn lính, làm lính kiểng, lính hậu cần… Tuy nhiên, cũng có không ít
thanh niên đã gia nhập quân đội, anh dũng chiến đấu và nhiều người đã hy sinh
để bảo vệ miền Nam tự do.
Một số thương gia bị cho là đóng
thuế hay buôn bán với cộng sản. Sau 1975 mới rõ tỷ lệ này không nhiều vì người
Hoa thường sinh hoạt trong vùng có an ninh và rất e ngại bị chính quyền phát
hiện. Nếu có, chẳng qua họ bị cộng sản cưỡng bách cộng tác.
Người Hoa bị mang tiếng là đầu cơ
tích trữ, thâu tóm thị trường, làm tăng giá hàng một cách giả tạo, hay hối lộ,
đút lót cho các viên chức chính quyền. Chẳng qua vì thời chiến nên luật pháp
còn lỏng lẻo tạo ra những hiện tượng này.
Nói chung thời Việt Nam Cộng hòa
kinh tế tự do, ít hay gần như không bị đánh thuế, người Việt không cạnh tranh
trên thương trường, văn hóa không mấy khác biệt, người Việt vốn không kỳ thị
xem người Hoa như anh em một nhà,… người Việt gốc Hoa thực sự muốn hội nhập vào
cộng đồng dân tộc Việt Nam. Đất lành chim đậu.
Sau
30/4/1975
Cùng chung số phận với người miền
Nam, người Việt gốc Hoa gánh chịu những chính sách kỳ thị như phân chia thành
phần giai cấp, thành phần xã hội.
Tại Chợ Lớn một số người treo cờ
Trung Quốc đào thêm mối nghi ngờ là cớ để nhà cầm quyền nhận xét có người Hoa
trong "đạo quân thứ 5" và người Hoa sẽ tiếp tay với Trung Quốc khi có
chiến tranh…
Sài Gòn đổi tên. Chợ Lớn cùng chung
số phận. Cả Sài Gòn và Chợ Lớn hoàn toàn biến mất trên bản đồ địa chính.
Nhiều đợt đánh tư sản liên tục xảy
ra. Đợt đánh tư sản năm 1978 hầu hết các nhà mặt đường là cửa hàng buôn bán nên
nằm trong diện bị đánh. Nhiều gia đình bị bắt đi kinh tế mới. Nhiều người phải
bỏ nước ra đi. Nhà cửa họ bị tịch thu cấp cho cán bộ miền Bắc vào.
Người Hoa chỉ còn sống trong các hẻm
nhỏ nhưng họ không bỏ Chợ Lớn. Trong số họ chắc không ít người vẫn ước mơ một
ngày Chợ Lớn được phục hồi như xưa.
Trong số một triệu người bỏ nước ra
đi trên một nửa là người Việt gốc Hoa. Đa số họ xem người Việt là người đồng
hương. Có người dù cả cha lẫn mẹ người Trung Hoa, nhưng lại nhận là người Việt.
Người Việt và người Việt gốc Hoa
sống quần tụ bên nhau. Nhiều khu vực mang tên Little Sài Gòn nhưng hầu hết
thương gia là người Việt gốc Hoa.
Chưa bao giờ nghe nói đến Little Chợ
Lớn ở hải ngoại nhưng trong thâm tâm nhiều người Việt gốc Hoa vẫn ước mong một
ngày Chợ Lớn sẽ phục hồi.
Phục hồi
Chợ Lớn thành trung tâm công nghệ hiện đại
Về mặt kinh tế, Việt Nam đã thay đổi
khá nhiều nhưng vai trò của người Việt gốc Hoa gần như còn rất khiêm nhượng.
Chợ Lớn chỉ đóng góp một phần rất nhỏ trong nền kinh tế Việt Nam. Chưa ai công
khai bàn đến việc phục hồi Chợ Lớn để phát huy tiềm năng nội lực của người Việt
gốc Hoa trong và ngoài nước.
Ngày 9/3/2018, Việt Nam, Singapore
và 9 quốc gia khác chính thức ký kết Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ
xuyên Thái Bình Dương. Hiệp định là gỡ bỏ mọi rào cản thương mại giữa 11 nền
kinh tế trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương.
Singapore một thành viên khác ký
hiệp định từ lâu đã là một trung tâm tài chính và thương mại nổi tiếng. Cộng
đồng người Hoa ở Chợ Lớn và ở Singapore có quan hệ rất chặt chẽ về gia đình và
buôn bán hàng trăm năm nay. Chính quyền Singapore rất thân thiện với Việt Nam.
Nhiều người Việt đã và đang học tập,
sinh sống và làm việc tại Singapore. Khu vực chung quanh Chợ Lớn khá thuận lợi
để các nước đầu tư nghiên cứu và phát triển công nghiệp hiện đại… cơ hội rất
lớn cho việc phục hồi Chợ Lớn.
Thế giới đang bước vào Cách mạng
Công nghiệp lần thứ 4, Việt Nam cần một trung tâm vừa để tiếp công nghiệp hiện
đại vừa là trung tâm tài chính và thương mại được quốc tế công nhận. Rất mong
sự sáng suốt của tầng lớp cầm quyền biến giấc mơ phục hồi Chợ Lớn của không ít
người thành hiện thực.
Bài
viết thể hiện quan điểm và văn phong của tác giả là Chủ nhiệm kiêm chủ bút
Cộng Hòa Thời Báo, hiện ông sống tại Melbourne, Australia.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét