Thứ Bảy, 23 tháng 2, 2019



CĂN CỨ KHÔNG QUÂN TÂN SƠN NHỨT

(Tiếp Theo)




Tết Mậu Thân năm 1968
Sân bay này là mục tiêu của các cuộc tấn công lớn của VC trong cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân năm 1968. Cuộc tấn công bắt đầu sớm vào ngày 31 tháng 1 với mức độ nghiêm trọng hơn bất kỳ ai dự kiến. Khi Việt Cộng tấn công phần lớn lực lượng của VNCH đã nghỉ phép để ở cùng với gia đình của họ trong năm mới âm lịch. Một lệnh thu hồi ngay lập tức đã được ban hành, và trong vòng 72 giờ, 90 phần trăm quân nhân của không quân Việt Nam quay lại làm nhiệm vụ.


Cuộc tấn công chính của VC được thực hiện vào vành đai phía tây của căn cứ bởi 3 Tiểu đoàn VC. Sự xâm nhập bắt đầu vào bao gồm Phi đội Cảnh sát An ninh số 37 của sân bay, các đơn vị Quân đội đặc biệt của Lực lượng Đặc nhiệm 35, các đơn vị không quân Việt Nam đặc biệt và hai tiểu đoàn Không quân của QLVNCH. Phi đội 3, Trung đoàn Kỵ binh số 4 được phái từ Trại căn cứ Củ Chi và ngăn chặn các lực lượng VC ở phía tây cătấn công quân VC bên trong căn cứ và giao chiến với họ trong một ngôi làng và nhà máy phía tây sân bay. Đến 16:30 ngày 31 tháng 1 sân bay được bảo đảm an toàn. Tổn thất của Hoa Kỳ là 22 người chết và 82 người bị thương, quân đội VNCH có 29 người chết và 15 người bị thương, tổn thất của VC là hơn 669 người chết và 26 người bị bắt. 14 máy bay bị hư hại tại căn cứ.
Trong ba tuần tiếp theo, Không quân Việt Nam đã bay hơn 1.300 lượt tấn công, ném bom và bắn phá các vị trí VC trên khắp miền Nam Việt Nam. Máy bay vận tải từ không đoàn 33 của Tân Sơn Nhứt đã thả gần 15.000 quả hỏa châu trong 12 đêm, so với mức trung bình hàng tháng là 10.000. Máy bay quan sát cũng từ Tân Sơn Nhứt đã hoàn thành gần 700 lượt trinh sát với các phi công của Không quân Việt Nam bằng bay O-1 Bird Dogs và U-17 Skywagons.
Vào lúc 1 giờ 15 phút ngày 18 tháng 2, một cuộc tấn công bằng hỏa tiển và súng cối của VC vào căn cứ đã phá hủy 6 máy bay và làm hư hỏng 33 máy bay và giết chết một người. Một cuộc tấn công bằng hỏa tiển vào ngày hôm sau đã tấn công nhà ga hàng không dân sự làm 1 người chết và 6 vụ tấn công bằng hỏa tiển / súng cối khác trong giai đoạn này đã giết chết 6 người khác và làm bị thương 151. Vào ngày 24 tháng 2, một cuộc tấn công bằng hỏa tiển và súng cối khác đã làm 4 nhân viên Mỹ thiệt mạng và 21 người bị thương.
Vào ngày 12 tháng 6 năm 1968, một cuộc tấn công bằng súng cối vào căn cứ đã phá hủy 2 máy bay USAF và giết chết 1 phi công.
Các cuộc tấn công Tết và các tổn thất trước đó do các cuộc tấn công bằng súng cối và hỏa tiển vào các căn cứ không quân trên khắp miền Nam Việt Nam đã khiến Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Paul Nitze vào ngày 6 tháng 3 năm 1968 để phê duyệt việc xây dựng 165 hầm trú ẩn "Wonderarch" cho máy bay tại các căn cứ không quân lớn. Ngoài ra, các cuộc tuần tra "theo dỏi hỏa tiển trên không” được thành lập ở khu vực Sài Gòn-Biên Hòa để giảm bớt các cuộc tấn công bằng hỏa lực.

Việt Nam hóa và cuộc tấn công ‘Mùa hè đỏ lửa” năm 1972
Vào ngày 2 tháng 7 năm 1969, 5 chiếc AC-47 Spookygunships đầu tiên đã được bàn giao cho không quân Việt Nam để thành lập Phi đoàn chiến đấu 817 hoạt động tại sân bay vào ngày 31 tháng 8.
Năm 1970, khi các đơn vị Mỹ rời khỏi đất nước, phi đoàn vận tải của không quân Việt Nam đã tăng lên rất nhiều tại Tân Sơn Nhứt. Không đoàn chiến thuật 33 và 53d của không quân Việt Nam được trang bị máy bay C-123, C-47 và C-7 Caribous.
Vào giữa năm 1970, USAF đã bắt đầu huấn luyện các phi hành đoàn của không quân Việt Nam trên máy bay AC-119G Shadow tại sân bay. Các khóa học khác bao gồm các lớp điều hướng và huấn luyện chuyển tiếp và bảo dưỡng trực thăng cho CH-47 Chinook.
Đến tháng 11 năm 1970, không quân Việt Nam nắm quyền kiểm soát hoàn toàn các Trung tâm hỗ trợ không quân trực tiếp (DASCs) tại Biên Hòa AB, Đà Nẵng AB và Pleiku AB.
Vào cuối năm 1971, không quân Việt Nam hoàn toàn kiểm soát các đơn vị chỉ huy và kiểm soát tại tám căn cứ không quân lớn, hỗ trợ các đơn vị QLVNCH cho hệ thống hoạt động trên không mặt đất mở rộng. Vào tháng 9 năm 1971, USAF đã chuyển hai phi đội C-119 cho Không quân Việt Nam tại Tân Sơn Nhứt.
Năm 1972, sự tăng cường cho Không quân Việt Nam tại Tân Sơn Nhứt được mở rộng khi hai phi đội C-130 Hercules được thành lập ở đó. Vào tháng 12, cơ sở huấn luyện C-130 đầu tiên của Không quân Việt Nam được thành lập tại Tân Sơn Nhứt, cho phép Không quân Việt Nam huấn luyện các phi công C-130 của riêng mình. Nhiều chiếc C-130 được chuyển đến cho Không quân Việt Nam, những chiếc C-123 cũ hơn đã được đưa trở lại USAF để xử lý.
Khi sự tăng cường cho Không quân Việt Nam tiếp tục, thành công của chương trình Việt Nam hóa là điều hiển nhiên trong cuộc tấn công Mùa hè đỏ lửa năm 1972. Phản ứng trước cuộc tấn công của Quân đội Nhân dân Việt Nam (PAVN), Không quân Việt Nam đã bay hơn 20.000 phi vụ tấn công giúp ngăn chặn bước tiến. Trong tháng đầu tiên của cuộc tấn công, Tân Sơn Nhứt đã vận chuyển hàng ngàn quân và giao gần 4.000 tấn vật tư trong cả nước. Cuộc tấn công cũng dẫn đến việc bàn giao thêm máy bay cho Không quân Việt Nam tăng cường hoạt động. Ngoài ra, máy bay chiến đấu đưa đến Tân Sơn Nhứt lần đầu tiên là F-5A / B và F-5E Tiger II. F-5 sau đó được chuyển cho Biên Hòa và Đà Nẵng AB.

Lệnh ngừng bắn năm 1973
Hiệp định hòa bình Paris năm 1973 đã chấm dứt quyền hạn cố vấn của Hoa Kỳ tại miền Nam Việt Nam. Thay vào đó, như một phần của thỏa thuận, người Mỹ đã giữ lại Văn phòng Tùy viên Quốc phòng (DAO) tại căn cứ không quân Tân Sơn Nhứt, với các văn phòng nhỏ tại các cơ sở khác trên khắp đất nước. Hỗ trợ kỹ thuật do nhân viên của DAO và các nhà thầu dân sự cung cấp là rất cần thiết cho không quân Việt Nam, tuy nhiên, vì thỏa thuận ngừng bắn, Nam Việt Nam không thể được tư vấn về bất kỳ cách nào trong các hoạt động quân sự, chiến thuật hoặc kỹ thuật làm việc. Thông qua DAO, mối quan hệ Mỹ / Nam Việt Nam được duy trì và chủ yếu từ nguồn này mà thông tin từ Nam Việt Nam đã thu được. Không quân Việt Nam cung cấp số liệu thống kê liên quan đến khả năng quân sự của các đơn vị của họ cho DAO, tuy nhiên độ chính xác của thông tin này không phải lúc nào cũng đáng tin cậy.
Từ cuộc tấn công Mùa hè đỏ lửa năm 1972, rõ ràng nếu không có viện trợ của Hoa Kỳ, đặc biệt là hỗ trợ trên không, QLVNCH sẽ không thể tiếp tục tự vệ trước các cuộc tấn công Quân đội Nhân dân Việt Nam. Điều này đã được chứng minh tại trận chiến quanh Pleiku, An Lộc và Quảng Trị nơi mà quân đội VNCH sẽ bị đánh bại nếu không có sự yểm trợ trên không liên tục, chủ yếu do USAF cung cấp. Quân đội VNCH phụ thuộc rất nhiều vào sự hỗ trợ của không quân, và với sự vắng mặt của USAF, toàn bộ trách nhiệm thuộc về Không quân Việt Nam. Mặc dù được trang bị số lượng lớn máy bay tấn công Cessna A-37 Dragonfly và F-5 để thực hiện các hoạt động yểm trợ trên không hiệu quả, trong cuộc tấn công năm 1972, nhiệm vụ bắn phá hạng nặng đã được giao cho máy bay USAF.
Là một phần của Hiệp định Hòa bình Paris, một Ủy ban quân sự chung đã được thành lập và quân đội VC / Bắc Việt đã được triển khai trên khắp miền Nam Việt Nam để giám sát sự ra đi của lực lượng Hoa Kỳ và thực hiện lệnh ngừng bắn. 200-250 binh sĩ VC / Bắc Việt đóng tại Trại Davis (xem Trạm Davis bên dưới) tại căn cứ từ tháng 3 năm 1973 cho đến khi miền Nam Việt Nam thất thủ.
Vô số vi phạm Hiệp định Hòa bình Paris đã được Bắc Việt thực hiện bắt đầu gần như ngay sau khi Hoa Kỳ rút nhân sự cuối cùng khỏi Nam Việt Nam vào cuối tháng 3 năm 1973. Bắc Việt và Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam tiếp tục nỗ lực lật đổ Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và xóa bỏ chính phủ hỗ trợ của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ đã hứa với Tổng thống Thiệu rằng họ sẽ sử dụng không quân để hỗ trợ chính phủ của mình. Vào ngày 14 tháng 1 năm 1975, Bộ trưởng Quốc phòng James Schlesinger tuyên bố rằng Hoa Kỳ đã không thực hiện đúng lời hứa của mình rằng họ sẽ trả đũa trong trường hợp Bắc Việt Nam cố gắng áp đảo Nam Việt Nam.
Khi Bắc Việt xâm chiếm vào tháng 3 năm 1975, sự can thiệp của Hoa Kỳ đã hứa không bao giờ thành hiện thực. Quốc hội phản ánh tâm trạng phổ biến, tạm dừng vụ đánh bom ở Cam Bốt có hiệu lực từ ngày 15 tháng 7 năm 1973 và giảm viện trợ cho miền Nam Việt Nam. Vì Tổng thống Thiệu có ý định chiến đấu với cùng một loại chiến tranh mà ông ta luôn có, với việc sử dụng hỏa lực hoang phí, việc cắt giảm viện trợ tỏ ra đặc biệt tai hại.

Chiếm giữ
Đầu năm 1975, Quân đội Nhân dân Việt Nam nhận ra rằng đã đến lúc phải đạt được mục tiêu tái thống nhất Việt Nam dưới sự cai trị của cộng sản, tiến hành một loạt các cuộc tấn công mặt đất nhỏ để kiểm tra phản ứng của Hoa Kỳ.
Vào ngày 8 tháng 1, Bộ Chính trị Bắc Việt đã ra lệnh tấn công để "giải phóng" miền Nam Việt Nam bằng cuộc xâm lược xuyên biên giới. Kế hoạch tổng tham mưu cho cuộc xâm lược miền Nam Việt Nam kêu gọi 20 sư đoàn, nó dự đoán một cuộc đấu tranh hai năm để giành chiến thắng.
Đến ngày 14 tháng 3, Tổng thống miền Nam Thiệu đã quyết định từ bỏ khu vực Tây Nguyên và hai tỉnh miền Bắc của miền Nam Việt Nam và ra lệnh rút chung lực lượng của QLVNCH khỏi các khu vực đó. Thay vì rút quân có trật tự, nó biến thành một cuộc rút lui chung, với hàng loạt quân đội và thường dân chạy trốn, làm tắc nghẽn đường và tạo ra sự hỗn loạn.
Vào ngày 30 tháng 3, 100.000 lính Nam Việt Nam đã đầu hàng sau khi bị các sĩ quan chỉ huy của họ bỏ rơi. Các thành phố lớn ven biển Đà Nẵng, Quy cương, Tuy Hòa và Nha Trang đã bị quân đội miền Nam bỏ rơi, toàn bộ nửa phía bắc của miền Nam Việt Nam vào tay miền Bắc Việt Nam.
Đến cuối tháng 3, Đại sứ quán Hoa Kỳ bắt đầu giảm số lượng công dân Hoa Kỳ tại Việt Nam bằng cách khuyến khích người thân và nhân viên không cần thiết phải rời khỏi đất nước bằng các chuyến bay thương mại và trên máy bay C-141 và C-5 của Military Airlift Command (MAC) thường vẫn dùng để chở đồ tiếp tế khẩn cấp.
Vào ngày 4 tháng Tư, một chiếc máy bay C-5A chở 250 trẻ mồ côi Việt Nam và những người hộ tống bị nổ tung trên biển gần Vũng Tàu trong khi cố gắng quay trở lại Tân Sơn Nhứt; 153 người trên tàu đã chết trong vụ tai nạn.
Khi chiến tranh ở miền Nam Việt Nam chuẩn bị đi vào kết thúc, các phi công của Không quân VNCH đã bay theo sau khi xuất kích, hỗ trợ cho quân đội VNCH rút lui sau khi từ bỏ Vịnh Cam Ranh vào ngày 14 tháng Tư. Trong hai ngày sau khi quân đội VNCH rời khỏi khu vực, Tư lệnh không đoàn tại căn cứ không quân Phan Rang đã chiến đấu cùng các lực lượng dưới quyền. Các binh sĩ không vận đã được gửi đến trong một nỗ lực cuối cùng để giữ sân bay, nhưng những người bảo vệ cuối cùng đã bỏ chạy vào ngày 16 tháng 4 và căn cứ không quân Phan Rang đã bị mất.
Vào ngày 22 tháng 4, Xuân Lộc rơi vào tay Quân đội Nhân dân Việt Nam sau trận chiến kéo dài hai tuần với Sư đoàn 18 của QLVNCH, gây ra hơn 5000 thương vong cho Bắc Việt và làm chậm Chiến dịch Hồ Chí Minh trong hai tuần. Với sự sụp đổ của Xuân Lộc và việc chiếm căn cứ không quân Biên Hòa vào cuối tháng 4 năm 1975, rõ ràng miền Nam Việt Nam sắp rơi vào Bắc Việt.
Ngày 22 Tháng Tư 20 máy bay C-141 và 20 máy bay C-130 thực hiện chuyến bay trong một ngày di tản ra khỏi Tân Sơn Nhứt để tới căn cứ không quân Clark, cách 1.000 dặm ở Philippines. Vào ngày 23 tháng 4, Tổng thống Ferdinand Marcos của Philippines tuyên bố rằng sẽ không cho 2.500 người di tản Việt Nam được phép đến Philippines bất cứ lúc nào, làm gia tăng thêm căng thẳng đối với MAC khi đưa ngừoi di tản khỏi Sài Gòn và giớ phải di chuyển 5.000 người di tản khỏi Căn cứ Clark đến đảo Guam, Đảo Wake và Căn cứ không quân Yokota. Tổng thống Thiệu và gia đình rời Tân Sơn Nhứt vào ngày 25 tháng 4 trên chiếc C-118 của USAF để đi lưu vong ở Đài Loan. Cũng vào ngày 25 Tháng Tư Cơ quan Hàng không Liên bang đã cấm các chuyến bay thương mại vào Nam Việt Nam. Lệnh này sau đó đã được đảo ngược; Một số hành khách đã phớt lờ. Trong mọi trường hợp, điều này đánh dấu sự kết thúc của vận tải hàng không thương mại từ Tân Sơn Nhứt.
Vào ngày 27 tháng 4, tên lửa Quân đội Nhân dân Việt Nam đã tấn công Sài Gòn và Chợ Lớn lần đầu tiên kể từ khi ngừng bắn năm 1973. Người ta đã quyết định rằng từ thời điểm này, chỉ có máy bay C-130 lả được sử dụng cho việc sơ tán do khả năng cơ động cao hơn của chúng. Có rất ít sự khác biệt giữa tải trọng hàng hóa của hai máy bay, máy bay C-141 chở được tới 316 người di tản trong khi C-130 đã cất cánh vượt quá 240 người.
Vào ngày 28 tháng 4 lúc 18:06, ba chiếc Dragonfly A-37 do các cựu phi công của không quân Việt Nam điều khiển, người đã đào tẩu về với Không quân Nhân dân Việt Nam khi Đà Nẵng sụp đổ, đã thả sáu quả bom Mk81 250 lb gây thiệt hại cơ sở. Máy bay F-5 của không quân Việt Nam cất cánh đuổi theo, nhưng họ không thể chặn được A-37.
70 chiếc C-130 rời Tân Sơn Nhứt báo cáo đã bị hỏa lực phòng không Quân đội Nhân dân Việt Nam bắn bằng súng 51 cal và 37 mm,
71 - 72 chiếc bị tấn công lẻ tẻ bằng hỏa tiển và pháo binh của Quân đội Nhân dân Việt Nam khi đáp xuống sân bay và căn cứ không quân. Các chuyến bay C-130 đã tạm thời dừng lại sau cuộc không kích nhưng được nối lại vào lúc 20:00 ngày 28 tháng Tư.
Vào lúc 03:58 ngày 29 tháng 4, máy bay C-130E, được điều khiển bởi một phi hành đoàn từ Phi đoàn Không quân Chiến thuật 776, đã bị phá hủy bởi một tên lửa 122 mm trong khi để đón người tị nạn sau khi dỡ tải trái bom BLU-82 tại căn cứ  Phi hành đoàn đã sơ tán chiếc máy bay đang cháy trên đường băng và rời sân bay trên một chiếc C-130 khác đã hạ cánh trước đó. Đây là máy bay cánh cố định cuối cùng của USAF rời Tân Sơn Nhứt.
Vào rạng sáng ngày 29 tháng 4, Không quân Việt Nam bắt đầu rời khỏi căn cứ không quân Tân Sơn Nhứt khi những chiếc  A-37, F-5, C-7, C-119 và C-130 đi đến Thái Lan trong khi các trực thăng UH-1 cất cánh để tìm kiếm tàu của Lực lượng đặc nhiệm 76.
Một số máy bay của không quân Việt Nam ở lại để tiếp tục chiến đấu sự tiến công của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Một máy bay AC-119 đã trải qua đêm 28/29 tháng 4 thả hỏa châu và bắn vào Quân đội Nhân dân Việt Nam đang đến gần. Vào rạng sáng ngày 29 tháng 4, hai chiếc A-1 Skyraider bắt đầu tuần tra chu vi của Tân Sơn Nhứt ở độ cao 2.500 feet (760 m) cho đến khi một chiếc bị bắn hạ, có lẽ là do tên lửa SA-7. Vào lúc 07:00, máy bay AC-119 đang bắn vào Quân đội Nhân dân Việt Nam ở phía đông Tân Sơn Nhứt trước khi nó bị SA-7 đâm trúng và rơi xuống đất.
Vào lúc 08:00 ngày 29 tháng 4, Trung tướng Trần Văn Minh, chỉ huy của không quân Việt Nam và 30 nhân viên của ông đã đến DAO Compound yêu cầu sơ tán, biểu thị sự mất hoàn toàn của chỉ huy và kiểm soát của không quân Việt Nam.
Vào lúc 10:51 ngày 29 tháng 4, CINCPAC đã ra lệnh bắt đầu Chiến dịch Frequent Wind, dùng trực thăng di tản nhân viên Hoa Kỳ và người Việt Nam.
Trong cuộc sơ tán cuối cùng, hơn một trăm máy bay không quân Việt Nam đã đến Thái Lan, bao gồm hai mươi sáu chiếc F-5, tám chiếc A-37, mười một chiếc A-1, sáu chiếc C-130, mười ba chiếc C-47, năm chiếc C-7 và ba chiếc AC -119s. Ngoài ra, gần 100 máy bay trực thăng của không quân Việt Nam đã hạ cánh trên các tàu của Hoa Kỳ ngoài khơi, mặc dù ít nhất một nửa đã bị vứt bỏ. Một chiếc O-1 đã tìm cách hạ cánh trên USS Midway, mang theo một thiếu tá Nam Việt Nam, vợ và năm đứa con.
Lực lượng đặc nhiệm 3 của QLVNCH, quân biệt cách 81 do Thiếu tá Phạm Châu Tài chỉ huy bảo vệ Tân Sơn Nhứt và họ tham gia cùng với tàn quân của đơn vị Lợi Hồ. Vào lúc 07:15 ngày 30 tháng 4, Trung đoàn 24 Bắc Việt đã tiếp cận giao lộ Bảy Hiền (10 ° 47′35 ″ N 106 ° 39′11 E / 10.793 ° N 106.653 ° E) cách cổng chính của sân bay 1,5 km. Chiếc T-54 dẫn đầu đã bị trúng đạn súng không giật M67 và sau đó chiếc T-54 tiếp theo bị trúng đạn từ xe tăng M48. Bộ binh Bắc Việt tiến lên và giao chiến với quân đội VNCH từ nhà này sang nhà khác để buộc họ phải rút về căn cứ trước 08:45.
Quân Bắc Việt sau đó đã cử 3 xe tăng và một tiểu đoàn bộ binh tấn công vào cổng chính và họ đã gặp phải hỏa lực chống tăng và súng máy mạnh mẽ hạ gục 3 xe tăng và giết chết ít nhất 20 binh sĩ Bắc Việt. Quân đội Nhân dân Việt Nam đã cố gắng đưa ra một khẩu súng phòng không 85mm nhưng QLVNCH đã hạ nó trước khi nó có thể bắt đầu khai hỏa.
Sư đoàn 10 Bắc Việt đã yêu cầu cho thêm 8 xe tăng và một tiểu đoàn bộ binh khác tham gia cuộc tấn công, nhưng khi đến gần ngã tư Bảy Hiền, họ đã bị một cuộc không kích từ các máy bay phản lực của không quân Việt Nam hoạt động từ căn cứ không quân Bình Thủy phá hủy 2 chiếc T-54. 6 chiếc xe tăng còn sống sót đã đến cổng chánh lúc 10:00 và bắt đầu cuộc tấn công, 2 chiếc bị bắn ra bởi hỏa lực chống tăng trước cổng và một chiếc khác bị phá hủy khi nó cố gắng tiến váo bên sườn.
Vào khoảng 10 giờ 30, Thiếu tá Phạm nghe tin về việc đầu hàng Tổng thống Dương Văn Minh và đến Bộ Tổng tham mưu Quân đội VNCH để tìm chỉ thị, ông gọi cho Tướng Minh, người bảo tổng thống chuẩn bị đầu hàng, ông Phạm nói với Minh "Nếu Xe tăng Việt Cộng tiến vào Dinh Độc Lập, chúng tôi sẽ tới đó để giải cứu tổng thống. " Minh từ chối lời đề nghị của Phạm và Phạm sau đó bảo người của mình rút khỏi cổng căn cứ và lúc 11:30 quân Bắc Việt vào căn cứ.
Sau chiến tranh, căn cứ không quân Tân Sơn Nhứt được tiếp quản làm căn cứ cho Không quân nhân dân Việt Nam

                                                                      (Còn tiếp)

Thứ Sáu, 15 tháng 2, 2019




CĂN CỨ KHÔNG QUÂN TÂN SƠN NHỨT
(Tiếp Theo)


         Các đơn vị không quân Việt Nam được biết đến (tháng 6 năm 1974)


Căn cứ không quân Tân Sơn Nhứt là bộ chỉ huy của Không quân Việt Nam. Nó cũng là bộ chỉ huy của Sư đoàn 5 Không quân Việt Nam.
o Không đoàn chiến thuật 33d
o Phi đoàn đặc nhiệm không quân thứ 314 (Biệt đoàn Đặc vụ 314 C 47- U-17, UH-1, DC-6B
o Phi đoàn quan sát 716 R / EC-47, U-6A
o Phi đoàn quan sát 718 EC-47
o Phi đoàn vận tải 429 C-7B
o Phi đoàn vận tải thứ 430 C-7B
o Phi đoàn trực thăng Det H 259 Bell UH-1H (Medevac)
o Không đoàn chiến thuật 53d
o Phi đoàn chiến đấu 819 (Phi đoàn Hỏa long 819) AC-119G
o Phi đoàn chiến đấu 821 (Phi đoàn Hỏa long 821) AC-119G
o Phi đoàn vận tải  435 C-130A
o Phi đoàn vận tải 437 C-130A

           Được sử dụng bởi Hoa Kỳ


Trong chiến tranh Việt Nam Căn cứ không quân Tân Sơn Nhứt là một sân bay quan trọng cho cả USAF và Không quân Việt Nam. Cơ sở đóng vai trò là đầu mối cho việc triển khai và xây dựng USAF ban đầu ở miền Nam Việt Nam vào đầu những năm 1960. Tân Sơn Nhứt ban đầu là căn cứ không quân chính cho các chuyến bay của Bộ Tư lệnh Không quân Quân sự đến và đi từ miền Nam Việt Nam, cho đến khi các căn cứ khác như Biên Hòa và Cam Ranh mở cửa năm 1966. Sau năm 1966, với việc thành lập Không quân 7 làm trụ sở chỉ huy và kiểm soát chính của USAF tại miền Nam Việt Nam, Tân Sơn Nhứt hoạt động như một căn cứ Sở chỉ huy, một căn cứ Trinh sát chiến thuật và là một căn cứ hoạt động đặc biệt. Với sự rút lui của các lực lượng Hoa Kỳ tại miền Nam Việt Nam sau năm 1971, sân bay này đã tiếp nhận vô số các tổ chức được chuyển từ các căn cứ đã ngừng hoạt động trên khắp miền Nam Việt Nam.
Trong khoảng thời gian từ năm 1968 đến 1974, sân bay Tân Sơn Nhứt là một trong những sân bay quân sự bận rộn nhất thế giới. Lịch trình của Pan Am từ năm 1973 cho thấy dịch vụ Boeing 747 đã được khai thác bốn lần một tuần đến San Francisco qua đảo Guam và Manila. Continental Airlines đã vận hành tới 30 máy bay quân sự Boeing 707 mỗi tuần đến và đi từ sân bay Tân Sơn Nhứt trong giai đoạn 1968 – 74 giai đoạn..
Chính từ căn cứ không quân Tân Sơn Nhứt, phi công Hoa Kỳ cuối cùng rời Nam Việt Nam vào tháng 3 năm 1973. Bưu điện Không quân (APO) cho căn cứ không quân Tân Sơn Nhứt là APO San Francisco, 96307.

Nhóm tư vấn hỗ trợ quân sự (MAAG)


Trại Davis



Vào ngày 13 tháng 5 năm 1961, một đơn vị 92 người của Cơ quan An ninh Quân đội, hoạt động dưới sự bảo vệ của Đơn vị Nghiên cứu Vô tuyến 3 (RRU 3), đã đến Tân Sơn Nhứt AB và thành lập một cơ sở tình báo liên lạc trong các kho bỏ hoang của không quân Việt Nam trong sân bay (10 ° 48′36 ″ N 106 ° 38′56 E / 10,81 ° N 106,649 ° E). Đây là lần đầu tiên việc triển khai đầy đủ một đơn vị quân đội Hoa Kỳ vào Nam Việt Nam. Vào ngày 21 tháng 12 năm 1961, SP4 James T. Davis của 3rd RRU đang vận hành máy thu PRD-1 di động với một đơn vị QLVNCH gần Cầu Xáng khi họ bị phục kích bởi VC và Davis bị giết, trở thành một trong những người Mỹ đầu tiên bị giết trong Chiến tranh Việt Nam Vào đầu tháng 1 năm 1962, căn cứ của 3rd RRU tại Tân Sơn Nhứt được đổi tên thành Trạm Davis.
Vào ngày 1 tháng 6 năm 1966, 3rd RRU được thiết kế lại Nhóm nghiên cứu vô tuyến thứ 509. Nhóm RR 509 tiếp tục hoạt động cho đến ngày 7 tháng 3 năm 1973, khi họ nằm trong số các đơn vị cuối cùng của Hoa Kỳ rời khỏi Nam Việt Nam.

507th Tactical Control Group



Cuối tháng 9 năm 1961, đơn vị thường trực đầu tiên của USAF, Nhóm kiểm soát chiến thuật 507 từ căn cứ không quân Shaw đã triển khai sáu mươi bảy sĩ quan và phi công đến Tân Sơn Nhứt để lắp đặt radar tìm kiếm MPS-11 và radar tìm kiếm độ cao MPS-16 và bắt đầu theo dõi không lưu và đào tạo nhân viên không quân Việt Nam để vận hành và bảo dưỡng thiết bị. Việc lắp đặt thiết bị bắt đầu vào ngày 5 tháng 10 năm 1961 và đơn vị cuối cùng sẽ tăng lên thành 314 nhân sự được giao. Tổ chức là hạt nhân hình thành của hệ thống kiểm soát không quân chiến thuật Nam Việt Nam.

          Nhiệm vụ trinh sát chiến thuật


Vào ngày 18 tháng 10 năm 1961, bốn chiếc RF-101C Voodoos và một đơn vị xử lý ảnh từ Phi đoàn Trinh sát Chiến thuật số 15 thuộc Cánh Trinh sát Chiến thuật 67, đóng tại Yokota AB Nhật Bản, đã đến Tân Sơn Nhứt, với phi vụ trinh sát bay qua Nam Việt Nam và Lào từ ngày 20 tháng 10 trong Chiến dịch Pipe Stem. Máy bay RF-101 khởi hành vào tháng 1 năm 1962 để rời Đội 1 của Phi đoàn Trinh sát chiến thuật thứ 15 để thực hiện xử lý ảnh.
Vào tháng 3 năm 1962, một chiếc Skymaster C-54 được trang bị hồng ngoại đã đến căn cứ và ở lại đây cho đến tháng 2 năm 1963, sau đó được thay thế bằng chiếc Brave Bull C-97.
Vào tháng 12 năm 1962 sau khi ký Thỏa thuận quốc tế về tính trung lập của Lào, trong đó cấm trinh sát trên không đối với Lào, tất cả 4 chiếc RF-101C của Able Marble đều được chuyển đến căn cứ từ căn cứ không quân Hoàng gia Thái Lan Don Muang.
Vào ngày 13 tháng 4 năm 1963, Đội kỹ thuật Trinh sát số 13 được thành lập tại sân bay để cung cấp thông tin về mục tiêu và giải đoán ảnh.
Sau sự cố Vịnh Bắc Bộ vào ngày 4 tháng 8 năm 1964, 6 chiếc RF-101C bổ sung được triển khai đến căn cứ.
Đội 67th TRW sớm trở thành phân đội của Phi đoàn Trinh sát chiến thuật thứ 15 thuộc không đoàn chiến đấu 18, đóng tại Kadena AB, Okinawa, cũng đã bay các nhiệm vụ trinh sát RF-101 qua Lào và Nam Việt Nam, đầu tiên từ căn cứ tại không quân hoàng gia Thái Udorn từ ngày 31 tháng 3 năm 1965 đến ngày 31 tháng 10 năm 1967 và sau đó từ miền Nam Việt Nam. Các nhiệm vụ trinh sát này kéo dài từ tháng 11 năm 1961 đến mùa xuân năm 1964.
Các máy bay RF-101C đã thực hiện các nhiệm vụ dẫn đường cho F-100 trong Chiến dịch Fling Dart, cuộc tấn công đầu tiên của USAF vào Bắc Việt Nam vào ngày 8 tháng 2 năm 1965. Ban đầu chúng hoạt động ra khỏi miền Nam Việt Nam, nhưng sau đó đã bay hầu hết các nhiệm vụ của chúng qua Bắc Việt Nam ra khỏi Thái Lan. Các nhiệm vụ ném bom chống lại miền Bắc đòi hỏi một lượng lớn hỗ trợ trinh sát ảnh, và đến cuối năm 1967, tất cả trừ một trong các phi đội Command RF-101C của Không quân Chiến thuật đã được triển khai đến Đông Nam Á
Các trinh sát Voodoos tại Tân Sơn Nhứt được sáp nhập vào không đoàn trinh sát chiến thuật thứ 460 vào tháng 2 năm 1966. Một chiếc RF-101C đã bị phá hủy trong một cuộc tấn công dồn dập vào Tân Sơn Nhứt AB. Chiếc TRS RF-101C thứ 45 cuối cùng rời Tân Sơn Nhứt vào ngày 16 tháng 11 năm 1970.


Det 1 460th Tactical Reconnaissance Wing ở sân bay Tân Sơn Nhứt 
vói chiếc RB 57E 55-4264 đầu 1968

Sự cần thiết phải có thêm máy bay trinh sát, đặc biệt là những máy bay có khả năng hoạt động vào ban đêm, dẫn đến việc triển khai 2 máy bay trinh sát Martin RB-57E Canberra trong chiến dịch Patricia Lynn của phi đội 609 thuộc Phi đoàn Trinh sát số 1 vào ngày 7 tháng 5 năm 1963. Phần mũi phía trước của RB-57E đã được sửa đổi để chứa máy ảnh xiên KA-1 36 inch và máy ảnh KA-56 toàn cảnh thấp được sử dụng trên máy bay Lockheed U-2. Được đặt bên trong cửa khoang bom với cấu hình đặc biệt là máy ảnh dọc KA-1, máy ảnh ban ngày phân chia dọc K-477, máy quét hồng ngoại và máy ảnh xiên trái KA-1. Biệt đội đã bay các nhiệm vụ trinh sát vào ban đêm để xác định các căn cứ của VC, các nhà máy vũ khí nhỏ, và các khu vực lưu trữ và huấn luyện. Chiến dịch Patricia Lynn chấm dứt vào giữa năm 1971 với việc ngừng hoạt động của TRW 460 và bốn máy bay còn sống trở về Hoa Kỳ.
Vào ngày 20 tháng 12 năm 1964, Bộ Tư lệnh Hỗ trợ Quân sự, Việt Nam (MACV) đã thành lập Trung tâm Nghiên cứu và Phân tích Mục tiêu tại sân bay này như một đơn vị MACV J-2 (Tình báo) để phối hợp trinh sát hồng ngoại của Lục quân và USAF. Vào ngày 30 tháng 10 năm 1965, những chiếc RF-4C Phantom II đầu tiên của Phi đoàn Trinh sát Chiến thuật 16 đã đến sân bay và vào ngày 16 tháng 11, bắt đầu các nhiệm vụ bay qua Lào và Bắc Việt Nam.

Chiến dịch Farm Gate
Vào ngày 11 tháng 10 năm 1961, Tổng thống John F. Kennedy đã chỉ đạo, cho NSAM 104, mà Bộ trưởng Quốc phòng "giới thiệu Phi đoàn 'Jungle Jim' vào Việt Nam cho mục đích ban đầu là huấn luyện lực lượng Việt Nam."  Phi đoàn 4400th Combat Crew Training tiến hành như một nhiệm vụ huấn luyện chứ không phải để chiến đấu. Đơn vị này sẽ có tên chính thức là Phi đoàn huấn luyện phi hành đoàn chiến đấu 4400, mật danh là Farm Gate. Vào giữa tháng 11, 8 chiếc T-28 của Farm Gate đầu tiên đã đến sân bay từ Căn cứ Không quân Clark. Đồng thời, các Đội 7 và 8, Nhóm Hỗ trợ Chiến thuật 6009 được thành lập tại sân bay để hỗ trợ các hoạt động. Vào ngày 20 tháng 5, các phân đội này được đặt tên lại là Phi đoàn căn cứ không quân 6220.
Vào tháng 2 năm 1963, 4 máy bay trinh sát ảnh ban đêm RB-26C đã tham gia cùng các máy bay Farm Gate tại căn cứ.

Trung tâm chiến thuật điều khiển trên không
Việc thành lập một trung tâm điều khiển không quân chiến thuật trên không toàn quốc được coi là ưu tiên cho việc sử dụng hiệu quả các khả năng tấn công hạn chế của không quân Việt Nam, ngoài ra còn có một trung tâm điều hành không quân lập kế hoạch trung tâm cho các hoạt động không quân và một trung tâm báo cáo radar cấp dưới. Từ ngày 2 14 tháng 1, Nhóm kiểm soát chiến thuật thứ 5 được triển khai đến căn cứ, bắt đầu hoạt động vào ngày 13 tháng 1 năm 1962.
Vào tháng 3 năm 1963 MACV đã thành lập một trung tâm dịch vụ bay và mạng lưới tại căn cứ để kiểm soát tất cả các chuyến bay của quân đội Hoa Kỳ tại miền Nam Việt Nam.

Chiến dịch Mule Train


Chiếc C 123 Provider của Chiến dịch Mule Train đầu 1962

Vào ngày 6 tháng 12 năm 1961, Bộ Quốc phòng đã ra lệnh cho Phi đoàn vận tải 346 (Assault) được trang bị C-123 tới Viễn Đông trong 120 ngày làm nhiệm vụ tạm thời. Vào ngày 2 tháng 1 năm 1962, chiếc đầu tiên trong số 16 chiếc C-123 đã hạ cánh xuống căn cứ bắt đầu Chiến dịch Mule Train để hỗ trợ hậu cần cho các lực lượng Hoa Kỳ và Nam Việt Nam.
Vào tháng 3 năm 1962, nhân viên của Phi đoàn vận tải 776, bắt đầu thay thế nhân viên trực chiến. 10 chiếc C-123 được đặt tại Tân Sơn Nhứt, 2 chiếc ở căn cứ không quân Đà Nẵng và 4 chiếc ở căn cứ không quân Clark.


Chiếc C 123 Provider của Chiến dịch Mule Train bị VC tấn công bằng đạn cối 
tại TSN 13/4/1968

Vào tháng 4 năm 1963, Phi đoàn vận tải 777 được trang bị 16 chiếc C-123 được triển khai đến căn cứ.
Vào tháng 7 năm 1963, các phi đoàn của Mule Train tại căn cứ này đã trở thành các Phi đoàn vận tải thứ 310 và 310 được giao cho Sư đoàn không quân 315.

Nhóm Dirty Thirty





Máy bay DC 3 của không quân VN được nhóm Dirty thirty lái, 1962

Các nhân viên USAF bổ sung đã đến Tân Sơn Nhứt vào đầu năm 1962 sau khi Không quân Việt Nam chuyển hai chục phi công dày dạn từ nhóm vận tải số 1 tại Tân Sơn Nhứt cùng các nhân viên máy bay cho Phi đội tiêm kích 2 mới được thành lập trước đó và đang được huấn luyện tại Biên Hòa AB. Sự thiếu vắng đột ngột của các phi công C-47 đã khiến khả năng không vận của nhóm Vận tải số 1 xuống thấp một cách nguy hiểm. Để giảm bớt vấn đề, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Robert Mc Namara, theo đề nghị của MAAG Việt Nam, đã ra lệnh cho ba mươi phi công của USAF tạm thời được giao cho không quân Việt Nam làm phi công C-47. Các phi công Hoa Kỳ này đã nhanh chóng đưa nhóm vận tải số 1 trở lại đầy đủ sức mạnh.
Không giống như nhân viên chiến dịch Farm Gate tại Căn cứ Không quân Biên Hòa, các phi công C-47 thực sự đã trở thành một phần của hoạt động của không quân Việt Nam - mặc dù vẫn thuộc quyền kiểm soát của Hoa Kỳ. Vì tình huống khá bất thường của họ, những phi công này đã sớm chấp nhận biệt danh rất không chính thức, The Dirty Thirty. Theo một nghĩa nào đó, họ là những người lính không quân đầu tiên của Hoa Kỳ thực sự cam kết chiến đấu ở Việt Nam, thay vì được chỉ định làm cố vấn hoặc nhân viên hỗ trợ. Các phi công Dirty Thenty ban đầu cuối cùng đã quay về nhà vào đầu năm 1963 và được thay thế bởi một đội ngũ phi công thứ hai của Mỹ. Đội phi công này vẫn ở lại với VNCH cho đến tháng 12 năm 1963 trước khi họ rút khỏi Việt Nam.

           509th Fighter-Interceptor Squadron





Máy bay F 102s của 509th Fighter-Interceptor Squadron tại TSN

Bắt đầu từ ngày 21 tháng 3 năm 1962 dưới Dự án Water Glass và sau đó tiếp tục là Dự án Candy Machine, Phi đội tiêm kích đánh chặn 509 bắt đầu luân chuyển các máy bay đánh chặn F-102A Delta Dagger đến căn cứ không quân Tân Sơn Nhứt từ căn cứ Clark AB trên cơ sở luân phiên để canh phòng tre6nn không cho Khu vực Sài Gòn trong trường hợp Bắc Việt không kích. Những chiếc F-102 và TF-102 (phiên bản huấn luyện hai chỗ ngồi) ban đầu được triển khai đến Tân Sơn Nhứt vì các vị trí radar mặt đất chỉ phát hiện máy bay nhỏ xâm nhập không phận miền Nam Việt Nam.
F-102, một máy bay đánh chặn chiến đấu cơ trần cao, siêu thanh được thiết kế để đánh chặn máy bay ném bom Liên Xô được giao nhiệm vụ đánh chặn, xác định và, nếu cần, phá hủy máy bay nhỏ, bay từ cấp độ ngọn cây đến 2000 ft ở tốc độ thấp hơn tốc độ cất cánh của F-102. TF-102, sử dụng hai phi công với một người chỉ đóng vai trò là người điều khiển radar đánh chặn, được coi là an toàn và hiệu quả hơn là máy bay đánh chặn tầm thấp. Những chiếc T / F-102 sẽ thay thế cho các máy bay AD-5Q của Hải quân Hoa Kỳ.
Những chiếc T / F-102 sẽ thay thế cho các AD-5Q của Hải quân Hoa Kỳ. Vào tháng 5 năm 1963 do quá đông tại căn cứ và xác suất không kích thấp của các cuộc tấn công không quân nên các máy bay T / F-102 và AD-5Q đã bị rút về căn cứ Clark AB từ nơi họ được triển khai để đến Tân Sơn Nhứt trong thông báo 12 giờ - 24 giờ.
Sau sự cố Vịnh Bắc Bộ, 6 chiếc F-102 từ Phi đoàn tiêm kích 16 đã được triển khai đến sân bay.
Trước khi sự luân chuyển kết thúc vào tháng 7 năm 1970, các phi công và máy bay F-102 từ các phi đội Viễn Đông khác đều được sử dụng để triển khai.

Cứu hộ trên không






Vào tháng 1 năm 1962, 5 nhân viên của USAF từ Trung tâm Cứu hộ Không quân Thái Bình Dương đã được chỉ định đến căn cứ để thành lập Trung tâm Tìm kiếm và Cứu nạn, mà không có bất kỳ máy bay nào được giao, họ phụ thuộc vào sự hỗ trợ từ các cố vấn của Quân đội Hoa Kỳ trong bốn vùng chiến thuật của quân đội Nam Việt Nam để sử dụng Máy bay trực thăng của Quân đội và Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ. Vào tháng 4 năm 1962, đơn vị được chỉ định là Đội 3, Trung tâm Cứu hộ Không quân Thái Bình Dương.
Vào ngày 1 tháng 7 năm 1965, Đội 3 đã được tổ chúc lại thành Phi đội Cứu hộ Không quân số 38 và hoạt động với trụ sở tại sân bay và tổ chức để kiểm soát các đội tìm kiếm và cứu hộ hoạt động từ các sân bay ở Nam Việt Nam và Thái Lan. Biệt đội 14, một đon vị cứu hộ sân bay, sau đó được thành lập tại sân bay.
Vào ngày 8 tháng 1 năm 1966, Nhóm 3d Aerospace Recovery được thành lập tại căn cứ để kiểm soát các hoạt động tìm kiếm và cứu hộ trên các nơi giao chiến.
Vào ngày 1 tháng 7 năm 1971, toàn bộ 38th ARRS đã ngưng hoạt động. Các máy bay trực thăng cứu hộ địa phương và phi hành đoàn của họ sau đó trở thành biệt đội của đơn vị chủ quản, Nhóm 3d Aerospace Recovery.
Tháng 2/1973, Nhóm 3d Aerospace Recovery rời Tân Sơn Nhứt AB và chuyển đến Căn cứ Hải quân Hoàng gia Nakhon Phanom.

Các đơn vị hỗn hợp khác
Vào tháng 4 năm 1964, 5 máy bay cảnh báo sớm EC-121D bắt đầu đưa vào sân bay.
Vào tháng 6 năm 1964, Đội 2, Phi đoàn tiếp nhiên liệu 421 được trang bị máy bay tiếp nhiên liệu trên không KB-50 được triển khai đến căn cứ để hỗ trợ các hoạt động của chiến dịch Yankee Team trên đất Lào.
Vào tháng 4 năm 1965, một phân đội của Phi đoàn Trinh sát Chiến thuật số 9 gồm 4 máy bay RB 66B và 2 máy bay EB 66C đã đến sân bay. Các máy bay RB 66B được trang bị thiết bị cảm biến hồng ngoại và chụp ảnh đêm và bắt đầu các nhiệm vụ trinh sát ở miền Nam Việt Nam, trong khi các máy bay EB 66C bắt đầu các nhiệm vụ bay chống lại radar phòng không Bắc Việt. Đến cuối tháng 5, hai chiếc EBC 66C khác đã đến sân bay và tất cả sau đó được triển khai lại cho căn cứ không quân Hoàng gia Thái Lan Takhli.
Giữa tháng 5 năm 1965, sau thảm họa tại Biên Hòa, 10 máy bay ném bom B-57 còn an toàn đã được chuyển đến Tân Sơn Nhứt AB và tiếp tục bay các loại trên quy mô giảm cho đến khi máy bay thay thế đến từ Clark AB. Tháng 6 năm 1965, những chiếc B-57 lại được chuyển từ Tân Sơn Nhứt AB sang Đà Nẵng AB.
Vào ngày 8 tháng 10 năm 1965, Phi đoàn trực thăng thứ 20 được trang bị 14 máy bay trực thăng CH-3 đang hoạt động tại dân bay,đã chuyển đến căn cứ không quân Nha Trang vào ngày 15 tháng 6 năm 1966.

N33rd Tactical Group





Máy bay RF 101Cs của N33rd Tactical Group tại TSN, 1965

Vào ngày 8 tháng 7 năm 1963, các đơn vị tại căn cứ được tổ chức thành nhóm chiến thuật 33, với các đơn vị trực thuộc là Phi đoàn không quân 33, Phi đoàn bảo trì máy bay hợp nhất 33 và các phần tử trinh sát 1. Nhiệm vụ của Tập đoàn là duy trì và vận hành các đơn vị hỗ trợ tại Tân Sơn Nhứt, hỗ trợ Sư đoàn 2 Không quân và các đơn vị trực thuộc bằng cách thực hiện trinh sát.

                                                                                                         (Tiếp Theo)

Thứ Bảy, 9 tháng 2, 2019


Tôi có đưa bài về lịch sử hình thành sân bay Tân Sơn Nhứt. Hôm nay tôi dưa tiếp vấn đề này, đề cập tương đối chi tiết về căn cứ quân sự của VNCH và Mỹ nằm trong sân bay Tân Sơn Nhứt trong thời gian chiến tranh Việt Nam. Bài này dịch từ trang https://www.revolvy.com/main/. Những từ tiếng Anh dịch sang tiếng Việt nói về các đơn vị không quân VNCH có thể không chính xác như thường gọi, xin các độc giả thông cảm.



CĂN CỨ KHÔNG QUÂN TÂN SƠN NHỨT





Căn cứ không quân Tân Sơn Nhứt (1955 -1975) là một căn cứ của Không quân Việt Nam Cộng hòa (RVNAF). Nằm gần thành phố Sài Gòn ở miền Nam Việt Nam. Hoa Kỳ đã sử dụng nó như một căn cứ chính trong Chiến tranh Việt Nam (1959 - 1975), làm vị trí đóng quân cho các lực lượng Lục quân, Không quân, Hải quân và Thủy quân lục chiến ở đó. Sau sự sụp đổ của Sài Gòn, nó được tiếp quản như một căn cứ của Không quân Nhân dân Việt Nam (VPAF) và vẫn được sử dụng cho đến ngày nay.
Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất, (IATA: SGN, ICAO: VVTS) là một sân bay dân dụng lớn của Việt Nam từ những năm 1920.

Lịch sử ban đầu
Sân bay Tân Sơn Nhất được người Pháp xây dựng vào những năm 1920 khi đó chính quyền thuộc địa Đông Dương của Pháp xây dựng một sân bay nhỏ không trải nhựa, được gọi là sân bay Tân Sơn Nhất, tại làng Tân Sơn Nhất để làm sân bay thương mại cho Sài Gòn. Các chuyến bay đến và đi từ Pháp, cũng như trong khu vực Đông Nam Á đã có sẵn trước Thế chiến II. Trong Thế chiến II, Quân đội Đế quốc Nhật Bản đã sử dụng Tân Sơn Nhất làm căn cứ vận tải. Khi Nhật Bản đầu hàng vào tháng 8 năm 1945, Không quân Pháp đã đem một đội quân gồm 150 binh sĩ vào Tân Sơn Nhất.
Sau Thế chiến II, Tân Sơn Nhất phục vụ các chuyến bay nội địa cũng như quốc tế từ Sài Gòn.
Vào giữa năm 1956, việc xây dựng một đường băng dài 7.200 feet (2.200 m) đã được hoàn thành và Cơ quan Hợp tác Quốc tế đã sớm bắt đầu công việc trên một đường băng bê tông 10.000 feet (3.000 m). Sân bay được điều hành bởi Cục Hàng không Dân dụng Nam Việt Nam và cùng với Quân đội VNCH với tư cách là người thuê nhà nằm ở phía tây nam của sân bay.
Năm 1961, chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã yêu cầu Nhóm Cố vấn Hỗ trợ Quân sự Hoa Kỳ (MAAG) lên kế hoạch mở rộng sân bay Tân Sơn Nhứt. Một đường taxiway (đường băng rước khách và khởi động) song song với đường băng ban đầu vừa được Công ty E.V. Lane bàn giao cho U.S. Operations Mission, nhưng cần có khu đỗ xe và kết nối với đường taxiway. Dưới sự chỉ đạo của Hải quân Hoa Kỳ cơ quan Officer in Charge of Construction RVN, các hạng mục này được xây dựng bởi công ty xây dựng của Mỹ RMK-BRJ trong năm 1962. RMK-BRJ cũng đã xây dựng một trạm radar điều khiển không lưu vào năm 1962, và các nhà ga hành khách và hàng hóa vào năm 1963. Năm 1967, RMK-BRJ đã xây dựng đường băng bê tông 10.000 feet thứ hai.

Không quân Việt Nam Cộng hòa sử dụng


Tân Son Nhứt năm 1962


Douglas DC 8B vận chuyển khách VIP của phi đoàn 314 không quân Việt Nam


Cuối năm 1951, Không quân Pháp thành lập Phi đoàn đặc nhiệm số 3 của Không quân Việt Nam Cộng hòa tại sân bay Tân Sơn Nhất được trang bị với máy bay liên lạc Morane 500 Criquet.
Năm 1952, một sân bay trực thăng đã được thành lập tại căn cứ để sử dụng cho các máy bay trực thăng y tế của Không quân Pháp.
 Năm 1953, Tân Sơn Nhứt bắt đầu được sử dụng làm căn cứ không quân cho Không quân Việt Nam Cộng hòa non trẻ, và năm 1956, bộ chỉ huy được chuyển từ trung tâm Sài Gòn đến Tân Sơn Nhứt. Nhưng ngay cả trước thời điểm đó, máy bay quân sự của Pháp và Việt Nam đã có mặt tại Tân Sơn Nhứt.
Vào ngày 1 tháng 7 năm 1955, Phi đoàn vận tải số 1 của Không quân Việt Nam Cộng hòa được thành lập và trang bị máy bay C-47 Skytrainswas. Không quân Việt Nam Cộng hòa cũng có một phi đoàn đặc nhiệm tại căn cứ được trang bị 3 máy bay C-47, 3 máy bay C-45 và 1 máy bay L-26. Phi đoàn vận tải số 1 được đổi tên thành Phi đoàn vận tải hàng không 413 vào tháng 1 năm 1963.
Vào tháng 6 năm 1956, Phi đoàn Vận tải 2 trang bị máy bay C-47 được thành lập tại căn cứ và Không quân VNCH cũng thành lập bộ chỉ huy tại đây. Về sau đổi tên thành Phi đoàn Vận tải Hàng không số 415 vào tháng 1 năm 1963.
Vào tháng 11 năm 1956, theo thỏa thuận với chính phủ Nam Việt Nam, USAF đảm nhận một số vai trò huấn luyện và hành chính của Không quân VNCH. Việc bàn giao đầy đủ trách nhiệm đào tạo diễn ra vào ngày 1 tháng 6 năm 1957 khi hợp đồng đào tạo của Pháp hết hạn.
Vào ngày 1 tháng 6 năm 1957, Phi đoàn Trực thăng số 1 của Không quân VNCH được thành lập tại căn cứ không có thiết bị. Phi đoàn hoạt động với đơn vị Không quân Pháp phục vụ Ủy ban Kiểm soát Quốc tế và vào tháng 4 năm 1958 với sự ra đi của Pháp, nó đã kế thừa 10 máy bay trực thăng H-19.
Vào tháng 10 năm 1959, Phi đoàn Liên lạc thứ 2 được trang bị máy bay L-19 Bird Dogsmond đến căn cứ từ Nha Trang.
Vào giữa tháng 12 năm 1961, không quân Mỹ đã bắt đầu chuyển giao 30 máy bay T-28 Trojans cho Không quân VNCH tại Tân Sơn Nhứt.
Vào tháng 12 năm 1962, phi đội trực thăng 293 bắt đầu hoạt động tại căn cứ, và chấm dứt hoạt động vào tháng 8 năm 1964.
Cuối năm 1962, Không quân VNCH thành lập Phi đoàn Trinh sát hỗn hợp 716 ban đầu được trang bị 2 máy bay trinh sát chụp ảnh C-45.
Vào tháng 1 năm 1963, USAF đã mở một cơ sở huấn luyện phi công trực thăng H-19 tại căn cứ và đến tháng 6, các phi công trực thăng đầu tiên của Không quân VNCH đã tốt nghiệp.
Vào tháng 1 năm 1963, Phi đoàn Trực thăng 211 được trang bị trực thăng UH-34 và thay thế Phi đoàn Trực thăng số 1.
Vào tháng 12 năm 1963, Phi đoàn Trinh sát hỗn hợp 716 đã hoạt động tại căn cứ, được trang bị máy bay C-47 và T-28. Phi đoàn chấm dứt hoạt động vào tháng 6 năm 1964 và nhiệm vụ của phi đoàn này do Sư đoàn 2 Không quân đảm nhận, trong khi các phi công phi đoàn này đã thành lập Phi đoàn tiêm kích 520 tại căn cứ không quân Biên Hòa.
Vào tháng 1 năm 1964, tất cả các đơn vị Không quân VNCH tại căn cứ đều nằm dưới sự kiểm soát của không đoàn chiến thuật thứ 33 mới thành lập.
Đến giữa năm, Không quân VNCH đã tăng lên mười ba phi đội; bốn máy bay chiến đấu, bốn máy bay quan sát, ba máy bay trực thăng và hai máy bay vận tải C-47. Q Không quân VNCH theo sát hoạt động thực tiễn của Không quân Hoa Kỳ, tổ chức các phi đội thành không đoàn, với mỗi không đoàn nằm ở bốn khu vực chiến thuật là Căn cứ Không quân Cần Thơ, Tân Sơn Nhứt AB, Căn cứ Không quân ở Đà Nẵng.
Vào tháng 5 năm 1965, máy bay Douglas A-1 Skyraider trang bị Phi đoàn tiêm kích 522 được đưa vào tại căn cứ.

Trung tâm chỉ huy và kiểm soát
Là bộ chỉ huy của Không quân Việt Nam, Tân Sơn Nhứt chủ yếu là một căn cứ chỉ huy, với hầu hết các đơn vị hoạt động sử dụng căn cứ không quân Biên Hòa gần đó.
Tại Tân Sơn Nhứt, hệ thống chỉ huy và kiểm soát của Không quân Việt Nam đã được phát triển qua nhiều năm với sự hỗ trợ của USAF. Hệ thống xử lý luồng máy bay từ cất cánh đến khu vực mục tiêu và quay trở lại căn cứ mà nó được phóng từ cất cánh. Đây được gọi là Hệ thống kiểm soát không quân chiến thuật (TACS), và nó đảm bảo kiểm soát tích cực tất cả các khu vực nơi các hoạt động chiến đấu quan trọng được thực hiện. Nếu không có hệ thống này, Không quân Việt Nam sẽ không thể triển khai lực lượng của mình một cách hiệu quả khi cần thiết.
TACS rất gần với trụ sở của lực lượng Không quân Việt Nam và USAF ở miền Nam Việt Nam, và các chỉ huy của cả hai Lực lượng Không quân đã sử dụng các cơ sở này. Đơn vị của TACS là Trung tâm hỗ trợ không quân trực tiếp (DASC) được chỉ định cho từng khu vực quân đoàn (I DASC - Đà Nẵng AB, DASC Alpha - Căn cứ không quân Nha Trang, II DASC - Pleiku AB, III DASC - Biên Hòa AB, và IV - Cần Thơ AB). Các DASC chịu trách nhiệm triển khai các máy bay nằm trong khu vực của họ để hỗ trợ các hoạt động trên mặt đất.
Hoạt động dưới sụ điều hành của DASC là nhiều nhóm kiểm soát không quân chiến thuật (TACPs), được điều khiển bởi một hoặc nhiều nhân viên của Không quân Việt Nam / USAF, phối hợp cùng với lực lượng mặt đất của Quân đội Nam Việt Nam (ARVN). Một mạng lưới thông tin liên lạc đã liên kết ba cấp chỉ huy và kiểm soát này, cho phép TACS kiểm soát tổng thể tình hình không quân miền Nam mọi lúc.
Thông tin bổ sung được cung cấp bởi một mạng lưới radar bao trùm toàn bộ miền Nam Việt Nam và xa hơn nữa, giám sát tất cả các máy bay tấn công.
Một chức năng khác của căn cứ không quân Tân Sơn Nhứt là một trung tâm tuyển dụng của Không quân Việt Nam.

Sử dụng căn cứ trong cuộc đảo chánh
Căn cứ này nằm cạnh trụ sở của Bộ Tổng tham mưu miền Nam Việt Nam, và là một địa điểm quan trọng trong nhiều cuộc đảo chánh quân sự, đặc biệt là cuộc đảo chánh năm 1963 đã phế truất Tổng thống đầu tiên của quốc gia là Ngô Đình Diệm. Những kẻ âm mưu đã mời các sĩ quan trung thành đến một cuộc họp ăn trưa thường lệ tại JGS và bắt họ vào chiều ngày 1 tháng 11 năm 1963. Đáng chú ý nhất là Đại tá Lê Quang Tung, chỉ huy trung thành của Lực lượng đặc biệt QLVNCH, thực sự là một đội quân riêng của Ngô Đình Diệm,  Ngô Đình Nhu và phụ tá của ông, Lê Quảng Trịệu. Sau đó, Đại úy Nguyễn Văn Nhung, vệ sĩ của thủ lĩnh đảo chánh, Tướng Dương Văn Minh, bắn anh em họ Ngô ở rìa căn cứ.
Vào ngày 14 tháng 4 năm 1966, một cuộc tấn công bằng súng cối của Việt Cộng vào sân bay đã phá hủy 2 máy bay của Không quân Việt Nam và giết chết 7 quân nhân  của USAF và 2 quân nhân Không quân Việt Nam.
Sân bay đã bị Việt Cộng tấn công trong một cuộc tấn công bằng súng cối và súng cối vào sáng ngày 4 tháng 12 năm 1966. Cuộc tấn công bị đẩy lùi và 3 quân nhân Mỹ và 3 quân nhân  quân đội VNCH bị giết và 28 VC bị giết và 4 bị bắt.

  
Các nữ nhân viên của quân đội VNCH trao đổi với cố vấn đại úy Maty A. Mash
 tháng  6 năm 1968.

(Còn Tiếp)

  Tết Sài Gòn trăm năm trước ra sao?   Biết những gì xảy ra trong quá khứ xa xưa dường như là mơ ước muôn đời của con người. Bởi trong c...