Tôi xin giới thiệu bài viết
của Jehan CENDRIEUX về vấn đề nước ở Nam Kỳ cho thấy vấn đề này được người Pháp
rất quan tâm khi chiếm vùng đất này và cũng để chúng ta nhìn nhận lại vai trò của
chủ nghĩa thực dân trên các đất nước mà nó đã chiếm đóng. Tôi đồng ý là chủ
nghĩa thực dân đã mang lại máu, nước mắt và mất tồ quốc cho các dân tộc thuộc địa
nhưng vấn đề đó chỉ là thời gian ngắn, tạm thời trong toàn bộ lịch sử của các
dân tộc đó nhưng cái vai trò tích cực mà nó mang lại cho các dân tộc Châu Phi
và Châu Á là khoa học, kỹ thuật cùng các tiến bộ về mặt xã hội khác giúp các
dân tộc này thoát khỏi đêm dài của sự lạc hậu.
CUỘC ĐẠI ĐIỀU TRA VỀ THUỘC
ĐỊA
VẤN ĐỀ NƯỚC Ở NAM KỲ
Jehan CENDRIEUX
Nước, khởi điểm của sự thịnh vượng.
Sự hiểu biết của người xưa
và hiện đại đã sắp xếp câu châm ngôn này trong số những sự thật đầu tiên mà họ
thừa nhận hay bảo tồn. Thật không vô ích ngay cả khi gợi lên dựa vào luận đề của
tôi khi nhận ra những ký ức nhất định: cảnh tượng của vùng đồng bằng sa mạc của
Mesopotamie, nơi Semiramis, nhờ có nước, đã tạo ra thảm thực vật tuyệt vời và
thịnh vượng cho mùa xuân và hướng tới cuộc sống hàng thế kỷ trước Thiên chúa
giáng sinh, nay đột nhiên bị tước đoạt chất lỏng quý giá này và trở thành hiện
trạng như nay tôi đã thấy. Tầm nhìn của nước Palestine về một cái chết khát, của
Liban trở thành vùng đá cằn cổi vì tình yêu quá lớn được bày tỏ công khai bởi
vua Hiram xứ Tyr, bởi vua Salomon đối với các vị thần Ai Cập khi chặt những cây
thông bá hương cùng những tinh dầu hiếm; chính vì vậy nạn phá rừng đôi khi mang
lại kết quả cực kỳ khủng khiếp.
Nước, khởi điểm của sự sống.
Ở miền nhiệt đới, thì tiền đề này phải đòi hỏi
là sự quang trọng hóa.
Đi vào vấn đề thiết yếu này,
vời một cảm giác là tôi tin sẽ được chia sẻ bởi các độc giả tờ Le Monde
colonial illustré ở Pháp nếu có dịp đi qua miền Nam Đông Dương.
Tuy nhiên, những điều này sẽ
không ngạc nhiên khi "vấn đề về nước" được đặt ra ở Nam Kỳ.
Họ sẽ thực sự nhớ lại trước
mắt họ rất nhiều hình ảnh của những chặng dừng chân hay những chuyến du ngoạn
được lan tỏa ra và những bức tranh toàn cảnh trải dài theo ký ức của họ.
Nam Kỳ với những thành phố
nóng ẩm, những khu rừng xào xạc dưới làn gió mùa ẩm ướt của những cây đước như
những cánh quạt mênh mông đung đưa bất tận!
Nam Kỳ nơi mà tất cả đều rỉ nước
và đẩm mồ hôi; những bức tường xanh lá cây của những ngôi nhà, vang lên âm
thanh hai tiếng của loài cóc, sự phát triển nấm mốc màu xanh trên da của những
chiếc ủng hay những chiếc va li chỉ sau vài giờ.
Nam Kỳ được thấm trong nước,
Những cánh đồng màu mỡ, những đàn trâu nằm bất động như những gốc cây ngâm thỏa
thích trong bùn; những người nông dân ở trần đang cày bừa trên mảnh đất đầy bùn
như thế đang cố gắng đào những rãnh nước trong một đại dương rộng bao la vô tận.
Nam Kỳ với những sông cái,
sông nhỏ, rạch đan chéo, đan xen, phụ thuộc lẫn nhau. Nguồn nước bao la đổ ra cửa
sông như một dãy kim loại sống động ôm chặt như giam cầm mọi thứ đến giới hạn của
những chân trời tận cùng.
Nam Kỳ, đất nước được tưới
tiêu mặc sức, no nê bởi nguồn nước dưới đất và trên trời, đắm chìm; người ta có
thể dùng nhiều thức uống, uống bao nhiêu cũng được dù dưới sự đe dọa của ánh mặt
trời nhiệt đới.
Một "vấn đề về nước ,,,
là đó? Vậy thì bắt đầu! Thốt lên một cách sẳn lòng của những kẻ ngoại cuộc.
Điều này lạ lùng vì hình như
nó xuất hiện ở mọi nơi, trong phòng thí nghiệm, nhà máy, các văn phòng thống
kê, trừ giữa bầu không khí của những bụi cây mà người nghiên cứu sẽ bắt gặp sự
thật.
Bản đồ tổng quát xứ Nam Kỳ cho thấy những nơi cung cấp nước
và những nơi sắp sửa lắp đặt trong tương lai.
Vào đầu bài nghiên cứu này,
trong khung cảnh Đông Dương nói chung và Nam Kỳ nói riêng, để hợp pháp hóa cho
sự phán đoán hơn là ghi lại một bằng chứng đơn giản.
Tất cả các loại nước này, từ
loại sông cái và sông con, các con suối, những ao đầm không trong sạch, đó là
phương tiện chuyên chở các loại vi khuẩn chuyên sống trong nước; con người
không thể thích nghi nếu không muốn bị phơi nhiểm bản thân trước sự tấn công của
các loại bệnh: dịch hạch, dịch tả, kiết lỵ.
Việc tiêu thụ loại nước này
cho dù vô trùng đi nữa sẽ không có lợi ích gì cho cơ thể ở người và động vật dưới
bất kỳ hình thức nào: Sự vắng bóng của đá vôi trong đất và dưới lòng đất Đông
Dương được xem như là tuyệt đối. Do đó, nhìn vẻ bề ngoài, sự nhỏ bé của dân tộc
An Nam, không vạm vở, tuổi thọ kém, hình dạng như loài động vật.
Mặt khác, ở vùng nông thôn, tại
rất nhiều nơi của Nam Kỳ, nước sạch là hoàn toàn thiếu như chúng ta sẽ thấy
trong việc kiểm tra tình hình của các tỉnh từ trên nhận xét này. Các vùng bị ngập
một phần lớn trong năm bởi nước lợ, hoặc đất được ngâm tẩm phèn quá cao đến nỗi
sẽ nguy hiểm khi tiêu thụ nước giếng.
Các bồn chứa không đủ để cung
cấp cho toàn dân cư. Đối với chăn nuôi, có hàng ngàn con bò biến mất mỗi năm,
vì thiếu thức uống hoặc thức uống lành mạnh.
Cuối cùng, nước, dù được
khai thác bất cứ nơi nào trong Nam Kỳ đều không thích hợp cho tiêu thụ trực tiếp
và không có tính chất dinh dưỡng.
Đây là lời mở đầu phải đầy
tính hợp lý để bắt đầu công việc liên quan đến nước cùa vùng Đông Dương, của những
quốc gia khác nằm trong Liên hiệp có vấn
đề gần gủi về nước như Nam Kỳ đối với chất lượng nước uống.
"Vấn đề về nước uống",
như chúng ta thấy, có tầm cực kỳ quan trọng ở miền Nam. Sự cần thiết phải có giải
pháp quyết định dứt khoát đúng thời điểm của các kỹ thuật viên.
Sơ đồ các máy gạn, lọc để làm sạch nước từ sông Sái Gòn
VẤN ĐỀ CHẤT LƯỢNG
Đương nhiên là các thành phố
lón sẽ được quan tâm đầu tiên: Sài Gòn và Chợ Lớn, ngày nay (Năm 1929) có hơn 320 000 cư dân (năm
1900, chỉ có 150 000 người).
Đầu năm 1896, đã phát hiện ra một tầng ngậm nước
ngầm, đã được xây dựng, ở trung tâm thành phố, một công trình lắp đặt đầu tiên
trong năm đó, phân phối 5.000 mét khối nước cho 45.000 cư dân. 30 giếng nước
cung cấp cho Sài Gòn, năm 1908 có thêm 12 giếng nữa.
Chợ Lớn, trong cùng thời gian, cũng được cung
cấp nước nhưng tỷ lệ không đáng kể. Năm 1898, 26 giếng khoan được khoan cho đến
năm 1909, là năm mà 10 giếng khác được mở.
Năm 1923, lượng nước cung cấp cho hai thành phố
hoàn toàn không đủ. Sài Gòn chỉ nhận được 12.000 mét khối nước trên 100.000
dân; Chợ Lớn, chỉ 6.000 mét khối cho 140.000 cư dân.
Tình trạng như vậy có thể
kéo dài; Trong khi chờ hoàn thành các dự án cấp nước được thành lập bởi Công
trình công cộng và công ty nhượng quyền, một nguồn nước mới đã được lắp đặt.
Năm 1928, 26.000 mét khối nước được phân phối hàng ngày đến Sài Gòn và Chợ Lớn
trong mùa khô (tháng 11 đến tháng 3), 32.000 trong mùa mưa, có nghĩa là, cho Sài
Gòn, 150 lít / ngày / người, cho Chợ Lớn 70 lít.
Đây là, tất nhiên, chỉ có một
giải pháp chờ đợi, một mặt số lượng nước được phân phối, cho một thành phố thuộc
địa, thấp hơn nhiều so với nhu cầu tối thiểu; mặt khác, dân số của hai thành phố
lớn đang phát triển nhanh chóng mỗi năm.
Giải pháp chờ đợi, do đó.
Và các kỹ sư thủy lực của Bộ
Công trình công cộng đưa vào nghiên cứu vào năm 1923, sau khi từ bỏ dự án đầu
tiên bổ sung nước từ Đồng Nai, dự án "Sông Bé", mà sau đó phải bị bỏ,
vì giá thành tăng cao của công trình và những khó khăn kỹ thuật gặp phải trong
nghiên cứu. Nó bao gồm việc bắt dòng Sông Bé ở thượng lưu từ thác Trị An và đưa
chúng qua một kênh mở dài 48 km đến một trạm lọc gần Thủ Đúc, từ đó chúng được
quay trở lại Sài Gòn và Cholon trong những đường dẫn tăng lực. Chương trình bao
gồm một số giai đoạn 60.000 mét khối đầu tiên trong số đó sẽ có chi phí 12 triệu
piastres, hoặc 145 triệu franc. Việc hoàn thành các giai đoạn khác dẫn đến chi phí
27 triệu piastres cho 240.000 mét khối nước.
Dự án công trình công cộng gần
đây nhất, mà lần này liên quan đến sông Sài Gòn, là bắt nguồn nước của nhánh
sông Đồng Nai cách 20 km thượng nguồn Thủ Dầu Một và đưa về một con kênh mở dài
44 km tới cửa Sài Gòn và Chợ Lớn.
Các nghiên cứu khác nhau được
thực hiện bởi Công trình công cộng cho thấy những nổ lực đáng kể. Tuy nhiên, họ
cũng mắc phải lổi từ các quan điểm khác nhau. Bản thân các dự án này không thể
thực hiện được do sự bất tiện nghiêm trọng của nguồn cung cấp từ kênh mở, vốn bị
cấm ở châu Âu trong việc cung cấp nước dùng cho mục đích công cộng.
Để chứng minh cho luận án
này, quan sát cho thấy: Con kênh cung cấp sẽ vượt qua các khu vực dưới mực nước
lợ. Điều này làm các chất muối sẽ xâm nhập làm thay đổi các đặc tính hóa học của
nước, các tạp chất vô số sẽ được thêm vào trong hành trình 44 km này được bao
phủ với tốc độ 1500 mét mỗi giờ. Có nghĩa là rất chậm.
Giải pháp này không hòan hảo
thậm chí không thể chấp nhận được. Nhất là trong trường hợp rối loạn, nước rất
dể dàng bị ô nhiễm, thậm chí bị nhiễm độc.
Vì những lý do này, và vì nguyên
do của một số thứ tự khác quan trọng - chúng ta sẽ kiểm tra sau này - có vẻ như
hai dự án hiện đang được đệ trình, một dự án do Sở Công trình công cộng, một do
công ty nhượng quyền cung cấp nước và điện, cả hai dự định cung cấp cho thành
phố Sài Gòn và Chợ Lớn nước sinh hoạt lấy từ sông Sài Gòn mà quyền khai thác dường
như được phê duyệt. Quyết định được thi hành, một ủy ban đặc biệt tại thời điểm
đó, hoàn thành việc kiểm tra các tài liệu này và đưa ra lựa chọn một hiểu biết
tốt về lợi ích chung.
Dự án của công ty tư nhân,
đã thu hút sự chú ý của chúng tôi khi được biết về nó, mang lại những lợi thế
không thể chối cãi: đó là đưa nước bằng cách nén trong đường ống áp lực; để cung
cấp, ở giai đoạn đầu, 100.000 mét khối; và sau hết, để cải thiện chất lượng nước
bằng cách biến đổi hóa học bằng một hoạt động cùng lúc khử trùng nước và tăng
chất lượng theo chuẩn thực phẩm.
Các đặc điểm của kế hoạch
như sau:
Nước sẽ lấy từ sông Sài Gòn,
cách thành phố 40 km về phía thượng lưu. Trạm bơm sẽ được lắp đặt nơi nó hoạt động
kép mà tôi đã nói ở trên; và trong vùng lân cận, nhà máy áp lực nối với Sài Gòn
bằng một đường ống cung cấp có khả năng xả 200.000 mét khối trên hai mươi bốn
giờ.
Ba giai đoạn được lên kế hoạch.
Đầu tiên, 100.000 mét khối
(280 lít mỗi ngày và bình quân mỗi đầu người), khả thi trong hai năm, sẽ cung cấp
cho Sài Gòn và Chợ Lớn, trong điều kiện thỏa đáng, cho đến năm 1945 hoặc 1950.
Thứ hai, 150.000
mét khối, cho đến khoảng năm 1965.
Thứ ba, 200.000
mét khối, cho đến khoảng 1980 - 1985. Bước cuối cùng này tương ứng với việc
cung cấp 280 lít mỗi ngày cho 710 000 cư dân, hoặc 200 lít đến một triệu dân.
Với dự án này, việc
cung cấp nước cho Sài Gòn và Chợ Lớn sẽ được đảm bảo trong điều kiện tốt tính
trên quan điểm về số lượng.
Tôi vẫn phải nghiên cứu vấn
đề chất lượng nước, điều đáng được xem xét như một việc rất quan trọng.
Thiết bị thử nghiệm về việc lọc nước so6nng Sài Gòn và dẫn về nhà máy. Mục đích làm tăng chất lượng nước bằng cách thay đổi hóa học trong quy trình cùng lúc với việc tinh lọc và làm giàu theo tiêu chuẩn thực phẩm. Những cuộc thử nghiệm này kéo dài năm tháng và đưa đến hiệu quả bảo đảm cho quy trình nói trên. Kết quả được chứng nhận tại các phòng thí nghiệm.
VẤN ĐỀ CHẤT LƯỢNG
Thoạt đầu, một câu hỏi được
đặt ra, dứt khoát, để làm giảm sự độc hại (sự an toàn) của nước phân phối trong
các khu đô thị. Câu trả lời đương nhiên không cãi được: Người ta nhận ra nó bằng
cách đọc kết quả phân tích được thực hiện bởi Viện Pasteur.
Nước thô được bơm bởi các trạm phục vụ Sài
Gòn: 250 đến 700 khuẩn coli mỗi lít. Nước này rất nguy hiểm. Nước thô được bơm
bởi các trạm phục vụ Chợ Lớn: 500-4000 khuẩn coli mỗi lít. Nước này cũng rất
nguy hiểm.
Thử nghiệm khử trùng được tiến
hành ở Bà Rịa. Họ đã chứng minh hiệu quả đáng chú ý của quá trình Dienert, được
gọi là javellisante, được áp dụng ở hầu hết các thành phố lớn của Pháp, trong
đó việc đưa vào trong nước một liều thấp hypochlorite, tùy với mức độ ô nhiễm của
chất lỏng được xử lý.
Các kết quả thu được kết luận.
Vào năm 1926, Sài Gòn và Chợ Lớn đã lắp đặt “javellisante ", và vẫn hoạt động
ngày nay. 26.000 mét khối nước được tiêu thụ bởi các thành phố được tiệt trùng
nghiêm ngặt, các phân tích được thực hiện tại phòng thí nghiệm theo dõi nước của
Viện Pasteur cho thấy: E. coli sau khi xử lý: không.
Một sự cải thiện rõ rệt
trong các điều kiện y tế công cộng cho thấy: các trường hợp bệnh tả được theo
dõi vào năm 1927 chỉ giới hạn ở ngoại vi thành phố, nơi mà dân số vẫn thiếu nước
clo.
Do đó, sự an toàn của nước uống đã được thực
hiện.
Chất lượng hóa học vẫn giữ nguyên; nước không
có đặc tính dinh dưỡng.
Chúng ta hãy nhìn vào hậu quả của tình huống tự
nhiên này.
SỰ NGHÈO NÀN CHẤT VÔI Ở NAM KỲ
Rất nhiều tác phẩm đã được
các nhà khoa học nổi tiếng viết, với mục tiêu là nghiên cứu về cấu tạo hóa học
của nước mà chúng ta uống hoặc chúng ta có thể uống, tìm kiếm đặc điểm của các
vùng nước và cuối cùng là kiểm tra các phương tiện sẵn có cho việc khắc phục
các khiếm khuyết vốn có của nước được tìm thấy: tính chất ăn mòn (tính acid), điểm
yếu của mức độ thủy học (thể hiện hàm lượng chất khoáng trong nước) và điểm yếu
cực điểm của tỷ lệ vôi.
Nghiên cứu đã được xuất bản
về chủ đề này bởi MM. Meillère, Bréaudat, Brau, Féraud và Saint-Cernin, Hénaff,
Bunel và Dupouy, Lahille và Guillerm, các nhà hóa học và bác sĩ, và chúng ta
không thể làm gì tốt hơn là dựa vào các tài liệu này.
Sự nghèo nàn về chất vôi của
vùng thuộc địa đã được biết đến từ nhiều năm qua.
Đối với Nam Kỳ, trữ lượng đá
vôi rất hiếm, số lượng không đáng kể tại Hà Tiên. Một nguồn nước có chứa một số
lượng đáng kể vôi cũng tồn tại, không xa Cap Saint-Jacques (Vũng Tàu). Bác sĩ Lahille đã báo hiệu cho chính quyền khả năng sử
dụng nguồn nước này để dành cho trẻ con, thiếu niên và cho bệnh nhân cư trú tại
Cap Saint-Jacques; nhưng dòng chảy hàng ngày hầu như không vượt quá 2 mét khối:
"thậm chí không đủ” như lời một kỹ thuật viên, của một cơ sở đóng chai.
Do đó chúng ta có thể xem
xét sự thiếu hụt đá vôi của Nam Kỳ là tuyệt đối.
Sự cần thiết để vôi hóa cơ
thể con người ở đất nước này không thể được thỏa mãn; sự nghèo nàn của nước mà
vôi thể hiện ở dạng đồng nhất nhất tương ứng với sự nghèo nàn của đất và tầng đất
dưới đất và hậu quả là sự nghèo nàn của các loại thực vật trong đá vôi.
Các nhà hóa học đã thừa nhận
dựa theo các con số đã trích dẫn. Năm 1896, ông Meillère, giám đốc công trình
hóa học tại Học viện Y khoa, kết luận, sau khi phân tích mẫu nước từ Sài Gòn:
nước được kiểm tra hầu như không chứa muối cố định. Hàm lượng khoáng chất của
nó là 0gr, 0625, có thể nói, năm lần ít hơn so với nguồn nước phân bố ở Paris.
"Ở vùng khí hậu ôn đới,
lượng nước cần cho một người lớn, cả để nấu ăn và chuẩn bị thức ăn (thịt, nước
sốt, rau, súp, bánh mì, bánh ngọt, vv) nếu là thức uống (nước trong bàn, cà
phê, trà, bia, nước chanh, vv) chắc chắn không ít hơn 21,75 một ngày. Ở các nước
nóng, có thể thừa nhận rằng lượng nước tiêu thụ hàng ngày là trung bình 31,25.
Chỉ riêng nước, chế độ dinh dưỡng hàng ngày tại các nước thuộc địa sẽ thiếu hụt
từ 35 đến 38 centigam carbonat calci.
Vôi đóng một vai trò quan trọng
trong cơ thể; nó là nền tảng cơ bản của hệ thống xương, nhưng nó cũng là một yếu
tố không thể thiếu trong cuộc sống của các tế bào, trong hoạt động của các tuyến,
vân vân. Tất cả các bộ phận của cơ thể, đến móng tay và tóc, ít nhiều bị
"ngâm tẩm"
Hầu hết các nhà sinh lý học
đều đồng ý tính hữu ích trong thực phẩm có muối của vôi, đặc biệt là cacbonat, ở
liều đáng kể.
Nam Kỳ lại thảm hại về chất
vôi; một cuộc kiểm tra, thậm chí nhanh chóng, kết quả rõ ràng sẽ cho chúng ta
thấy tất cả sự quan tâm trong việc giải quyết các vấn đề khó khăn của việc mất
chất vôi đối với ngưới Đông Dương cũng như người Châu Âu.
MỘT VÀI HỆ QUẢ ĐẶC TRƯNG
Tác giả là người đã nghiên cứu
nhiều về vai trò của muối calci trong thực phẩm, ông A. Gautier, đã xác định rằng
"sự hiện diện của vôi trong nước uống không chỉ hữu ích, mà là không thể
thiếu. Nó là khái niệm về nước. Chất nuôi dưỡng, các loại muối “tạo hình” trong
nước cần thiết cho sự cấu tạo và sức sống của các mô của chúng ta, vì khẩu phần
thức ăn trung bình, ngay cả ở các nước có vôi, nói chung không đủ về mặt này.
Theo thời gian, vài tác giả
nhớ lại vai trò có lợi của vôi trong chế độ ăn uống. Ví dụ, Berthier, bác sĩ
thanh tra của quân đội, gần đây đã ủng hộ việc sử dụng xương mềm, xốp. Ông nhấn
mạnh vào thời điểm này "rằng trong xương, có một phần có thể được sử dụng
cho thực phẩm và thậm chí tăng cường hơn nữa sự đề kháng của tế bào của chúng ta
chống lại bệnh tật, và đặc biệt là chống lại bệnh lao”.
Hậu quả rất nghiêm trọng: bệnh
lao trong số người bản xứ mắc phải do sự thiếu vắng hấp thu chất vôi. Bác sĩ Berthier
kết luận như sau:
"Cuối cùng, ngày nay, bệnh
lao là một trong những mối quan tâm quang trọng đối với chúng ta, thực phẩm
xương có giá trị như một yếu tố chữa bệnh lao, rằng nó có thể được sử dụng theo
thời gian như một thực phẩm để phòng ngừa chống lại căn bệnh này. Sự dị hóa mạnh
mẽ của tế bào giúp cho bệnh lao phát triễn và sâu răng là phổ biến ở bệnh nhân
lao vì chúng đã bị mất chất vôi.
Không thể phủ nhận rằng vôi là tác nhân chính trong cuộc
chiến chống bệnh lao.
Đối với nha khoa, bác sĩ Berthier rất quan tâm đến lý do, có thể nói rằng
nó thường bị thiếu sót ở các thuộc địa. Các nha sĩ thực hành ở Nam Kỳ rất ngạc
nhiên về tỷ lệ sâu răng và nứt răng. Sâu răng phổ biến không chỉ với răng vĩnh
viễn ở thanh thiếu niên và người lớn, mà còn trong số các răng sữa của trẻ em.
Nước ở Nam Kỳ, vì
những lý do địa chất đã được đề cập, thậm chí không có nỗi 1 centigam cacbonat calci
mỗi lít.
Thiếu chất vôi
trong nước uống và sự bổ sung cho sự thiếu hụt của thực vật có chất vôi, do đó,
cuối cùng khẩu phần hàng ngày là rất thiếu so với những gì các nước châu Âu. Thâm
hụt như vậy, có thể từ 130 đến 145 gram trong cacbonat calci một năm, đối với
người lớn, chắc chắn gây ra các rối loạn dinh dưỡng được quy là do khí hậu và chưa
ai lường trước được nguyên nhân thực sự; ở trẻ em và thanh thiếu niên, nó có thể
gây trở ngại đáng kể cho sự phát triển của bộ xương nếu nó không được bù đắp bằng
sự hấp thụ một loại thực phẩm giàu vôi như sữa, các chế phẩm làm từ vôi hoặc nước
khoáng calci.
Và bác sĩ Lahille đưa ra quan sát thú vị sau
đây: Sự thiếu hụt vôi không chỉ ở bộ xương; rất có thể đó là một trong những
nguyên nhân chính gây mệt mỏi, sự khó chịu của nhiều trẻ em và thanh thiếu niên
da trắng sống trong các thuộc địa.
Người
ta biết rằng người An Nam nhỏ bé. Chúng ta cũng biết rằng họ không sử dụng sữa,
không dùng thuốc tăng lực, hoặc nước khoáng. Ai có thể lập luận rằng sự nhỏ bé
về kích thước của họ, cùng sự phát triển yếu của cơ thể của họ có trùng khớp
chính xác với tình trạng thiếu vôi trong chế độ ăn uống?
Điều
này cũng tương tự đối với gia súc, chẳng hạn như ngựa và bò, ở Nam Kỳ có tỷ lệ
rất nhỏ con.
Nếu
chúng ta quan sát gia súc như gà, chúng ta thấy rằng chúng nhỏ thó. Trứng của
chúng có liên quan đến kích thước. Như vậy, trọng lượng trung bình của trứng
gà, ở Nam Kỳ, là 35 gram, 50 trong khi trọng lượng của trứng ở Pháp là từ 40 đến
75 gram, tức trung bình 58 gram.
Giả
thuyết chúng tôi đã trình bày về sự nhỏ bé của người An Nam có vẻ thật và đáng
được lưu ý. Phải thừa nhận rằng, sẽ là tốt hơn để hỗ trợ họ trên thử nghiệm trực
tiếp; nhưng các thí nghiệm trong nhiều năm, được dành cho việc quan sát sự tiến
hóa sinh lý của giới trẻ An Nam và của động vật trẻ có chế độ ăn đặc biệt, so sánh
với các đối tượng tương tự khác, được nuôi dưỡng trong điều kiện tồn tại bình
thường, rất khó để nói rằng không thể thực hiện các thí nghiệm vì thời gian ở
các thuộc địa bị giới hạn.
Những
giải pháp cho tình trạng như vậy trở nên bình thường trong hàng ngàn năm, không
nghi ngờ gì, các giải pháp này rất to tát và chúng có thể thực hiện được hoặc
không.
Việc
sửa sai lầm của thiên nhiên sẽ đòi hỏi những nỗ lực siêu phàm.
Tuy
nhiên, sự điều chỉnh này là bắt buộc, cái khó khăn có nguyên nhân sâu xa, tức là
thường kỳ, các hiệu quả thường gây kinh ngạc, cho dù chúng ta xem xét câu hỏi từ
quan điểm của người bản xứ hoặc quan điểm của Pháp, theo suy nghỉ của đoạn cuối
về sự phát triển bình thường của thuộc địa Châu Âu của Nam Kỳ.
Bác
sĩ Lahille, người mà tôi đã mượn ý tưởng trong bài viết này, kết thúc nghiên cứu
của mình bằng cách đề xuất, sau khi nghiên cứu thời gian dài, các giải pháp thú
vị:
"Sự
thiếu hụt vôi thực phẩm ở Nam Kỳ và hầu hết các thuộc địa," ông nói, bây
giờ là một khó khăn được biết nhiều, cần phải tập trung để kiếm ra một giải
pháp. Biện pháp khắc phục này bao gồm: (1) đưa trực tiếp vôi, với tỷ lệ thích hợp,
vào chế độ ăn, dùng phân bón với tỷ lệ vôi thích hợp bón trong rau (ngũ cốc,
rau, quả) dùng cho mục đích thực phẩm; 2 ° bằng cách hấp thụ, liên tục, nước
khoáng có vôi.”
Những
đề xuất như vậy chỉ có thể được công nhận là hợp lý: các ứng dụng của các nhà
nghiên cứu rất khó khăn nếu chúng ta nghỉ về những cải cách liên quan đến trong
nhiều lĩnh vực, chưa được thực hiện.
Trong
số những giả thuyết này, có một, tuy nhiên, bởi vì nó dễ dàng đạt được hơn, đặc
biệt thu hút sự chú ý của các kỹ thuật viên và chính phủ: liên quan đến quá
trình khoáng hoá vôi của nước uống.
Bác
sĩ Lahille, người đã không thấy trước khả năng khoáng hóa hàng ngày hàng trăm
nghìn mét khối nước cho việc sử dụng của hai thành phố quan trọng, đã quan tâm
hướng dẫn các gia đình, các cộng đồng được ít nhiều quan tâm, sự dể dàng trong
việc tạo ra các cơ sở hoá vôi đặc biệt cho các nhóm này.
"Việc
khoáng hóa đá vôi của nước uống, trên thực tế, không phải là dễ dàng để đạt được
như người ta có thể nghĩ, bởi vì vấn đề là để tái tạo nhân tạo nước uống tự
nhiên có hàm lượng vôi vừa phải. Hầu hết các muối hòa tan của vôi, chẳng hạn
như clorua, nitrat, phốt phát, axit, sulfate, cũng như oxit canxi, phải được loại
bỏ. Muối duy nhất để khuyên dùng là cacbonat, vì nó không hòa tan, không vị và
dễ tiêu hóa. Cacbonat vôi được sử dụng sẽ là cacbonat tự nhiên hoặc phấn vôi
(phấn của Meudon hoặc Paris, lanc d'Espagne, vv) hoặc cacbonat vôi của các hiệu
thuốc. Các cacbonat kết tinh hoặc cô đặc (tinh thể Islande, đá cẩm thạch,
v.v..) dường như chúng quá ít có thể tham gia vào nước dùng.
Tôi không thể
hoàn thành tốt hơn bằng cách áp dụng ở đây kết luận của các bác sĩ nổi tiếng mà
tôi đã từ lâu vay mượn đắn đo. "Vôi là một chất khoáng mà các tế bào của
con người và động vật sử dụng tỷ lệ tương đối mạnh, đặc biệt là sự hình thành
và phát triển của khung xương. Chúng tôi đưa ra giả thuyết rằng nếu vôi được hấp
thụ với số lượng lớn hơn ở dạng đồng nhất ỏ người An Nam sẽ có khả năng tăng
kích thước và vạm vỏ của các cá thể của các thế hệ tương lai của dân tộc này. Chỉ
xem xét kết quả ngay lập tức, có thể nói rằng việc sử dụng đủ liều vôi sẽ chấm
dứt nhiều rối loạn dinh dưỡng thường được xác định không rõ ràng, và rằng nó sẽ
là một liệu pháp tuyệt vời cho cuộc chiến chống bệnh lao.
Các
quan sát trên áp dụng như nhau đối với gia súc.
Trong
các thuộc địa nào áp dụng những ghi nhận của quá trình nghiên cứu chắc chắn nhận
ra rằng sự thiếu hụt vôi ảnh hưởng đến trẻ em, thanh thiếu niên, đặc biệt, nhiều
hơn người bản địa hơn các cá thể có nguồn gốc từ các vùng có vôi (châu Âu).
"Vì
các rối loạn dinh dưỡng do thiếu hụt chế độ ăn uống này là rất chậm và các
phương thức thay đổi, nguyên nhân thực sự của chúng thường thoát khỏi cặp mắt của
nhũng nhà quan sát không sành sỏi và đôi khi được chung quy được xem là bệnh tật.
Lắp đặt đường ống 500mm dẫn nước về Sài Gòn từ giếng nước ở khu vực Gò Vấp cách 15km về thượng lưu của thành phố. Đường dẫn này có khả năng cung cấp 200.000 mét khối trong ngày. Nước sẽ được dẫn vào bồn chưa và sẽ được phân phối lại bằng các máy bơm.
GIẢI PHÁP ĐỀ XUẤT.
Như
có thể thấy từ các thông tin trên, vấn đề trình bày ba số liệu:
Nước
có tác dụng ăn mòn.
Không
có khả năng dinh dưỡng.
không
tinh khiết trong trạng thái thô.
Giải
pháp đề xuất phải áp dụng cho ba khiếm khuyết này cùng một lúc. Đây là những gì
dự án của công ty tư nhân cho phép thực hiện được.
Bằng
cách đưa vào nước dung dịch vôi và các thuốc thử thích hợp, - hoạt động sẽ được
thực hiện tại trạm bơm, trước khi nén, - người ta sẽ thu được – và ở chổ tính độc
đáo của phương pháp – một phản ứng hóa học bảo đảm: Sự kết tủa của vi sinh vật
và vi khuẩn, và chất lỏng được lọc; Sự gia tăng giá trị dinh dưỡng; Sự điều chỉnh
của sự an toàn. Việc sơ chế phải trải qua trước khi được phân phối, tiêu thụ đòi
hỏi một lượng lớn các cơ sở.
Các
cơ sở này sẽ được thiết lập tại cùng một điểm thu dẫn, có nghĩa, 4 km về phía
thượng nguồn Thủ Dầu Một, bên bờ phải của sông Sài Gòn. Bao gồm: các tòa nhà để
bơm nước thô và nước lọc, các công trình để sản xuất vôi để xử lý nước, các thành
phần lọc, bể chứa để làm khô bùn và các công trình phụ trợ cần thiết cho hoạt động
và bảo trì của nhà máy.
Trong
số các vấn đề khác nhau cần phải được giải quyết trong nghiên cứu, việc lọc và
cải thiện nước là đặc biệt quan trọng.
Để
tìm ra giải pháp tốt nhất, cần có nhiều xét nghiệm trong phòng thí nghiệm; đó
là sau khi các xét nghiệm này là sự lựa chọn của phương pháp được biết nhiều,
bao gồm trong đưa vào nước thô một số lượng nhất định của sữa vôi và sắt
perchloride, đã được dừng lại; phản ứng của các thuốc thử này nhanh chóng, hiệu
quả và đầy đủ.
Các
nhà máy xử lý nước bao gồm, tùy thuộc vào dòng chảy hàng ngày cần thiết, một số
nhóm lọc sơ cấp có công suất xử lý 100 m 3 / giờ mỗi nhóm.
Cái
nhìn tổng thể sau đây cho thấy tất cà thiết bị được chấp nhận. Trong mỗi giai
đoạn của dự án (tùy thuộc vào kích thước của dòng chảy), sẽ có một hoặc nhiều
nhóm cơ bản bổ sung cho phép vệ sinh định kỳ và phục vụ cho việc cấp cứu nếu xảy
ra.
Mỗi nhóm bao gồm: bộ trộn hóa chất, bộ lọc và
các bộ phận lọc.
Máy trộn hóa chất nhận nước thô và trộn với
các thuốc thử bằng các thiết bị đặc biệt.
Trong
hỗn hợp này, các chất kết tụ vật chất lơ lửng, các hạt keo biến đổi thành dạng
tinh thể, tạo điều kiện cho sự kết tủa, một mặt, chất kết tủa tạo ra bởi các
hydrat sắt phủ lên các vi sinh vật; các muối sắt oxy hóa chất hữu cơ, và cuối
cùng vôi sữa cố định một phần của acid carbonique tạo thành carbonate làm tăng
chất lượng của nước.
Từ
máy trộn hóa chất, nước đi qua bình lọc hoặc do kết quả của hành động kết hợp của
trọng lực và vận tốc dòng chảy thấp, sự gạn lọc xảy ra gần như hoàn toàn; nước
sau đó đi qua một bộ lọc lọc làm bằng đá lửa, nơi nó được loại bỏ hầu hết các hạt
mịn nó vẫn còn chứa sau khi lắng.
Cuối
cùng, việc xử lý kết thúc bằng việc lọc. Mỗi nhóm có hai hàng gồm 5 bộ lọc: mỗi
bộ lọc có mộ có diện tích lọc là 25 mét vuông. tốc độ lọc là 4 mét khối mỗi giờ
trên mỗi mét vuông. Tốc độ này tương đối thấp nếu có tính đến công việc của các
bộ lọc được giảm đáng kể do quá trình thiết kế.
Các
bộ lọc, trên thực tế, chỉ có nhiệm vụ là hoàn thiện việc lọc nước rất tiên tiến
trong hệ thống gạn và lọc.
Vật
liệu lọc sẽ bao gồm một số lớp chồng lên nhau với các kích cỡ khác nhau và một
lớp thạch anh mỏng cấu thành lớp lọc.
Bộ
lọc bao gồm các thành phần được cấp bằng sáng chế, cho phép dòng chảy hợp lý của
nước mà không sợ bị oxy hóa hoặc tắc nghẽn, và đảm bảo trong quá trình làm sạch
các thiết bị phân phối đồng đều và tinh khiết của nước lọc.
Các
thử nghiệm trong phòng thí nghiệm được tiến hành trong quá trình nghiên cứu xác
định việc xử lý nước phải trải qua trước khi được đưa đến người tiêu dùng; tuy
nhiên, các xét nghiệm này chỉ có thể được thực hiện trên một lượng nhỏ nước.
Nó
là điều cần thiết, khi nói đến các vấn đề quan trọng như chất lượng của nước cung
cấp cho các thành phố, càng gần càng tốt để khai thác trong tương lai; Với điều
này trong tâm trí, người ta đã thiết lập tại chỗ rất nơi nước sẽ được lấy một
nhà máy lọc và cải thiện nước.
Thiết
bị này làm giảm 1/100 một trong các nhóm bộ lọc sơ cấp đã được mô tả. Tốc độ gạn
và lọc chính xác như nhau trong khai thác dự kiến. Lưu lượng của thiết bị này là
1000 lít mỗi giờ, chảy liên tục nghiêm ngặt.
Các
kết quả xác nhận thu được trong phòng thí nghiệm; nước có chất lượng tuyệt vời;
các thử nghiệm này, đã được thực hiện trong gần năm tháng, cung cấp tất cả các
đảm bảo liên quan đến hiệu quả hoàn toàn trong ứng dụng công nghiệp của quy
trình được chấp nhận.
Phòng chứa các máy bơm đưa nước về Sài Gòn có công suất 50.000 mét khối giờ.
VẤN ĐỀ NƯỚC Ở CÁC TỈNH (ĐẶC BIỆT TẠI MIỀN TÂY)
Diện
mạo của miền Tây Nam Kỳ khác xa với miền Đông: Là một đồng bằng bao la, xẩm màu
trong mùa thu hoạch hay tương tự trước vụ cấy lúa nhu phân chia thành tấm gương
bất thường tuyệt vời.
Tôi
nhớ những cảnh tượng khác thường, Ở Rạch Giá, Châu đốc thủ phủ của sụ khát,
hình ảnh của sự phân phối nước của một vài sà lan vào buổi chiều.
Người
Hoa, có tay nghề cao trong việc điều động các tàu thuyền hạng nặng, đã đi về
phía bắc hai tuần trước để lấy nước trong hồ chứa của họ mà những người khốn khổ
“Nhà quê” thèm muốn hơn những kho báu của Golconde.
Tại
chổ giáp đầu tiên của con kênh và một con sông lớn, những người giao dịch da
vàng sự thèm khát này, kiên nhẫn đợi thủy triều xuống, và sau đó, rất nhanh
chóng, đổ đầy với những tiếng thét lệnh lạ lùng, những thùng chứa kêu vang khi
sang thùng mới như tiếng trống.
Sau
khi chứa đầy, be tàu nằm ngang với mặt nước con kênh, con thuyền, thắt chặt những
chiếc lu ồng ọc không một va chạm chứa chất lỏng quý báu, quay lại từ từ về các
xứ miệt dưới.
Con
đường dài; khá dài là dải nước phù sa và lợ mà con thuyền đi khắp và quay trở lại
nơi đó, nơi những cổ họng đang khát.
Không
sao! Những “những bá phụ Tàu” này có thời gian. Họ cặp tàu bất cứ nơi nào phù hợp
với họ.
Và
ngay sau đạt tới giới hạn của cái ghê gớm của sự khát, các khách hàng bắt đầu
vây quanh con thuyền.
-
Một “thùng” cho gia đình họ Trần!
-
Chỉ có nửa “thùng” thôi, bá ơi, vì các lu cuối cùng của tôi đã cạn.
“Bá phụ Tàu” béo phì, lặng lẽ thổi một vài vệt
màu xanh từ ống tre nhuộm màu son đang sử dụng, đứng lên trên chiếc chiếu và
nói một câu duy nhất:
-
Một cắc! (mười xu!)
Những
tiếng thốt vang lên ồn ào, phủ xuống kẻ điềm tỉnh hút thuốc.
-
Ông muốn chúng tôi chết á, “ôi bá phụ” Trời còn hào phóng khi mưa.
-
Một cắc! là toàn bộ bữa ăn của chúng tôi “bá phụ” A Đạt ơi.
Rồi
đâu vào đấy vì mọi người cần nước uống. Con thuyền giảm nhẹ tạm thời nửa tấn nước
uống ... sẽ được thay thế, sau đó, khi đêm xuống tạo điều kiện giúp cho các
ngài “bá phụ” đổ vào thuyền bao nhiêu xô nước lợ từ con kênh.
Và
thế là: khi cặp vào bờ của một xóm nhỏ, các “bá phụ” này chỉ còn trong thùng chứa
của họ là thứ nước mặn chát “vì nước bị lên men trên đường vận chuyển” như lời
giải thích của vị chỉ huy con thuyền, luôn nằm hút thuốc trên chiếu.
Cần
phải uống, những kẻ khát vẫn phải mua cho dù họ có đau khổ hay than thở, bao
nhiêu cái thừ “thùng” nước đầy phù sa này.
Chỉ
ít lâu, ruột tượng của “bá phụ” đầy nhóc. Bây giờ, thùng chứa gần như trống rỗng
vang lên với từng tiếng, giống như một cái trống khổng lồ.
-
Ngày mai, nếu các thần thánh có muốn gọi, hãy nói với “bá phụ”, chúng tôi sẽ
quay lại xứ sở cần nước uống.
Bức
tranh này rất thảm thương, chỉ có người dững dưng lắm mới sống không có cảm thông.
Nhung
tôi muốn ghi lại phác họa này để đưa đến độc giả Châu Âu ý kiến cụ thể về tình
hình nguy hiểm này ở các tỉnh của Nam Kỳ.
Các máy bơm ở Gò Vấp
Phải
thừa nhận rằng, vấn đề về nước vẫn được đặt ra, theo một cách tổng quát, với sự
nhạy bén: chưa có giải pháp thỏa đáng nào cuối cùng đạt đến cả.
Tuy
nhiên, các công trình chính được thực hiện bởi các chuyên gia thủy lực của
Chính phủ đang bắt đầu có hiệu quả. Trước tiên phải nhìn kỷ vấn đề "câu hỏi
nông thôn” của việc cung cấp nước khác với “câu hỏi về tắm”.
Không
có trợ cấp, các đô thị Sài Gòn và Chợ Lớn, chịu gánh nặng tài chính nặng nề (cảnh
sát, làm đẹp cảnh quan, vệ sinh, trưng dụng, tài trợ cho nhà hát, giúp đỡ người
nghèo, vv), không thể tiếp tục, thiếu sót về vốn để cải cách hệ thống hiện tại.
Ở
các tỉnh, mọi thứ khác nhau. Các huyện và xã, sự đài thọ rất ít (duy trì nhân
viên công lực, đường sá), thúc đẩy bởi sự giàu có nội tại của đất, của ngân
sách, được sự đóng góp cân đối có thể thực hiện được những tiến bộ quan trọng.
Hiểu
được tầm quan trọng của việc cung cấp nước uống, và trong nhiều trường hợp gợi
ý, các dự án đã đệ trình cho họ theo hướng này. (Lưu ý rằng Chính phủ luôn giúp
các nhóm ở một mức độ nào đó thôi: tài trợ từ ngân sách tỉnh, v.v ...)
Cuối
cùng khi vốn sẳn có của các huyện không đủ, một khoản vay được cam kết trong việc
bán tài nguyên nước hoặc các nguồn thu của huyện thanh toán dể dàng số dư. Ở
phía Đông, hầu hết các thị xã và trung tâm của tỉnh đều có cơ sở phân phối nước
uống.
Đó
là: Gia Định, gần Sài Gòn (hai giếng cung cấp 300 mét khối mỗi ngày, một lượng
đủ lớn). Cap-Saint-Jacques (27 giếng, 450 mét khối mỗi ngày).
Bà
Rịa (1.440 dân, phân phối hàng ngày 300 mét khối, nước tiệt trùng).
Thủ
Dầu Một (3 000 dân), ba nguồn 200 mét khối mỗi ngày, sẽ được tăng lên trong năm
nay lên 500 mét khối nước tiệt trùng.
Và
ở trung tâm cũng như vậy:
Mỹ
Tho (953 mét khối nước được bơm trong sông Mekong và được xử lý trong các máy lọc
Desrumaux.) Dân số được phân phối nước trong mùa khô vì nước sông trở thành nước
lợ, một hồ chứa 300 000 mét khối được xây dựng. cũng tiệt trùng).
Cần
Thơ (4.000 người). Nhà máy tương tự Mỹ Tho nhưng cung cấp 600 mét khối trong bất
kỳ mùa nào, một nguồn cung cấp nước được dự tính, cũng như một cơ sở cho việc
tiệt trùng).
Chỉ
có phía Tây và cực Đông Nam là sự thiếu nước thấy rõ:
Bạc
Liêu, Giá Ray, Gò Công, Hà Tiên, Sóc Trăng và Tân An (Thủ Thừa, Bình Phước) được
cung cấp nước bằng các bồn công cộng vận chuyển bằng thuyền tìm được ở các nơi
nước uống được ngoài vùng nước lợ. Các dự án cung cấp nước đã được thiết lập
cho Bạc Liêu (10.000 mét khối) và Sóc Trăng (20.000 mét khối).
Châu
Đốc, Long Xuyên, Sa Đéc, Vĩnh Long lấy nước uống từ sông. Tây Ninh nhận nước bằng
nguồn cung cấp. Châu Đốc sẽ sớm được trang bị một trạm tiệt trùng và một hệ thống
cấp nước.
Bến
Tre, Rạch Giá, Trà Vinh, Cà Mau, được cung cấp nước uống bởi hệ thống tạm các bồn
chứa và giếng đào, sẽ sớm được trang bị các trạm tối tân, có lợi thế là có thể
cung cấp các trung tâm này với nước sạch, cũng như các làng ít được biết hơn ở
các tỉnh này.
Không
thể phủ nhận rằng, ngay sau khi các dự án cho các thị trấn nhỏ trong ở trung
tâm Nam Kỳ được hoàn thành, sự chấm dứt kéo dài của chương trình phải được quyết
tâm.
Nguồn:
Le Monde colonial illustré tháng 8 1929
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét