Chủ Nhật, 23 tháng 6, 2019



Sài Gòn xưa: 

Hủ tiếu, bánh bao Cả Cần



Quán Cả Cần nằm thoáng đãng trên khoảng diện tích rộng rãi giữa hai ngả giao thông của đường Hùng Vương, phía trước công viên Văn Lang – Quận 5. Quán lúc nào cũng đông khách và không ít người vẫn cho rằng quán hủ tiếu Cả Cần chính là quán hủ tiếu của Bà Năm Sa Đéc, nghệ sĩ cải lương nổi tiếng một thời, vợ của học giả đáng kính Vương Hồng Sển. Nhưng thật ra ông Trần Phấn Thắng đã mất mới là người mở quán hủ tiếu Cả Cần. Và ông “Cả Cần” đã “nhập khẩu” toàn bộ “công nghệ” chế biến bánh bao, hủ tiếu từ Mỹ Tho lên, chứ hoàn toàn không liên quan gì đến hủ tiếu Sa Đéc.
Chuyện quán Cả Cần
Ông Bà Cả Cần xuất thân từ công chức Việt Nam Cộng Hòa. Bà người gốc Bến Tre, nấu ăn rất ngon. Ông có tài ăn nói duyên dáng và khả năng ngoại giao bạn bè rất rộng. Từ sự kết hợp đó, ông bà quyết định bỏ nghề công chức ra mở quán Hủ Tiếu và Bánh Bao Mỹ Tho.
Lúc đầu quán hủ tiếu Cả Cần đặt tại ngã tư Công Lý và Trương Quốc Dung. Trước năm 1975, nếu ai đi lại con đường ra sân bay Tân Sơn Nhất sẽ không thể không thấy cái Bánh Bao to tướng trước khi băng qua cổng xe lửa, đó chính là quán Cả Cần.

Sở dĩ quán mang tên Cả Cần, do ông Thắng lấy tên người bạn thân đã mất là Cần, để nêu lên khẩu hiệu “Có Cả Cần Cần Chi Có Cả” cho quán hấp dẫn thực khách.
Sau thời gian ngắn thì Quán Ông Cả Cần thành công rất nhanh nhờ tài nấu ăn của bà và tài ngoại giao của ông. Cũng vì quen biết giới văn nghệ sỹ thời đó nên ông Thắng liên hệ với Bà Năm Sa Đéc, mượn nghệ danh làm tên quán thứ hai ở Ngã Tư Nguyễn Tri Phương – Nguyễn Trãi (Chợ Lớn).
Ai có đến quán Bà Năm Sa Đéc (của ông Trần Phấn Thắng) thì đều biết quán này nằm giữa đường gần như chắn ngang con đường Nguyễn Trãi chạy từ Sài Gòn ra. Vì thế khoảng thập niên 70, ông Thắng bị Đô Trưởng lúc đó là Đỗ Kiến Nhiễu (nghe đâu cũng gốc Mỹ Tho) bắt tháo dỡ. Ông theo vụ kiện đến cùng, kết cục thì ông Thắng thắng và quán vẫn còn tồn tại như ngày nay. Nhưng vì vụ kiện này mà Bà Năm Sa Đéc rút tên ra. Quán mang tên MỸ TIÊN . Mỹ Tiên là tên cô con gái lớn của ông Thắng.



Ông bà Cả Cần.


Khi Sài Gòn bị chiếm, gia đình ông Thắng định cư ở Canada, tới những năm 1990 trở về Sài Gòn, mở lại quán hủ tiếu Cả Cần.
Ông Thắng mở quán hủ tiếu Cả Cần hiện nay, cùng địa điểm với người kinh doanh quán ăn khác, nên chỉ phục vụ hủ tiếu Cả Cần một buổi, thời gian này là buổi sáng. Trên tờ thực đơn của hủ tiếu Cả Cần có ghi dòng chữ Việt và Anh “SÁNG VÀ CHIỀU KHÁC NHAU – MORNING AND AFTERNOON DIFERENT ..”
Hủ tiếu Cả Cần
Rất dễ nhận đâu là hủ tiếu Cả Cần thứ thiệt: Vào ăn hủ tiếu cả Cần, chỉ có hai thứ là hủ tiếu khô và hủ tiếu nước. Hủ tiếu Cả Cần chế biến theo hủ tiếu Mỹ Tho, bằng sợi bánh hủ tiếu Mỹ Tho. Theo nhận xét của nhiều người, hủ tiếu Mỹ Tho là thứ hủ tiếu ngon nhất của miền Nam, vốn từ hủ tiếu của người Triều Châu (người Tiều). Nên thường thấy, chủ các quán hủ tiếu Mỹ Tho danh tiếng xưa nay là người Việt gốc Hoa, tuy vậy các lò sản xuất bánh hủ tiếu Mỹ Tho đều do người Việt phụ trách. Có hai nơi chuyên sản xuất bánh hủ tiếu Mỹ Tho nổi tiếng, ở thành phố Mỹ Tho và thị xã Gò Công, cung cấp cho các quán chế biến hủ tiếu Mỹ Tho ở khắp các nơi, trong đó có hủ tiếu Cả Cần.



Xe hủ tiếu của người Hoa.

Bánh hủ tiếu Mỹ Tho mà hủ tiếu Cả Cần sử dụng chế biến tô hủ tiếu phục vụ khách là loại bánh khô, chế biến từ các loại gạo như Nàng Thơm – Nàng Út, và Nàng Thơm Chợ Đào, loại gạo đặc sản của Cần Đước – Long An, nức tiếng là loại gạo thơm từng được dùng tiến các vua triều Nguyễn, có nhiều người cho rằng, vào ăn hủ tiếu Cả Cần nên gọi tô hủ tiếu khô.
Ăn hủ tiếu khô sẽ được thưởng thức thứ nước sốt rất đặc biệt của quán hủ tiếu Cả Cần. Thứ nước sốt này có vị chua và ngọt, nằm dưới lớp xá xíu, sườn non, tôm luộc, thịt bằm. Trộn đều tay cho nước sốt hòa lẫn với bánh hủ tiếu rồi ăn, sẽ thấy hương vị đặc sắc của tô hủ tiếu, để biết vì sao hủ tiếu Cả Cần đã nổi tiếng tại Sài Gòn trên nửa thế kỷ.

Có một thời gian hủ tiếu cả Cần chỉ phục vụ khách vào buổi chiều, nay đổi buổi sáng. Tô hủ tiếu nước bình thường có sườn non – xá xíu – thịt bằm và vài lát chả cây, với giá cao hơn đôi chút giá tô hủ tiếu ở các quán khác. Nhưng lần nào cũng vậy, miếng sườn non trong tô hủ tiếu Cả Cần là thứ sườn non ở chỗ ngon nhất của bẹ sườn heo, được hầm vừa chín tới, thịt không rã rục cũng không bị cứng. Nếu khách gọi tô hủ tiếu đặc biệt, sẽ có thêm tôm luộc và vài khoanh dồi chiên như trong món cháo lòng. Một tô hủ tiếu Cả Cần đặc biệt có giá trên dưới 70,000 đồng.
Đặc biệt từ lúc quán hủ tiếu Cả Cần ra đời, đã gắn liền tô hủ tiếu với cái bánh bao. Một thời gian dài bánh bao Cả Cần cũng được hiểu là bánh bao Bà Năm Sa Đéc, chúng tôi thấy nhiều người ghé quán hủ tiếu Cả Cần để mua bánh bao; cũng có thực khách ăn xong tô hủ tiếu, gọi cái bánh bao ăn thêm.
Bánh bao Cả Cần
Bánh bao Cả Cần là thứ bánh bao đặc chất của người miền Nam, sản xuất ở Sài Gòn trước 75, khác với bánh bao của người Hoa. Bánh bao Cả Cần không trắng như bánh bao gốc của người Hoa, mà hơi hẩm, vì không dùng bột tẩy. Vị bánh bao bùi hơn, ăn không dính răng, nhân bánh bao hoàn toàn là thịt băm, không pha lẫn cá và dầu mỡ như bánh bao của người Hoa.


Bánh bao Ông Cả Cần được hấp trước mặt khách hàng

tại quán Túp Lều Lý Tưởng.


Bánh bao Cả Cần nổi tiếng ở Sài Gòn từ trước 75. Nhân bánh bao Cả Cần gồm tôm – thịt – trứng muối – nấm đông cô; giá cao hơn giá bánh bao nhiều nơi khác. Loại bánh bao đặc biệt của quán Cả Cần lên tới trên 30,000 đồng, cao gần gấp đôi bánh bao các nơi. Bánh bao Cả Cần thơm ngon, tuy nhiên cũng không vượt trội bánh bao nhiều nơi khác, nhất là bánh bao ở Mỹ Tho.
Từ nhiều năm nay, Sài Gòn có nhiều nơi sản xuất bánh bao (không kể bánh bao của người Hoa), với những thương hiệu không thể nhớ hết. Bên cạnh những xe bán bánh bao mang biển hiệu: bánh bao Singapore, bánh bao Đài Loan, bánh bao Malaysia… thì bánh bao Cả Cần vẫn cứ đông khách như mọi khi. Và cho tới ngày nay, thương hiệu “Cả Cần” đã đi vào lịch sử ẩm thực của Sài Gòn.
Dựa theo bài viết đăng trên Saigonxua.org và Fanpage Saigonxua
Độc giả quan tâm có thể ghé thăm Fanpage để tìm hiểu về Sài Gòn xưa



Chủ Nhật, 16 tháng 6, 2019

NGÀY ẤY VÀ BÂY GIỜ


1551. USO 119 Nguyễn Huệ ngày xưa và giở đây.


1552. Cây xăng trên đường Cách Mạng 1/11 ngày xưa và giờ đây.


1553. Khu Lăng Cha Cả ngày xưa và hiện nay.


1554. Cửa ra vào Hong Kong BOQ ngày xưa và hện nay.



1555. Đường Nguyễn Bĩnh Khiêm trước trường Võ Trường Toãn xưa và nay.


1556. Hotel Victoria 937 Trần Hưng Đạo ngày xưa và giờ đây.


1557. Giao lộ Võ Di Nguy - Võ Tánh ngày xưa và hiện nay.



1558. Ngả tư Hai Bà Trưng - Hồng Thập Tư/NTMK xưa và nay.




1559. Ngả tư Hiền Vương/VTS - Hai Bà Trưng xưa và nay.


1560. Nhìn về Hotel Canberra BEQ đường Tổng Đốc Phương/CVL xưa và nay.



Nguồn Tim Doling, Paul Blizard, Trung Ngo

Thứ Tư, 12 tháng 6, 2019


60 năm Sài Gòn, hồn ở đâu bây giờ?


Nhớ, nhớ đến từng chi tiết từ cái bước chân đầu tiên đặt lên đất Sài Thành, nhớ từng ngõ ngách, từng nhân vật thuộc về quá khứ ấy cho đến ngày nay. Mặc cho Sài Gòn đã có nhiều tang thương dâu biển, từ cái tên thành phố đến những con đường đã thay họ đổi tên, từ con người đến xã hội cho đến cả cái cách sống cũng đã khác xưa nhiều lắm.
Bước chân đầu tiên trên đất Sài Gòn
Thế mà 60 năm rồi đấy, kể từ ngày tôi mới đặt chân lên thành phố Sài Gòn. Tôi nhớ như in, ngày đầu tiên ấy. Cuối tháng 1 năm 1954, sau hai tháng học ở Trường Sĩ Quan Thủ Đức, ngày thứ bảy chúng tôi được đi phép ở Sài Gòn. Niềm mơ ước của tôi từ những ngày còn nhỏ ở trường trung học, ước gì có ngày mình được vào Sài Gòn. Niềm mơ ước ấy còn rộn ràng hơn khi khóa học sĩ quan khai giảng.
Thủ Đức – Sài Gòn chỉ có hơn 10 cây số, tuy chỉ cách thành phố rất gần nhưng theo đúng chương trình khóa học, hai tháng sau chúng tôi mới được đi phép. Mấy anh “Bắc Kỳ” nôn nao hỏi thăm mấy ông bạn “Nam Kỳ” về Sài Gòn, từ cái xe taxi nó ra sao, đi thế nào, bởi hồi đó miền Bắc chưa hề có taxi, cho đến Chợ Lớn có những gì… Mấy ông bạn Nam Kỳ tha hồ tán dóc. Đầu óc tôi cứ lơ mơ về cái chuyến đi phép này.






Rồi ngày đi phép cũng đến, một nửa số sinh viên sĩ quan đi phép mặc bộ tenue sortie là ủi thẳng tắp, áo bốn túi, chemise trắng tính, thắt cravate đen đàng hoàng, giầy đánh bóng lộn có thể soi gương được. Vô phúc quên cái gì là bị phạt ở lại ngay. Nhưng hầu như chưa có anh nào bị phạt. Đoàn xe GMC của trường chở chúng tôi chạy vèo vèo vào thành phố. Ôi cái cửa ngõ vào thành phố hồi đó chưa có gì lộng lẫy mà chúng tôi cũng mở to mắt ra nhìn. Đoàn xe “diễu” qua vài con phố rồi dừng lại trên đường Hai Bà Trưng hồi đó còn gọi là đường Paul Blanchy, ngay phía sau Nhà Hát Lớn Thành Phố mà sau này là Trụ Sở Hạ Nghị Viện VNCH.
Cú nhảy từ sàn xe GMC xuống con đường Hai Bà Trưng là bước chân đầu tiên của tôi đến đất Sài Thành hoa lệ. Ông Hồ Trung Hậu là dân miền Nam chính hiệu, ông đã hứa hướng dẫn tôi đi chơi… cho khỏi “ngố”. Chúng tôi đi bộ vào con đường nhỏ bên hông Nhà Hát Thành Phố và khách sạn Continental, vòng ra trước bùng binh Catinat – Lê Lợi (hồi đó còn gọi là Boulevard Bonard) và Nhà hát thành phố. Nhìn mặt trước nhà hát thành phố có mấy bức tượng bà đầm cứ tưởng… mình ở bên Tây. Lúc đó đã có nhà hàng Givral rồi, nhưng tôi vẫn còn “kính nhi viễn chi” cái nhà hàng văn minh lịch sự giữa thành phố lớn rộng đó, chưa dám mơ bước chân vào.
Ông Hậu vẫy một cái taxi chở chúng tôi về nhà ông. Taxi hồi đó toàn là loại deux cheveaux, nhỏ hẹp sơn hai màu xanh vàng. Khi bước lên xe, đồng hồ con số chỉ là 0, đi quãng nào số tiền nhảy quãng đó, trong ngày đầu tiên, tôi ngu ngơ làm quen với không khí Sài Gòn qua gia đình anh em ông Hậu. Hôm sau ông bạn tôi đi với bồ nên tôi bắt đầu cuộc solo giữa thành phố xa lạ này. Tất cả sinh viên sĩ quan đều không được đi xe buýt hay xích lô, phải đi taxi. Nhưng lệnh là lệnh, chúng tôi học các đàn anh khóa trước, cởi áo bốn túi, bỏ cravate, cất cái nón đi là lại tha hồ vung vẩy.
Trở thành người Sài Gòn từ bao giờ
Nơi tôi đến đầu tiên là Chợ Lớn. Một cuốc taxi từ giữa trung tâm thành phố đến cuối Chợ Lớn mất 12 đồng. Tôi tìm đến khách sạn rẻ tiền của mấy thằng bạn Bắc Kỳ ở đường Tản Đà, một con phố nhỏ. Ba bốn thằng thuê chung một phòng cũng chẳng có “ông mã tà” nào hỏi đến. Chợ Lớn hồi đó tấp nập hơn ở Sài Gòn, con phố Đồng Khánh chi chít những khách sạn, hàng ăn, cửa tiệm tạp hóa lu bù tưởng như mua gì cũng có.



Tấm biển Casino Grande Monde – Sòng bạc Đại Thế Giới.

Chúng tôi cũng biết cách chui vào Kim Chung Đại Thế Giới xem thiên hạ đánh bạc. Hôm đó có anh Nguyễn Trọng Bảo cùng Đại Đội tôi nhưng lớn hơn chúng tôi vài tuổi và là một cặp với Nguyễn Năng Tế (lúc đó mới là người yêu của nữ diễn viên điện ảnh Kiều Chinh). Anh thử đánh “tài xỉu”, may mắn làm sao, một lúc sau đó anh được khoảng vài trăm ngàn. Thế là chúng tôi xúi anh “ăn non”, không chơi nữa, rủ nhau đi ăn. Bắt đầu từ hôm đó chúng tôi đi “khám phá” Sài Gòn và rồi theo cùng năm tháng trở thành người Sài Gòn lúc nào không biết. Càng có nhiều thăng trầm chúng tôi càng gắn bó với Sài Gòn hơn.               
Lần thứ hai trở lại Sài Gòn
Tôi lại nhớ ngày trở về Sài Gòn sau hơn 12 năm đi tù cải tạo từ Sơn La đến Vĩnh Phú rồi Hàm Tân. Đó là vào buổi chiều tháng 9 năm 1987 khi đoàn xe thả tù cải tạo bị giữ lại nhà giam Chí Hòa, nghe các ông quan chức trấn an về số phận chúng tôi khi được trở về,
Khoảng hơn 5 giờ chiều chúng tôi mới được thoát ra khỏi cánh cửa sắt nhà tù Chí Hòa. Ngay từ cổng trại tù đã có đoàn quay phim đợi sẵn để quay cảnh “vui mừng đoàn tụ” của tù nhân, chắc là để chứng tỏ cái sự “khoan hồng bác ái” của nhà nước cho những thằng may mắn không chết trong ngục tù. Lại là lần thứ hai tôi đặt chân lên đất Sài Gòn nhưng với tư cách khác giữa một thành phố đã đổi chủ, Thấy cái cảnh sẽ bị quay phim, Trần Dạ Từ kéo tôi lên vỉa hè đi lẫn trong đám thân nhân được vận động ra đón tù cùng những người dân tò mò nhình “cảnh lạ”. Tránh được cái máy quay phim, chúng tôi đi gần như chạy ra khỏi con phố nhỏ này.
Ra đến đường Lê Văn Duyệt, chúng tôi đi chậm lại, nhìn đường phố mà cứ thấy đường phố đang nhìn chúng tôi với một vẻ xa lạ và xót thương? Trần Dạ Từ còn lại ít tiền, anh rủ tôi ghé vào đường Hiền Vương ăn phở. Chẳng biết là bao nhiêu năm mới lại được ăn tô phở Hiền Vương đây. Tôi chọn quán phở ngay sát cạnh tiệm cắt tóc Đàm mà mấy chục năm tôi cùng nhiều bạn bè vẫn thường đến cắt tóc. Có lẽ Trần Dạ Từ hiểu rằng anh về đoàn tụ cùng gia đình chứ còn tôi, vợ con đi hết, nhà cửa chẳng còn, sẽ rất cô đơn, nên anh níu tôi lại. Ngồi ăn tô phở tưởng ngon mà thấy đắng vì thật ra cho đến lúc đó tôi chưa biết sống ra sao giữa thành phố này.
Ở tiệm phở bước ra, chúng tôi đi bên nhau dưới ánh đèn chập choạng của con đường Duy Tân mà Phạm Duy gọi là con đường Đại Học “uống ly chanh đường, uống môi em ngọt.” Đến ngã tư Phan Đình Phùng, tôi chia tay người bạn tù Trần Dạ Từ, đi lang thang trong cô đơn, trong bóng tối của chính đời mình. Bây giờ tôi mới hiểu hết nghĩa của sự cô đơn là thế nào. Tôi bắt đầu cuộc sống lưu lạc trên chính quê hương mình. Tôi tìm về nhà ông anh rể đã từng nuôi nấng tôi suốt những năm tháng trong tù. Bắt đầu từ đó tôi trở thành người Sài Gòn khác trước.
Và rồi với những cùng khổ, những khó khăn, tôi đã tự mình đứng lên. Bởi tôi thấm thía rằng thằng bạn đồng minh xỏ lá đã phản phé mình, lúc này không ai cứu mình cả, anh không vượt qua nó, nó sẽ đè chết anh. Vì thế cho đến bây giờ sống giữa Sài Gòn, tôi phải là người Sài Gòn và mãi mãi sẽ là người Sài Gòn. Làm được cái gì hay chết bẹp dí là do mình thôi.
Tôi không lan man về chuyện cũ tích xưa nữa, bởi nói tới những ngày tháng đó chẳng biết bao giờ mới đủ. Cho đến hôm nay, 25 tháng 8 năm 2014, hơn 60 năm ở Sài Gòn, mọi người đang xôn xao về những đổi thay lớn của Sài Gòn, tôi không thể ngồi yên. Tôi muốn chính mắt mình được nhìn thấy những thay đổi ấy. Mặc dù qua 2 lần nằm bệnh viện và với cái tuổi trên tám mươi, tôi đã mất sức nhiều, hầu như suốt ngày ngồi nhà đã từ ba tháng nay.
Tôi điện thoại cho Thanh Sài Gòn rủ anh đi thăm “cảnh cũ người xưa”. Chúng tôi vào phở Hòa, một tiệm phở nổi tiếng từ trước năm 1975 cho đến nay. Con đường Pasteur đan kín xe cộ, tiệm phở Hòa có vẻ tấp nập hơn xưa. Bạn khó có thể tìm lại một chút gì đó của “muôn năm cũ”. Tô phở bị “Mỹ hóa” vì cái tô to chình ình và miếng thịt cũng to tướng, có lẽ ông bà chủ đã học theo phong cách những tiệm phở Việt Nam ở Mỹ. Nó “to khỏe” chứ không còn cái vẻ “thanh cảnh” như xưa nữa.



Sau đó, nơi tôi tìm đến đầu tiên chính là Thương Xá Tax. Vừa đến đầu hai con đường gặp nhau Pasteur – Lê Lợi đã nhìn thấy một hàng rào bằng tôn chạy dài. Đường Lê Lợi chỉ còn đủ một lối đi nhỏ dẫn đến Thương Xá Tax và công viên Lam Sơn. Chiếc xe gắn máy len lỏi cho đến tận cuối đường Lê Lợi sát mép đường Tự Do. Chúng tôi đứng trước cửa TX Tax đang bày ra cảnh vô cùng vắng vẻ, chỉ có tôi và anh bảo vệ nhìn nhau. Anh thừa biết tôi đến đây để làm gì. Anh bảo vệ cũng không còn làm cái nhiệm vụ cao quý là mở cửa đón khách, anh để mặc tôi tự do đẩy cánh cửa kính nặng chịch đi vào trong khu thương mại. Đèn đuốc vẫn thắp sáng choang, chiếc thang máy cuốn vẫn lặng lẽ chạy không một bóng người. Nó mang một vẻ gì như người ta vẫn lặng lẽ theo sau một đám tang. Trong quầy hàng đầu tiên, điều khiến tôi chú ý là hàng chữ nổi bật hàng đại hạ giá (Big Sale) tới 70% đỏ loét chạy dài theo quầy hàng và hàng chữ “Tạm biệt thương xá Tax”.


Thương xá Tax.

Tôi cố gợi chuyện với cô chủ hàng xinh xắn: Cô phải đề là “Từ biệt thương xá Tax mới đúng chứ, sao lại là Tạm Biệt?” Cô hàng trẻ đẹp thở dài ngao ngán: “Ấy người ta còn hứa khi nào căn nhà 40 tầng làm xong sẽ cho chúng tôi được ưu tiên thuê cửa hàng đấy.” Nhưng ngay sau đó cô lại lắc đầu: “Hứa là hứa chứ khi đó mình không cổ cánh, đút lót thì đừng hòng bén mảng tới, ông có tin không?”
Bị hỏi ngược, tôi đâm lúng túng ấp úng nói lảng: “Phải đợi tới lúc đó mới biết được.”Cô bán hàng quay đi, dường như cô chẳng tin gì cả.
Các quầy hàng khác vẫn mở cửa, mỗi gian hàng chỉ còn lại vài ba người, chắc toàn là những ông bà chủ. Tôi nghĩ họ đang làm công việc khác chứ không để bán hàng. Có ai mua đâu mà bán. Tôi đến hỏi thăm vài ông bà chủ cửa hàng, không tìm thấy bất cứ nụ cười nào trên những khuôn mặt buồn hiu ấy.
Có lẽ vài tuần nay, người đi tìm đồ hạ giá đã “khuân” đi khá nhiều rồi, lúc này những thứ hàng còn lại không còn giá trị nữa. Tuy nhiên cửa hàng nào cũng còn bề bộn hàng ế. Nhìn lên tầng lầu cũng vậy, nó còn vắng vẻ thê thảm hơn.
Tôi bước lên mấy bậc của bục gỗ, ghé vào một tiệm bán máy hình còn nguyên si bởi ông chủ quyết không giảm giá. Tôi hỏi lý do, ông có vẻ liều:
– Thà ế chứ không giảm.
Tôi lại tò mò hỏi tiếp:
– Vậy là ông có một cửa hàng ở nơi khác nữa?
Ông lắc đầu:
– Không.
Tôi hỏi:
-Vậy ông sẽ làm gì?
Câu trả lời của ông cụt lủn:
– Về quê làm ruộng.
Tôi yên lặng trước sự bất bình đó. Đứng nhìn hàng loạt máy hình, máy quay phim đủ loại còn nằm rất thứ tự trong tủ kính sáng bóng. Tôi lại hỏi:
– Chắc họ phải đền bù cho ông những thiệt hại này chứ?
– Chưa có xu nào cả. Thời hạn bắt di dời nhanh quá, trở tay không kịp.
Tôi nghĩ chắc ông này cũng chỉ là người đi thuê lại cửa hàng của một ông nhà giàu nào đó mà thôi, ông có vẻ bất cần đời. Tôi từ giã, ông chỉ gật đầu nhẹ.
Nhìn sang hàng loạt cửa hàng vàng bạc đá quý gần như vẫn còn nằm nguyên vẹn và không một bóng khách vãng lai. Các bà, các cô tha hồ nhìn nhau ăn cơm hộp. Tôi có cảm tưởng một thành phố chết vì chiến tranh gần kề hay vì một nạn dịch nào đó.
Vậy mà tôi vẫn còn đi vơ vẩn trong cái không gian như nghĩa trang sống đó. Tôi đi tìm hình bóng của một thời dĩ vãng, nào vợ con, nào bè bạn, nào những người xa lạ trong cái nhịp thở rộn ràng thân thiện của tất cả Sài Gòn xưa ở chốn này. Chẳng bao giờ trở lại. Tôi muốn gọi tên tất cả trong hoài niệm tận cùng sâu lắng.
Ngậm ngùi nhìn công viên Lam Sơn trống rỗng
Rồi tôi cũng phải bước ra. Trở về với thực tại, nhưng vẫn gặp cái vắng lặng của vỉa hè chạy dài theo đại lộ Nguyễn Huệ. Dường như chỉ còn có Thanh Sài Gòn ngồi ngất ngư với “người xưa trong ảnh” của một ô quảng cáo vuông vắn phía ngoài thương xá.
Chúng tôi đi qua khu công viên Lam Sơn, lúc này đã được phá sạch, chỉ còn vài cây cổ thụ cao lêu nghêu bên cạnh “công trường” đang làm, dường như hàng cây đứng chờ giờ hành quyết như các “đồng nghiệp” của nó đã bị đốn hạ vài hôm trước. Các bác thợ quần áo xanh, dây đeo chằng chịt đã và đang dọn dẹp cho công trường trống rỗng. Tôi đứng trước Nhà Hát Thành Phố nhìn cảnh “vườn không nhà trống” đó mà ngậm ngùi nhớ tới pho tượng Thủy Quân Lục Chiến sừng sững đứng bảo vệ thành phố ngày nào và nhớ tới những đồng đội Thủy Quân Lục Chiến đã ngã xuống hoặc giờ này đã ở khắp phương trời xa.


Pho tượng Thủy Quân Lục Chiến.

Chắc hẳn bạn còn nhớ ngay cạnh đó là góc bùng binh Nguyễn Huệ – Lê Lợi còn là nơi tổ chức đường hoa vào dịp Tết. Gia đình nào chẳng một lần kéo nhau đi giữa đường hoa với tâm trạng rộn ràng của một ngày hội hoa xuân. Từ năm nay sẽ mất hẳn, chẳng bao giờ thấy bóng dáng mùa xuân ở đây nữa.
Cuối cùng tôi trở lại nơi mà lần đầu tiên tôi đặt chân lên thành phố Sài Gòn. Tôi đã nhảy xuống xe GMC ở đây, đúng nơi này, phía sau Nhà Hát Thành Phố, bây giờ là trụ sở của Tổng Công Ty Cấp Nước của thành phố. Mặt đường nhựa chẳng có gì thay đổi, nó cũng nhẵn mòn như những con đường nhựa khác, nhưng với tôi nó là một dấu son đáng nhớ nhất trong đời. Vậy mà đã đúng 60 năm rồi sao?
Mai này Sài Gòn sẽ còn mất đi nhiều thứ nữa như vòng xoay trước cửa Chợ Bến Thành, một biểu tượng mà bất cứ ai đã đến Sài Gòn dù chỉ một lần cũng không thể nào quên. Đó là những thứ sẽ mất đi để làm tuyến metro số 1 Bến Thành – Suối Tiên. Ngoài tuyến metro số 1, còn xây dựng thêm 6 tuyến metro khác. Chúng ta sẽ mất đi nhiều di tích xưa cũ. Sài Gòn sẽ đổi khác rất nhiều, để lại trong người Sài Gòn dù ở đâu cũng thấy cảm thấy một nỗi bùi ngùi, nhớ tiếc. 60 năm Sài Gòn, hồn ở đâu bây giờ?
                                                        Tác giả: Văn Quang (2014)
            Chỉnh sửa và tổng hợp theo Saigonxua.org và Fanpage Saigonxua
                                                            https://trithucvn.net

Thứ Tư, 5 tháng 6, 2019




Sài Gòn xưa:

Quán của một thời và những ký ức vui buồn


Quán của một thời, không chỉ là quán, mà là một góc nhân gian Sài Gòn, quay mặt ra phố hứng lấy sóng gió thời cuộc để phân vân, trăn trở và lựa chọn một thái độ sống, không có quán dành riêng cho một hạng người nào, chỉ có người chọn cái ambiance khung cảnh cho riêng mình, rồi chính mỗi người cùng với bầu bạn của họ, lâu dần tạo ra phong cách của quán.
Quán cũng mang màu sắc, cá tính của một người Sài Gòn vậy. Nhưng đó chỉ là quán của một thời cũng chưa xa lắm. Hồi nhỏ, tôi sống ở một xóm nghèo của dân cu li, đạp xích lô, vác sạp chợ, thợ mộc, thợ hồ, công chức, tư chức nhỏ… Nghèo, nhưng dân xóm cứ mỗi chiều cuối tuần, hoặc gặp kỳ lương đầu tháng thường đưa cả gia đình con cái đi ăn nhà hàng; coi như một kiểu sống phải có của người thị thành. Bạn bè, người thân quen tới nhàm, đàn ông con trai, tất cả đều kéo ra quán. Lắm khi đã hết chuyện nói mà cứ cà kê ngồi đó coi “ông đi qua bà đi lại”, xỉa hết hàng mấy chục cây tăm mà vẫn không muốn đứng lên, ra về. Lạ một điều chẳng thấy chủ quán nào bực mình, cằn nhằn; nói chi tới xua đuổi!






Lớn lên, tôi nhiễm cái “món” ngồi quán hồi nào không hay. Một mình cũng ngồi, ngồi một mình. Có điều những quán tôi ghiền… ngồi, không vì món ăn thức uống độc đáo hay “đặc sản” gì, cũng không vì có kỷ niệm “người yêu vội đi lấy chồng” nào; chẳng qua chỉ là ghiền không khí quán, ghiền khung cảnh (ambiance) quán.
Một thế hệ ghiền phố
Nhứt là đường Ca-ti-na 
Hai bên lầu các, phố nhà phân minh 
Bực thềm lót đá sạch tinh 
Các cửa hàng bán lịch thanh tốt đều…
(Nam Kỳ phong tục diễn ca – Nguyễn Liên Phong).
Những năm 60 và những năm đầu thập niên 70, có một “thế hệ” ghiền phố Catinat nay là Đồng Khởi và mấy quán đáng nhớ lắm ở cái phố cũng đáng nhớ này. “Thế hệ ghiền quán” buổi ấy rất không gần nhau về tuổi tác, địa vị xã hội và cả mức thu nhập. Từ học sinh tú tài, sinh viên, giáo chức tới văn nghệ sĩ trí thức đủ cỡ, đã thành danh hoặc mới tập tành… các dân biểu, chính khách “salon” hoặc đối lập, công chức mới tập sự hay đã là loại thượng hạng ngoại hạng, lính quèn và tướng trẻ tướng già, cả thầy tu và mấy ông Tây già còn sót của thời thuộc địa, không có quán nào dành riêng cho một hạng người nào. Chỉ có hạng người nào đó chọn cái ambiance của quán cho riêng mình, hoặc do bầu bạn cùng ngồi, lâu dần, tự dưng có một ambiance riêng.
Như La Pagode nay là trung tâm điều hành du lịch ở góc Catinat – Lê Thánh Tôn. Không biết tự bao giờ, là nơi hò hẹn, bù khú của giới văn nghệ sĩ và trí thức đủ mọi lứa tuổi và cấp độ. Quán thoáng rộng, mà không sáng lắm, tường lửng cỡ nửa thân người, mở toang ra khung cảnh phố xá, vỉa hè mà vẫn là một thế giới riêng, về sau mới lắp cửa kính, máy lạnh. Có một quầy rượu không ồn ào. Bàn, ghế bọc nệm màu nâu sậm, có tay vịn, cao hơn ghế salon nhưng thấp hơn ghế thường. Có thể ngồi ở tư thế duỗi thẳng chân, tay tựa lên thành ghế đầu ngả đúng vào thành dựa, úp một tờ báo lên đầu và lơ mơ ngủ trưa bên ly cà phê đã cạn. Những anh bồi lớn tuổi, đồng phục trắng, nơ đen, đa số là người Tàu sành sỏi tiếng Việt và tiếng Pháp… Tất cả đều lịch sự, ít lời nhưng nhiều chăm sóc, rất nhẹ nhàng đi lại như sợ phá những phút ngủ trưa của ông khách nọ.
Thời buổi trào lưu triết học hiện sinh, triết lý nhập cuộc, của văn chương viễn mơ và văn nghệ dấn thân… cũng thổi vào quán những cuộc tranh cãi, bàn luận; dù rất nghiêm túc hay lập dị ngạo mạn thì cũng đều biết tôn trọng cái ambiance của quán: sự điềm đạm lịch lãm. Cả những em bé đánh giày cũng chẳng dám kèo nài, mè nheo; có em chẳng biết học được từ đâu, còn biết nghiêng đầu chào khách kèm theo một tiếng “cảm ơn” nhỏ nhẹ.
Buổi sáng không khí trong lành, phố chưa nhộn nhịp; buổi chiều hơi oi, người đi lại vội vã hơn nhưng không xô bồ – những thời khắc ấy ngồi La Pagode bên cốc cà phê hoặc cốc rượu nhẹ, ngắm người, ngắm ta, dễ cảm được cái thú của dolce vita cuộc đời êm dịu, dù cách đó không xa, đang có một cuộc xuống đường của sinh viên học sinh trong khói lựu đạn cay mù mịt. Ai đặt tên quán là La Pagode (cái chùa) để có những giây phút quán bỗng trầm mặc, thanh lịch đáng yêu làm sao!





Bước ra khỏi “chùa” vài bước, có thể vào hiệu sách Albert Portail bề thế, sang trọng với đủ loại sách báo nhập từ phương Tây và rất cập nhật. Nhưng đi tiếp về phía góc đường Lê Lợi, ta có thể vào một quán khác hẳn: Givral, máy lạnh, cửa kính sáng choang và lố nhố nhà báo Tây, ta cùng các vị dân biểu, chính khách… Một cửa nhỏ mở ra đường Đồng Khởi sẵn sàng bán bánh ngọt Givral nổi tiếng cho khách qua đường. Xéo bên kia là Hạ nghị viện nay là Nhà hát TP và Trung tâm quốc gia báo chí.
Quán mát lạnh nhưng tin tức thì đầy tràn và nóng hổi, sôi sục như bia bọt. Thường thì sau 9 giờ sáng (dân Sài Gòn ngủ muộn) quán mới bắt đầu có khách, tới tận khuya. Khách thuộc loại tinh ý, nhạy cảm đặc biệt. Chỉ cần một, hai ông dân biểu xuất hiện ở tiền đình Quốc hội với vẻ hơi bất thường, chỉ cần một, hai sinh viên ở đâu chạy ào tới, tức tốc căng lên một băng rôn… lập tức các vị khách túa ra ngay, máy ảnh chớp lia lịa. Và chỉ một vài phút sau, cả khu vực sôi sục một cuộc hội thảo, mít tinh, biểu tình, xuống đường rầm rộ, chớp nhoáng hoặc dằng dai…
Thức ăn Tây, ta, bia, rượu, cà phê, bánh ngọt… đều không có gì đáng nói. Chỉ có tin và tin: trong nước, ngoài nước, chính trường và hậu trường, tăng quân hay giảm, rút quân; tăng hay cúp viện trợ, chiến tranh hay hòa bình… là các thứ gia vị thay đổi không ngừng cho một đĩa súp hay cốc bia mà thôi. “Radio Catinat” trú đóng ở khu vực này có lẽ suốt từ cuộc chiến với Pháp tới năm 1975. Các nhà báo nước ngoài từng ở Sài Gòn theo dõi hai cuộc chiến tranh dai dẳng, có lẽ trong các hồi ký của họ sau này, không thể không nhắc tới Givral.
Quay ra mặt phố
Có thể quán cũng là một thành phần trong cái kho tàng văn hóa vô cùng phong phú của người Pháp; cho nên từ La Pagode, Givral tiếp tục đi xuống phía sông Sài Gòn, lại gặp một quán nữa cũng đầy chất Pháp: Brodard. Café-crème và bánh ngọt, các món ăn Tây – ta và rượu, cùng cách bài trí, tác phong phục vụ ngấm ngầm một phong cách Tây, không quí phái cũng không bình dân. Khách ở đây, trẻ thì học sinh sinh viên trường Tây, lớn tuổi hơn thì đủ hạng nhạc sĩ, nhạc công, vũ nữ, thương gia…


 Chuyện trò ở đây, thuộc loại sống sít, hồn nhiên như đời sống; là mọi chuyện đời, chuyện tếu, chuyện đùa, chuyện làm ăn chơi bời. Một cái quán ở đó người ta dễ làm quen và bắt chuyện với nhau, có lẽ từ cái gout chung: ghiền quán! Cũng là một quán để ngồi ngắm phố qua cửa kính; nhưng để vừa ăn sáng vừa hẹn hò, vừa ăn trưa vừa bàn công việc thì đây là một nơi có ambiance dễ chịu nhất.
Ngồi quán ngắm phố có lẽ cũng là một trong những thú vui tao nhã của đời sống đô thị những năm ấy. Kem Bạch Đằng, góc Lê Lợi – Pasteur đông nhất vẫn là các cô cậu học sinh, thanh niên. Quán liền với vỉa hè, gần như không có cửa, nên đang đi có thể tạt vào quán dễ dàng, ngồi nhâm nhi cốc kem, ly nước ngắm dòng xe từ Pasteur, Lê Lợi tuôn lên, dòng người nườm nượp trên vỉa hè Lê Lợi. Lại đi về hướng chợ Bến Thành, người thích lai rai nhấm nháp cũng có ghé Thanh Thế, cũng lại là một kiểu quán mở ra cả hai góc đường Nguyễn Trung Trực – Lê Lợi. Nơi đây thường là chốn tụ hội của dân phát hành báo, nghệ sĩ cải lương, dân áp phe và cả dân sành nhậu. Thức ăn ngon vừa phải, ăn no cũng được mà làm “mồi” cũng bắt. Khách dễ tính, vui vẻ, cười to nói lớn thoải mái vì xem ra ít nhiều đều thuộc giới giang hồ quen mặt.
Khu trung tâm Sài Gòn đâu chỉ bấy nhiêu quán; nhưng chỉ bấy nhiêu quán cũng đủ phô bày cái phong cách nhiệt đới rất độc đáo của quán Sài Gòn, có thể gọi đó là quán mở. Mở ra hè phố, đón nắng gió chói chang, cùng mọi thứ tiếng động và cơ man dáng hình của người đô thị; mở ra những con đường, những chọn lựa…
“Thế hệ” ngồi quán Sài Gòn buổi ấy có người từ La Pagode, Givral, Brodard hoặc từ Bạch Đằng, Thanh Thế, bước một bước ra đường, đối diện với bao phân vân chọn lựa giữa bão tố thời cuộc rồi không biết đi đâu về đâu. Có người ngồi lì ở góc quán, ôm mãi cái thân phận và những mảnh đời phiêu lãng của mình. Có người rời quán nhập vào dòng lịch sử cuồn cuộn tử sinh…
Quán của cái ambiance xưa – cũng là một “hương vị” của văn hóa Sài Gòn như một trang sử đời sống đã trẩy xa quá rồi. Nhưng mà những thế hệ sau của Sài Gòn ngồi quán, lẽ nào không còn có nữa?
                                                           Võ Ngàn Sông
Đăng lại từ bài viết “Quán của một thời” đăng trênForum.trungtamasia.com
                                                        https://trithucvn.net

  Tết Sài Gòn trăm năm trước ra sao?   Biết những gì xảy ra trong quá khứ xa xưa dường như là mơ ước muôn đời của con người. Bởi trong c...