Thứ Năm, 23 tháng 8, 2018

NGÀY ẤY VÀ BÂY GIỜ


                             1451. Trong công viên trước rạp Rex ngày nào và giờ đây.


                             1452. Hơn 50 năm biến đổi của ngả tư Cường Để - Thống Nhứt.


                             1453. Hơn 50 năm biến đổi của ngả tư Trương Công Định - Nguyễn Du.


                             1454. Góc Nguyễn Huệ - Ngô Đức Kế theo dòng thời gian trên 100 năm.


                             1455. Theo dòng thời gian góc Catinat - Amiral Dupré (Tự Do - Thái Lập Thành).


                             1456. Nhìn về công trường Lam Sơn qua gần 60 năm.


                             1457. Hàng cây cổ thụ trên đường Cường Để nay không còn.


                             1458. Khách sạn Eden Roc đường Tự Do ngày xưa và giờ đây.


                             1459. Đường Tự Do nhìn về góc Hồ Huấn Nghiệp xưa và nay.


                             1460. Ngả tư Thống Nhứt - Mạc Đĩnh Chi theo dòng thời gian.




Nguồn Tim Doling, Trung Ngô

Thứ Bảy, 18 tháng 8, 2018



AMERICAN FORCES RADIO AND TELEVISION IN VIETNAM
ĐÀI PHÁT THANH VÀ TRUYỀN HÌNH
QUÂN ĐỘI HOA KỲ TẠI VIỆT NAM








Xin trở lại với đề tài này vì trước đó tôi đã có bài nói về. Đó là bài:KHÔNG CÓ GÌ VIẾT, VIẾT VỀ TRUYỀN HÌNH SÀI GÒN VÀ ĐÀI TRUYỀN HÌNH MỸ AFVN CHO CÁC BẠN ĐỌC CHO VUI ngày 28 tháng 3 năm 2013. Bài viết sau đây được sẽ kỷ càng và chi tiết về sự hình thành hệ thống phát thanh và truyền hình quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam trong thời gian từ năm 1962 đến đầu năm 1973 khi hiệp định Paris được ký kết chấm dứt sự hiện diện của họ trên đất nước này, và cùng lúc có liên quan đến hệ thống truyền hình của Việt Nam Cộng Hòa là một trong những quốc gia có mạng lưới truyền hình đầu tiên ờ thập niên 1960.
Đối với dân chúng Việt Nam từ vĩ tuyến 17 xuống đến Cà Mau, trong thời gian chiến tranh đều đã có nghe và xem qua băng tần 11 và đài AM, FM của quân đội Hoa Kỳ và nhất là dân chúng vùng Sài Gòn và Gia Định ở rất gần trung tâm phát sóng của những đài này. Còn đối với tôi hay những người lớn hơn ở thời kỳ đó, băng tần 11 và đài FM là một cái gì khó quên và có những kỷ niệm về chúng.
 Thật vậy, hồi đó không phải nhà nào cũng có truyền hình. Truyền hình xuất hiện đã làm thay đổi đời sống của người dân, hàng đêm họ quây quần bên TV mà khán giả ngoài người trong nhà ra còn có những người trong xóm. Đó là những năm 1965 trở về sau. Thật sự truyền hình xuất hiện tại Việt Nam trước đó 3 năm tại phòng thông tin của Hoa Kỳ đặt tại tầng trệt của khách sạn Rex. Tôi còn nhớ chiếc TV khoảng 14 inch được đặt trên bốn chân cao nằm đằng sau tủ kiếng phát những hình ảnh màu về một cuộc trượt tuyết, đó là năm 1962. Còn khán giả Việt Nam bu nghẹt cứng để coi một hiện tượng lạ mà trước đó họ chưa từng thấy. Rồi đến năm 1965, dân Sài Gòn, Gia Định mới thật sự xem truyền hình mà lúc đó được phát ra không ở mặt đất mà trên chuyến phi cơ Constellation. Phải đến tháng 2 năm 1965, đài truyền hình băng tần 11 của quân đội Hoa Kỳ và đài truyền hình THVN 9 của Việt Nam Cộng Hòa mới xây dựng tại số 9 đường Hồng Thập Tự.


Lịch sử mở đầu:
          Vào ngày 6 tháng 7 năm 1962, một viên cố vấn Hoa Kỳ ở một thôn hẻo lánh bật radio vang lên âm thanh của một ban nhạc jazz và chờ đợi một người thông báo để xác định tín hiệu. Ông ta rất ngạc nhiên khi nghe thấy giọng của một người phụ nữ, bằng tiếng Anh như đang nói với ông cùng khoảng 6.000 nhân viên Hoa Kỳ (chính xác là 5.576 người) đang phục vụ xa nhà. Cũng giống như truyền thống của đài Tokyo Rose và Axis Sally trong Thế chiến II, Đài phát thanh Hà Nội đã phát chương trình tuyên truyền cho những nhân viên Hoa Kỳ trong U. S. Military Assistance Command, Vietnam (MACV). Bốn mươi ngày sau, giọng người phụ nữ này đã đến tai nhiều nhân viên Hoa Kỳ nhưng họ càng không hiểu và không muốn nghe. Rồi từ đó đài phát thanh và truyền hình quân đội Hoa Kỳ ra đời.


        Ghi chú: Tokyo Rose (hay còn được gọi là Tokio Rose) là cái tên chung để chỉ tất cả những phát thanh viên tuyên truyền nữ Nhật Bản nói tiếng Anh. Mục đích của việc phát thanh là làm mất tinh thần lực lượng Đồng Minh tham chiến tại đây

                       Axis Sally là biệt danh chung cho  nữ phát thanh viên tuyên truyền bằng ngôn ngữ tiếng Anh của Đức quốc xã.



Những người lính Hoa Kỳ đang nghe radio

            
            Đài ARFT đầu tiên tại Việt Nam:
Trước đó, trong cùng một năm, Tướng Paul D. Harkins, Tư lệnh đầu tiên của MACV, công nhận sự cần thiết phải có một chương trình  thông tin và giải trí phục vụ cho số lượng ngày càng tăng của các cố vấn và các Trưởng phòng (J-6, Signal), trước khi bắt đầu chính thức thành lập đài phát thanh và truyền hình quân đội Hoa Kỳ (AFRT) tại Việt Nam nhưng chỉ giới hạn trong phạm vi của Sài Gòn.
Những nổ lực của Tướng Paul D. Harkins đã có kết quả, lúc 0600 giờ ngày 15 tháng 8 năm 1962, đài phát thanh quân đội Hoa Kỳ bắt đầu phát sóng từ các studio nằm trong Khách sạn Rex số 145-147 đường Nguyễn Huệ.


Cơ sở đầu tiên của đài nằm trong Phòng thông tin- Thư viện Abraham Lincoln 
trong khu khách sạn Rex.

Mô tả cơ sở:
Ban đầu, gần như tất cả âm thanh, máy phát và thiết bị liên quan cho trạm đã được trưng dụng không chính thức từ nhiều cơ quan quân sự và dân sự Việt Nam khác nhau. Thiết bị của đài đã có từ thế chiến II phối hợp với thiết bị của Việt Nam Cộng Hòa đặt tại Phú Thọ và được cấp phép phát sống trên tần số 820 kiloHertz trong phạm vi Sài Gòn và các tần số khác cho bốn trạm khác trên lãnh thổ Việt Nam. Phụ tùng và vật tư được lấy từ nhiều loại khác nhau các nguồn lực quân sự để hỗ trợ cho đài. Chương trình phát sóng kéo dài 18 giờ mỗi ngày lấy từ đài AFRTS-LA của Philippines và một phần chương trình được biên tập tại chổ. Đội ngũ năm người đầu tiên được lựa chọn cùng với những nhà báo tình nguyện quân sự cũng như dân sự dưới sự điều hành của Trung úy MACV John R.Paull.

Chương trình tin tức:
Chương trình tin tức đầu tiên trên đài đã bị hạn chế do từ AFRTS-LA và các chương trình tuyên truyền không may bị giới hạn bởi tín hiệu sóng ngắn của đài Voice of America (VOA) tại California tiếp cận Việt Nam. Một lần nữa, các cơ sở ở Philippines đã giúp đỡ cho đài. Đài VOA có các máy phát chuyên dụng từ 3:00 giờ tối. và 5:00 CH, giờ Sài Gòn, để chuyển tiếp tin tức và chương trình của AFRTS-LA.

Kế hoạch mở rộng:
Sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ tại miền Nam Việt Nam tăng dần cùng với sự tăng trưởng của đài phát thanh. Phối hợp với cơ quan United States Operations Mission (USOM: State Department economic aid apparatus in Vietnam) để chuẩn bị chuyển giao và trao đổi một máy phát 10 kilowatt cho hai mươi hai trạm phát tín hiệu ở các tỉnh. Các máy phát nhỏ loại 50 watt được sử dụng để tái phát sóng các chương trình tại Sài Gòn trên khắp nước. MACV, J-6 sắp đặt máy phát công suất cao hoàn chỉnh với ăng-ten và tất cả các phụ kiện mà sau đó được sử dụng bởi Chính phủ Việt Nam tại Cần Thơ của vùng đồng bằng. Với vị trí chiến lược của các trạm chuyển tiếp, tín hiệu AFRT được thu nhận bởi phần lớn lực lượng quân đội Hoa kỳ.

Khán giả Việt Nam:
Trong khi Đài phát thanh quân đội Hoa Kỳ đang bận rộn lập chương trình cho thình giả của mình đã vô tình có được một lượng khán giả lớn người Việt Nam. Bằng chứng cho thấy khán giả lưu tâm đến cơn sốt “Twist” đang rung chuyển thế giới của giới trẻ phương Tây trong âm nhạc.
Vào tháng 4 năm 1963, Chính phủ Việt Nam, dưới quyền tổng thống Ngô Đình Diệm - đã gợi ý rằng người Hoa Kỳ nên quan sát "luật đạo đức", cấm tất cả các điệu nhảy và ca hát những bài hát buồn - dường như vào cuối năm 1968, một tờ báo tiếng Anh của Việt Nam đã mĩa mai  nhận xét một quan chức Việt Nam đưa ra luật mà cấm các công dân địa phương để nghe đài phát thanh của Hoa Kỳ. Vào tháng 10 năm 1963, số lượng lính Hoa Kỳ ở Miền Nam Việt Nam đã tăng lên 16.000 người.

Cải thiện trang thiế bị:
Việc duy trì các thiết bị “mượn” và các phòng studio hạn chế ở khách sạn Rex đòi hỏi phải được cải thiện kể cả kế hoạch cho các trạm chung quanh Sài Gòn. Đầu năm 1964, một máy phát 1000 watt của (Bauer Manufacturing Co.) đã được yêu cầu thay thế máy cũ đặt tại Phú Thọ. Vào ngày 5 tháng 6 năm 1964, Tư lệnh  U. S. Naval Support Activity ở Sài Gòn chính thức yêu cầu thiết lập một đài truyền hình dành cho các nhân viên Hoa Kỳ. Ngày 20 tháng 6 năm 1964, Tướng William C. Westmoreland thay Tướng Harkins làm Tư lệnh U. S. Military Assistance Command, Vietnam (MACV). Vào giữa tháng 8, máy phát mới, đã được lắp đặt dẫn đến sự cải thiện đáng kể cả về chất lượng lẫn cường độ tín hiệu.


Đài phát thanh quân đội Hoa kỳ tại Việt Nam từ tháng 9 măm 1964 đến tháng 1 năm 1966:

Các studio mới:
Cùng lúc thay thế các thiết bị mới, đài cũng đã lắp đặt phòng studio mới tại Brink Bachelor Officers' Quarters (BOQ) số 101 Hai Bà Trưng, Saigon, với không gian làm việc đầy đủ dành cho 11 quân nhân Hoa Kỳ và 6 nhân viên dân sự Việt Nam.


Brink Bachelor Officers' Quarters (BOQ) số 101 Hai Bà Trưng, Saigon


Bộ máy phát FM:
Vào tháng 9, một bộ phát FM của đài 50 watt, hoàn chỉnh với ăng-ten FM hai khung đã được lắp đặt. Nguồn gốc của sự bổ sung này có phần là một bí ẩn, và, khi yêu cầu phân bổ tần số, đài chỉ có nghĩa vụ đưa ra gợi ý và yêu được chấp thuận với tần số 99.9 megaHertz. Cuối cùng chương trình FM tại Việt Nam bắt đầu vào tháng 10 năm 1964, với lịch phát sóng hạn chế từ 4 đến 6 giờ mỗi tối.
Các chương trình phát sóng AFRT tại Việt Nam phát ra từ các phòng thu ở Sài Gòn và được tái phát sóng bởi 11 điểm giao tiếp trên toàn quốc. Theo ước tính của MACV, 94% nhân viên quân sự của Hoa kỳ hoạt động ở Việt Nam nằm trong phạm vi các đài phát thanh. Còn hiệu quả của các chương trình phát sóng vô tuyến AFRT đến các quân nhân đóng quân bên ngoài khu vực của Sài Gòn bị giảm đáng kể bởi sự thiếu hụt kỹ thuật của thiết bị có sẵn.

Điều chỉnh chương trình:
Vào cuối năm 1964, Lực lượng quân sự của Hoa kỳ tại Việt Nam có con số là 23.000 người và MACV đã ước tính rằng đài phát thanh phủ sóng, mặc dù đôi khi rất yếu, đã đến được phần lớn các quân nhân đóng quân trên khắp miền Nam Việt Nam.
Trong năm AFRS, Việt Nam đã điều chỉnh chương trình của mình để sản xuất tại địa phương thông qua các thư viện âm nhạc được cung cấp bởi AFRTS-LA. Đài cũng mua lại các tin tức của Associated Press (AP) và United Press International (UPI), do đó làm giảm sự phụ thuộc vào việc phát lại đài VOA qua Philippines. Ngoài ra các nhân viên cung cấp tin và các phóng viên lưu động cũng góp phần cho hoạt động của đài. Vào cuối năm, đài cũng có một loạt các chương trình một phút về di sản, phong tục và ngôn ngữ của Việt Nam. Các nhân viên của đài đã tăng lên mười chín người trong thời gian này.

Kế hoạch cho mạng phát sóng công suất lớn:
Vào đầu năm 1965, để tầm phủ sóng của đài vươn ra toàn Việt Nam, một nghiên cứu về vấn đề này đã được tiến hành và các khuyến nghị đã được thực hiện để phủ sóng toàn 4 vùng chiến thuật với một số lượng tối thiểu các nhà máy phát công suất cao và rất cao. Người ta cho rằng độ bão hòa vô tuyến mong muốn có thể đạt được bởi lắp đặt bốn máy phát 50 kilowatt và một số máy phát 10 kilowatt. Đề xuất này đã được chỉ huy quân sự của Hoa kỳ phê chuẩn và các thiết bị đã sẳn sàng; tuy nhiên, Chính phủ Việt Nam đã rút lại việc sử dụng tần số khu vực Sài Gòn - 820 kiloHertz - sau khi máy phát đầu tiên đến. Sự kiện này cùng với những thay đổi trong triển khai quân đội, cần một cuộc kiểm tra tổng quát về tần suất và kế hoạch vị trí địa lý được đề xuất ban đầu vì vậy việc lắp đặt các thiết bị tạm dừng lại.

Truyền hình tại Việt Nam:
Ở Washington, đã có nhiều hơn kế hoạch đầy tham vọng đang được tiến hành để nâng cấp và mở rộng Đài Phát thanh và truyền hình quân đội Hoa Kỳ nhanh chóng cho sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam.
Đơn vị U. S. Navy Oceanographic Air Survey Unit ở Patuxent River, Maryland, được giao một công việc đặc biệt với mã danh Project Jenny nhằm thự hiện dự án thiết lập đài truyền hình. Các Tham mưu trưởng (JCS) chỉ đạo rằng một số máy bay Navy C-121 Super Constellation do đơn vị Maryland vận hành được trang bị các bộ phát AM, FM và TV cho "các dự án nghiên cứu và đặc biệt khác". Những chiếc máy bay này được gọi là  "Blue Eagles."
Vào tháng 2 năm 1965, AFRS Việt Nam đã mở rộng chương trình từ 18 đến 24 giờ mỗi ngày. Vào tháng 5, công việc đã được bắt đầu trên máy bay Blue Eagle One được trang bị như một trạm tiếp sức mạnh cho việc liên lạc và đài phát thanh. Nó được triển khai tới Việt Nam vào mùa hè năm 1965, và đã có mặt để tái phát sóng Giải bóng chày thế giới năm 1965 qua sóng AM và sóng ngắn cho quân nhân Hoa Kỳ ở Việt Nam và các tàu biển ở Thái Bình Dương.


Navy C-121 Super Constellation  "Blue Eagles."

Việc sử dụng máy bay thử nghiệm này tỏ ra rất hiệu quả và phổ biến. Vào tháng Tám, những sửa đổi đặc biệt đã được bắt đầu trên Blue Eagle, vì nó đã được xác định rằng truyền hình sẽ: "... đóng góp đáng kể vào mục tiêu chính sách của Mỹ về bình ổn nông thôn, ổn định đô thị, đoàn kết dân tộc, hỗ trợ thế giới tự do và sự hiện diện của Mỹ ở Việt Nam”
Các cấu hình mới sẽ cho phép Blue Eagles phát sóng chương trình truyền hình đến khu vực Sài Gòn trên hai kênh - một cho quân nhân Hoa Kỳ và một cho các công dân Việt Nam - ngoài ra còn các kênh liên lạc vô tuyến khác nhau..




Buồng phát sóng truyền hình trên Blue Eagle

Vào ngày 2 tháng 12 năm 1965, các kế hoạch đã được chấp thuận bởi Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Cyrus Vance, thành lập thêm các cơ sở truyền hình mặt đất bổ sung bên ngoài Sài Gòn. Thỏa thuận chính thức cho phép truyền hình tại Việt Nam đã đạt được bởi chính phủ Hoa Kỳ và Chính phủ Việt Nam vào ngày 24 tháng 12. Nó được ký kết vào ngày 3 tháng 1 năm 1966, bởi Ông Trần Văn Đỗ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao và Đại sứ Hoa Kỳ Henry Cabot Lodge.

Hỗ trợ từ Washington:
Cho đến giữa năm 1965, lịch sử của AFVN cũng tuân theo một mô hình tương tự từ việc thành lập và tăng trưởng ở các quốc gia có nơi chỉ huy quân đội của Hoa Kỳ đóng, để khởi xướng và thúc đẩy thành lập bất kỳ đài AFRT mới nào. Về yêu cầu cho một đài truyền hình cho lĩnh vực này, thông tin thu được chỉ ra rằng Washington đóng một vai trò lớn hơn nhiều so với bình thường trong việc thành lập mở rộng đài truyền hình cho Việt Nam, bắt đầu từ năm 1965.
Sự chú ý này có liên quan đến việc lập đài truyền hình, không chỉ cho người Hoa Kỳ, mà còn cho người Việt Nam; và không chỉ để giải trí và thông tin của quân đội. mà còn để cải thiện giáo dục, bình định nông thôn và sự đoàn kết dân tộc của người Việt Nam.
Phó Tổng thống Hoa Kỳ, Hubert H. Humphrey, nhấn mạnh vào việc đưa các chương trình truyền hình, và cho người Việt Nam ở ngôi làng xa xôi nhất là "... một yếu tố quyết định trong xây dựng đất nước và thiết lập sự đoàn kết dân tộc ở miền Nam Việt Nam . "

Khởi đầu cùa truyền hình:
Truyền hình đã ra mắt lần đầu tiên tại Việt Nam vào ngày 7 tháng 2 năm 1966, vừa đúng lúc để chào mừng Tết. Hai kênh  9 và 11  đã được giao cho Chính phủ Việt Nam (Việt Nam) và Quân đội Hoa Kỳ.
Sau khi quay video chương trình mặt đất tại Tân Sơn Nhứt, THVN đã bắt đầu phát sóng truyền hình lúc 7:30 chiều. với tuyên bố của Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ, những nhận xét khác được phát biểu bởi Đại sứ Hoa Kỳ Henry Cabot Lodge, và Tướng Westmoreland, COMUSMACV. Còn đài của Hoa Kỳ bắt đầu nửa giờ sau trên NWB-TV.
Chương trình đầu tiên bao gồm một bức thư thoại của Bộ trưởng Quốc phòng, Robert S. McNamara, tiếp theo là "Hollywood Salute to Vietnam", với nghệ sĩ Bob Hope trên máy bay Blue Eagle ở độ cao 5.000 đến 12.000 feet vòng quanh Sài Gòn, một phi hành đoàn mười người điều khiển thiết bị bao gồm hai chuỗi phim (16 mm), hai máy phát, hai máy ghi băng video và một camera TV trong một studio nhỏ gọn hoàn chỉnh cùng ánh sáng. Vùng phủ sóng của các thiết bị là ba mươi năm mươi dặm.


Sau đó, một studio tạm thời được thành lập tại trung tâm Sài Gòn để sản xuất băng video cho mỗi chương trình phát sóng tại Việt Nam. Truyền hình Việt Nam phát trên không, một giờ mỗi đêm. Chương trình truyền hình của Hoa kỳ chủ yếu là các chương trình hàng đầu do AFRTS-LA cung cấp. Đài AFVN phát sóng ban đầu ba giờ mỗi đêm; trong đó có các phim phổ biến nhất là "Gunsmoke", "Combat" và "Bonanza".

Vai trò quan trọng của đài phát thanh và truyền hình quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam:
Đài được giao vai trò quan trọng trong việc đưa truyền hình đến với người Việt Nam. Đài đã cung cấp hỗ trợ kỹ thuật (JUSPAO) nhằm mục đích xây dựng và đưa vào hoạt động các đài truyền hình mặt đất độc lập cho Chính phủ Việt Nam. Chi phí xây dựng, vận hành và duy trì các thiết bị truyền hình và phòng thu của THVN là trách nhiệm hoàn toàn của Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USALD).
Ngoài việc cung cấp hỗ trợ kỹ thuật cho nỗ lực truyền hình của Việt Nam, Đài đã tham gia vào việc thiết lập phạm vi phủ sóng truyền hình cho phần lớn các quân nhân Hoa Kỳ trên khắp Việt Nam. Mười một trạm van (xe) di động — mỗi trạm có công suất bức xạ hiệu quả (ERP) 40 kilowatts - đặt hàng cho Việt Nam, được đặt ở vị trí chiến lược trong các khu vực có số lượng quân nhân lớn nhất.
Trong khi các chuyến bay Blue Eagle vẫn tiếp tục, việc xây dựng được bắt đầu cho các trạm mặt đất cố định cho hai đài. Cơ sở đầu tiên sẽ chứa các máy phát cho THVN và AFRT Việt Nam và các studio cho đài phát thanh và truyền hình Hoa Kỳ ở Sài Gòn. Việc xây dựng một studio truyền hình Việt Nam mới sẽ bắt đầu cho đến cuối tháng 5 năm 1967.

Cải tiến chương trình tin tức:
 Bộ phận radio của AFRT Việt Nam không hoàn toàn bị bỏ quên trong giai đoạn này. Đầu năm nay, các nhân viên tin tức dành riêng đã giành được sự liên kết với Việt Nam để là điểm đầu tiên trong tất cả các đài phát thanh lực lượng quân đội trình bày các chương trình phát sóng tin tức, vào giờ, mỗi giờ, 24 giờ mỗi ngày. Vào ngày 24 tháng 3 năm 1966, một cáp ngầm hai chiều mới được mở ra để liên kết Sài Gòn và AFRTS-LA. Điều này cho phép đài lập chương trình các sự kiện thể thao lớn, các bài phát biểu quan trọng và các tính năng đặc biệt khác một cách kịp thời, ngoài việc trực tiếp nhận chương trình AFRTS-LA thông thường liên tục cả ngày.
Ngày 13 tháng 4 năm 1966, Việt cộng pháo kích vào Tân Sơn Nhứt làm hư hại tất cả 3 chiếc Blue Eagle.

Các trạm mặt đất đầu tiên:
Việc khai trương chính thức đài truyền hình AFRTS đầu tiên trong một khu vực chiến đấu đã đạt được một nỗ lực to lớn của một nhóm nhỏ các cá nhân đã làm việc trong các điều kiện bất thường. Nếu không mô tả những vấn đề rõ ràng hơn liên quan đến thời tiết và mối đe dọa của cuộc tấn công của kẻ thù, người ta sẽ không mong đợi việc lắp đặt một cơ sở truyền hình trong những điều kiện như vậy ở miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, mặc dù các điều kiện kém của thiết bị sau khi vận chuyển đến địa điểm, thiếu các phụ tùng thay thế, thời gian cần thiết để nhận hỗ trợ hậu cần thường xuyên và các vấn đề khác liên quan đến việc lắp đặt thiết bị rất mỏng manh và tinh vi, trạm bắt sóng TV đầu tiên bắt đầu hoạt động Ngày 25 tháng 9 năm 1966, từ đồi Vũng Châu gần thành phố biển Qui Nhơn, ở miền Trung Việt Nam. Phát sóng với công suất bức xạ hiệu quả là 40 kilowatt, Đại úy Willis Haas, OIC, Phân đội 1, của đài AFRT Việt Nam là người bật máy phát sóng truyền hình Mỹ cho khoảng 24.000 quân nhân trong vùng lân cận.


Một tháng sau, Phân đội 2 bắt đầu phát sóng truyền hình từ trên đỉnh "Monkey Mountain" tại cảng Đà Nẵng, ở Bắc Trung phần Việt Nam, ngay trước khi gió mùa đến. Việc lắp đặt thêm các trạm truyền hình sẽ được hoàn thành vào năm 1967.

 Hình 5 cung cấp một minh họa địa lý của miền Nam Việt Nam và các địa điểm được lựa chọn được đề cập trong suốt nghiên cứu này



Việc nâng cấp độ phủ sóng và phương tiện, được đề xuất lần đầu vào đầu năm 1965, để chuẩn bị cho việc mở rộng truyền hình trong năm 1966; mặc dù, các đài phát thanh FM 1000 watt và 1.000 watt mới đã hoạt động cùng với việc mở ra đài truyền hình tại Sài Gòn.
Vào mùa thu năm 1966, tất cả hai mươi hai trạm đang hoạt động, tái phát sóng tín hiệu Sài Gòn AM thông qua một loạt các đường nối đất và các đường liên kết truyền thông. Chương trình phát thanh AM trong giai đoạn này, phản ánh sự phụ thuộc tối thiểu vào các chương trình của AFRTS-LA và các chương trình có nguồn gốc AFNB. 

Lịch trình cho AM chương trình phát thanh cho tháng 10, tháng 11 và tháng 12 năm 1966, được trình bày trong





Lễ khánh thành đài:
Lễ khai trương chính thức của đài truyền hình Sài Gòn, tọa lạc tại số 9 Hồng Thập Tự, được tổ chức vào ngày 31 tháng 10 năm 1966. Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ và Tướng William C. Westmoreland đã có mặt để cắt băng khánh thành giữa hai đài AFRT, THVN và tòa nhà phát tín hiệu cho cả đài truyền hình Việt Nam và Hoa Kỳ. 






Lễ đặt viên đầu đầu tiên





Các đài phát thanh và tin tức vẫn nằm trong khách sạn Brink, đang chờ hoàn thànhcác thiết bị âm thanh đầy đủ. Hai đài AFRT và THVN hoạt động với một hệ thống ERP 240 kilowatts, đã làm giảm đi các chuyến Blue Eagles bắt đầu phục vụ khu vực đồng bằng với chương trình truyền hình Việt Nam chỉ vào ngày 26 tháng 10. Số lượng người nhận tín hiệu truyền hình tại nước này rất ít, ước tính 2.500 người.
Đêm Giáng sinh đầu tiên, 1966, hai năm đến ngày sau vụ nổ Brink, AFRT Việt Nam đã bị tấn công vũ trang nhỏ do V. C. tổ chức tại đài mới. Các cấu trúc phức hợp và tòa nhà xưởng chỉ chịu thiệt hại nhẹ, và lần này, không ai bị thương.
Năm 1966, nhân lực cần thiết cho một nỗ lực mở rộng đã thấy số lượng kỹ thuật viên, kỹ sư, nhà văn, đạo diễn, người quay phim và các công nhân sản xuất khác tăng đáng kể sự bổ sung. Khi bắt đầu xây dựng, AFRT Việt Nam đã có hai mươi hai người; trong thời gian một năm, đến năm 1966, các nhân viên đã tăng lên 150 nhân sự. Lực lượng quân đợi Hoa Kỳ trong thời gian này đã tăng lên 340.000 người.



Mạng phát thanh ở Việt Nam:
Với mức độ phủ sóng không đầy đủ vào đầu năm 1967, việc nâng cấp các đài vô tuyến đã được bắt đầu. Sự kiện đầu tiên của năm mới là sự di chuyển của các đài phát thanh đến đài mới, động thái bắt đầu vào ngày 2 tháng 1. Không có sự đình trệ trên đài phát thanh AM trong sự thay đổi; tuy nhiên, chương trình FM phải bị ngưng cho đến khi phòng phát FM hoàn thành vào ngày 13 tháng 1. Vào 9:00 sáng ngày 6 tháng 1 năm 1967, đài phát thanh AM của AFRT Việt Nam bắt đầu phát từ số 9 Hồng Thập Tự.


Kế hoạch đã được xem xét và xây dựng ngay ba trạm 50 kilowatt và hai trạm 10 kilowatt AM bao phủ 95% diện tích Nam Việt Nam và các vùng lân cận của Biển Đông để phục vụ tất cả quân đội Hoa Kỳ trong nước và Hải quân Hoa Kỳ và lực lượng tuần duyên tham gia vào cuộc xung đột Việt Nam.

Các cơ sở phát sóng ờ Sài Gòn:
Bên trong các đài mới xây dựng ở Sài Gòn có những mọi đặc điểm của một đài truyền hình và đài phát thanh lớn như tại Hoa Kỳ. Phía ngoài đài, AFRT Việt Nam nằm trong khu liên hợp quân sự với các bức tường cao bao bọc dây concertina. Ngoài văn phòng và không gian lưu trữ - nó còn là trụ sở dùng cho việc quản trị, cung cấp và kỹ thuật - tòa nhà chính chứa các phòng điều khiển tổng thể riêng cho chương trình AM và FM, ba studio sản xuất chương trình phát thanh, thư viện phim truyền hình, băng video, phòng kinescope, điều khiển truyền hình, và một phòng thu lớn, đầy đủ tiện nghi. Tòa nhà máy phát, gần đó, đặt hai máy phát TV 25 kilowatt và hai máy phát vô tuyến FM và AM 1 kilowatt. Một tháp bằng thép cao 300 foot hỗ trợ một ăng-ten cao 80 feet làm tăng hiệu quả phát sóng. Sức mạnh của các máy phát TV có hệ số gần là 10.




Cổng chánh vào studio cùa đài




Nhân viên điều hành của đài

Chương trình truyền hình:
Sau khi chuyển sang cơ sở mới, chương trình truyền hình đã được mở rộng vào thứ Bảy và Chủ Nhật, bao gồm các chương trình phát sóng buổi chiều. Chương trình phát thanh chỉ trải qua những sửa đổi nhỏ. Một tuần tổng hợp của AFRT, chương trình truyền hình tại Việt Nam được trình bày trong hình.

Hoàn tất đài truyền hình:
Việc lắp đặt các đài truyền hình đã được nối lại vào đầu năm, và vào ngày 1 tháng 2, Phân đội 3 đã hoàn thành trạm tiếp sóng thứ ba tại Dragon Mountain, Pleiku. Đài cung cấp dịch vụ truyền hình lần đầu tiên cho quân đội Hoa Kỳ ở miền Trung, Vùng Cao Nguyên Nam Việt Nam.
Trạm tiếp sóng thứ tư được lắp đặt trên đảo Hòn Tre gần Nha Trang. Nó bắt đầu hoạt động vào ngày 13 tháng 3 năm 1967, phục vụ các khu vực vịnh Nha Trang và Cam Ranh dọc theo bờ biển. Trạm tiếp sóng thứ năm đã hoạt động tại thành phố Huế vào ngày 15 tháng 5. Việc lắp đặt AFRT, mạng truyền hình tại Việt Nam được hoàn thành vào ngày 26 tháng 5 năm 1967, khi trạm thứ 6 bắt đầu phát sóng từ Tuy Hòa, phía bắc Nha Trang. Trạm thứ bảy đã tạm thời được đặt tại Sài Gòn để được sử dụng như một cơ sở đào tạo cho nhân viên thay thế trong cho lĩnh vực này.




Trạm tiếp sóng Hòn Tre

Mạng vô tuyến bắt đầu phát triễn, ngày 31 Tháng Ba, 1967, tại ấp Cát Lở, sáu mươi dặm về phía Đông Nam của Sài Gòn, trở thành địa điểm cho máy phát 50-kilowatt đầu tiên của mạng vô tuyến AM mới. Tín hiệu mạnh mẽ bắt đầu phục vụ khu vực Sài Gòn và thực tế tất cả các khu vực đồng bằng Nam phần.

Mạng phát thanh và truyền hình Hoa kỳ chính thức được đặt tên:
Hai tháng sau, vào ngày 1 tháng 6, trạm AM thứ hai được khai trương tại "Bãi biển Đỏ" của Đà Nẵng với công suất 10 kilowatt. Trạm mới của Phân  đội 2 bắt đầu phục vụ quân nhân Hoa Kỳ tại khu vực phía bắc của nước Việt Nam Cộng Hòa. Trung tá Arthur Jones đã có mặt để chào đón liên kết đầu tiên trong một mạng vô tuyến toàn quốc.




Căn cứ Red beach tại Đà Nẳng

         Đài chính ở Sài Gòn bắt đầu phát sóng mười tám giờ mỗi ngày. Vào ngày 1 tháng 7 năm 1967, Đài Phát thanh và Truyền hình quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam Cộng hòa bắt đầu mang tên là AFVN.




Phòng điều khiển chương trỉnh




 Hệ thống camera và đèn chiếu sáng trong studio 




Bobbie nữ thông báo viên thời tiết đầu tiên của đài



TT Nguyễn Văn Thiệu thăm đài



Tướng Dương Văn Minh thăm đài










Lời chào  " Good morning Vietnam" của đài phát thanh Hoa Kỳ


Bài White Christmas là ám hiệu cuối cùng trên đài FM  thông báo
 cho các nhân viên Hoa Kỳ di tản ra khỏi VN


Nguồn: AFVN (American Forces Vietnam Network) - History & Information
https://www.afvnvets.net/

  Tết Sài Gòn trăm năm trước ra sao?   Biết những gì xảy ra trong quá khứ xa xưa dường như là mơ ước muôn đời của con người. Bởi trong c...