Sài Gòn chỉ còn trong
nỗi nhớ (tiếp theo)
Tôi gởi đến các
bạn bài viết về vùng Đa Kao của Lâm Vĩnh Thế. Bài này dành cho những bạn đã một
thời sinh sống ở nơi đây.
ĐaKao: Một Trung Tâm Văn Hóa
Lâm Vĩnh Thế
Trước năm 1975,
vùng Đakao thuộc Quận I của thủ đô Sài Gòn. Trong thời Pháp thuộc, vùng này có tên là Đất Hộ. Tuy hiện
nay chưa có những tài liệu nghiên cứu nghiêm chĩnh và có hệ thống về lịch sử
của vùng đất nầy khiến ta không rõ về nguồn gốc của địa danh nhưng có thể khẳng
định đây là một trong những vùng đất được khai thác từ lâu đời nhất của Saigon,
có lẻ đã trên một trăm năm. Một bằng chứng cụ thể là Chùa Ngọc Hoàng, ở đường
Phạm Đăng Hưng, theo sách "Saigon Năm Xưa" của cố học giả Vương Hồng
Sển, nguyên Giám Đốc Viện Bảo Tàng Saigon, đã được xây cất từ năm 1905. Điều
nầy có thể giải thích phần nào do vị trí nằm sát Rạch Thị Nghè, một nhánh của
Sông Saigon, một trục giao thông quan trọng, nhất là trong giai đoạn mới bắt
đầu khai thác của thực dân Pháp. Với vị thế là một vùng đất xưa,
Đakao đã có một đời sống văn hóa khá đậm nét về nhiều mặt. Một điều đặc biệt
cần lưu ý là khu Đakao, so với phần lớn những khu vực khác trong thành phố
Saigon, có một mật độ rất cao về cơ sở văn hóa.
Các Cơ Sở Giáo Dục
Trước hết xin nói về các cơ sở của Bộ Giáo Dục. Hầu hết
các bộ phận đầu nảo của Bộ đều tọa lạc trong khu Đakao. Trụ sở của Bộ Giáo Dục,
với các bộ phận trực thuộc như Nha Du Học, Nha Kế Hoạch, đều nằm tại khu vực
ngả tư Lê Thánh Tôn và Hai Bà Trưng. Hai bộ phận khác cũng rất quantrọng của Bộ
là Tổng Nha Trung, Tiểu Học và Bình Dân Giáo Dục, và Nha Khảo Thí đều tọa lạc
tại đường Nguyễn Bĩnh Khiêm, đối diện với Sở Thú. Nha Kỹ Thuật và Mỹ Thuật Học
Vụ thì được đặt tại đường Mạc Đĩnh Chi, đối diện với Nha Khí Tượng. Ty Tiểu Học
Saigon thì nằm trong khuôn viên của Trường Nữ Tiểu Học Đakao, trên đường Phan
Đình Phùng, đối diện với Phòng Thí Nghiệm Vi Trùng Học.
Về các trường đại
học, sau cuộc đão chánh 1-11-1963, thành Cộng Hòa, nơi đồn trú của Lữ Đoàn
Phòng Vệ Phủ Tổng Thống, đã được biến thành trụ sở của hai trường Văn Khoa và
Dược Khoa. Về sau Trường Nông Lâm Súc cũng được đưa về đây luôn. Hai Trường
Luật Khoa, nằm trên đường Duy Tân, và Kiến Trúc, nằm gần ngả tư Duy Tân và Phan
Đình Phùng, cũng như trụ sở của Viện Đại Học Saigon, nằm ngay tại Công Trường
Chiến Sĩ (mà sau năm 1975 dân chúng Saigon thường gọi là Hồ Con Rùa), bên cạnh
trường Luật Khoa, cũng có thể xem là thuộc khu Đakao.
Thành Cộng Hòa, đường Cường Để với
các trường đại học. Trước đảo chính 1/11/1963 không có đoạn đường này
Về các trường trung học công lập, thì phải kể ngay đến
trường nam Võ Trường Toản, và trường nữ Trưng Vương, nằm ngay bên cạnh Tổng Nha
Trung, Tiểu Học và Bình Dân Giáo Dục. Trong thời Pháp thuộc, tại địa điểm nầy
là Ecole Normale (Trường Sư Phạm) đào tạo giáo viên tiểu học cho cả Nam Kỳ. Cả
hai trường Võ Trường Toản và Trưng Vương đều là trường trung học đệ nhị cấp
(sau 1975, chính quyền mới gọi là trường phổ thông cấp ba), dạy đến lớp đệ
nhứt, tức là lớp đi thi bằng cấp Tú Tài II. Ngoài ra, tại đường Hồng Thập Tự,
ngó ngay ra ngả ba với đường Phùng Khắc Khoan, từ thập niên 60 trở đi, ta còn
thấy có trường Trung Học Kỹ Thuật Nguyễn Trường Tộ. Trường nầy chỉ
là một trường trung học đệ nhất cấp mà thôi.
Về các trường trung học tư thục, thì khu Đakao tập trung
phần lớn các trường nổi tiếng của Saigon. Vào đầu thập niên 50, khi chương
trình Pháp vẩn còn được giảng dạy song song với chương trình Việt, thì phải kể
đến hai trường quan trọng là trường Vương Gia Cần, nằm trong một biệt thự có
lầu ở đường Phan Thanh Giản, đối diện với ngả ba Phan Kế Bính, và trường Les
Lauriers, ở đường Mạc Đĩnh Chi, giữa ngả ba Phan Thanh Giản và ngả tư Tự Đức,
sau dời về đường Đinh Công Tráng, gần ngả ba Lý Trần Quán, và đổi tên là trường
Tân Thịnh. Các trường dạy chuyên về chương trình Việt thì quan trọng nhứt phải
kể đến trường Huỳnh Khương Ninh, nằm trên đường D'Ariès, gần đầu ngả ba với
đường Paulin Vial. Trường nầy có từ rất lâu đời, gồm một dãy nhà hai tầng khang
trang, dạy cả tiểu học và trung học, điều hành bởi một ban giám đốc và giảng
huấn có khả năng, tận tâm và yêu nghề, và đặc biệt là có tinh thần yêu nước
cao. Chính vì thế, trong thời Pháp thuộc, trường nầy đã là mục tiêu theo dõi
thường xuyên của mật thám Pháp. Sang thời Cộng Hòa, trường nầy cũng lại là nơi
tập trung một số cán bộ đảng viên của đảng Cộng Sản, nên cũng vẫn tiếp tục bị
theo dõi nghiêm nhặt bởi Tổng Nha Cảnh Sát. Sau ngày 30-4-1975,
vị Hiệu Trưởng của trường nầy đã được chính quyền quân quản đề cử
làm Giám Đốc đầu tiên của Sở Giáo Dục Thành phố Hồ Chí Minh. Kế đến là các
trường Huỳnh Thị Ngà, ở đường Trần Nhật Duật, và trường Việt Nam Học Đường, ở
cuối đường Đặng Tất. Sau thập niên 60, thì có thêm hai trường là trường Văn
Hiến, ở đường Trần Quang Khải, gần rạp chớp bóng Văn Hoa, và trường Tân Thanh,
ở đường Trần Quý Khoách, sau lưng trường Việt Nam Học Đường. Một trường trung
học tư thục nữa ở Đakao là trường Đông Tây Học Đường, nằm ở đường Hai Bà Trưng,
đối diện với ngả ba đường Tự Đức. Trường nầy chỉ sống được mấy năm vì ít học
sinh và vì kết quả giáo dục tương đối kém nên không cạnh tranh nổi với các
trường tư thục khác trong vùng. Ngoài ra cũng phải kể đến trường chuyên dạy Anh
ngữ đầu tiên của Saigon là Trường Anh ngữ Trần Gia Độ, nằm trên đường Phạm Đăng
Hưng, gần chùa Ngọc Hoàng (về sau là địa điểm của Vỏ dường Nhu đạo của Thích
Tọa Thích Tâm Giác). Tất cả các trường trung học tư thục nầy, dù
nhiều dù ít, đều đã có những đóng góp quan trọng vào việc giáo dục thanh thiếu
niên ở cấp trung học trong một thời gian dài, nhất là trong thập niên 50 (trước
19540) vì lúc đó tại Saigon chỉ có một trường trung học công lập duy nhất là
Lycée Pétrus Trương Vĩnh Ký ở mải tận trong khu Nancy, gần Chợ Lớn. Tất cả học
sinh Saigon, sau khi thi đậu bằng Tiểu Học, đều phải trải qua kỳ thi tuyển vào
trường Pétrus Ký. Năm 1953 khi tôi tham dự kỳ thi tuyển nầy, trường Pétrus Ký
chỉ lấy vào 550 học sinh cho 10 lớp Đệ Thất. Những học sinh rớt kỳ thi tuyển
nầy không còn cách nào khác hơn là phải theo học tại các trường trung học tư
thục.
Về các trường tiểu
học công lập, khu Đakao có hai trường, trường nam nằm trên đường Đinh Tiên
Hoàng, giữa hai đường Tự Đức và Nguyễn Thành Ý, và trường nữ, nằm trên đường
Phan Đình Phùng, cùng một địa điểm với Ty Tiểu Học Saigon. Tôi theo học trường
nam suốt bậc tiểu học, cho đến khi thi đậu vào trường Trung Học Pétrus Trương
Vĩnh Ký, nên đã có rất nhiều kỹ niệm với ngôi trường nầy. Tôi xin mở dấu ngoặc
ở đây để nói thêm vài điều về giáo dục tiểu học và ngôi trường nầy. Chương
trình giáo dục tiểu học lúc đó đã được chuyễn ngữ, dùng tiếng Việt để giảng
dạy, nhưng vẩn còn phải học môn Pháp văn. Tên gọi của các cấp lớp đều dùng cả
hai ngôn ngữ: Lớp Năm (nôm na gọi là Lớp Chót) - Cours Enfantin, Lớp Tư - Cours
Préparatoire, Lớp Ba - Cours Élementaire, Lớp Nhì - Cours Moyen, Lớp Nhứt -
Cours Supérieur, và Lớp Tiếp Liên - Cours Certifié. Về thi cử, hết Lớp Ba thì
phải qua một kỳ thi lấy văn bằng Sơ Đẳng Tiểu Học, đậu thì mới được lên Lớp
Nhì. Hết Lớp Nhứt thì phải đi thi lấy văn bằng Tiểu Học. Đậu bằng Tiểu Học rồi
thì mới được làm đơn xin dự kỳ thi tuyển vào Lớp Đệ Thất của trường Trung Học
Pétrus Ký. Những người thi rớt kỳ thi tuyển nầy, muốn năm sau thi
lại, thì xin vào học Lớp Tiếp Liên. Trong thời gian tôi theo học, trường nam
Tiểu Học Đakao có 2 lớp cho mổi cấp, trừ cấp Tiếp Liên chỉ có một lớp thôi. Xin
đóng dấu ngoặc lại ở đây.
Về các trường tiểu
học tư thục, khu Đakao có rất nhiều cơ sở như thế nhưng tôi không còn nhớ được
hết, nên chỉ xin kể ra đây những trường tôi còn nhớ được. Trường đầu tiên tôi
muốn nói đến là trường Quốc Học, không phải vì nó là trường lớn nhứt hay quan
trọng nhứt mà chỉ vì đó là ngôi trường tôi theo học đầu tiên trong đời. Đó là
cuối năm 1947, tôi mới được 6 tuổi, mẹ tôi đóng tiền cho tôi vào học Lớp Chót
tại trường nầy để chuẩn bị cho tôi năm sau sẽ xin vào trường Tiểu Học Đakao.
Ngôi trường nầy nằm ở đường Legrand de la Liraye (sau gọi là đường Phan Thanh
Giản), gần ngả tư với đường Albert 1er (Đinh Tiên Hoàng), ngay đằng sau tiệm hủ
tiếu của người Hoa ở ngả tư nầy. Trường nầy chỉ là một căn phố và có 3 lớp mà thôi,
một Lớp Chót, một Lớp Tư và một Lớp Ba. Tôi theo học tại trường nầy độ 5 hay 6
tháng gì đó mà thôi, đủ để biết đọc, biết viết, và thuộc cữu chương. Sau trường
nầy thì phải kể đến các trường nằm trên đường Paul Bert (Trần Quang Khải) mà
tôi chỉ còn nhớ tên được một trường mà thôi, đó là trường Lễ Văn (chắc là đặt
tên theo câu Tiên Học Lễ, Hậu Học Văn). Từ cuối thập niên 50 trở đi, mới thấy
xuất hiện các trường Mẫu Giáo, và khu Đakao cũng có hai cơ sở lớn và nổi tiếng,
đó là Trường Michelet, sau đổi tên là Rạng Đông, ở đường Hiền Vương, gần ngả ba
Lý Trần Quán, và Trường Mạnh Mẫu, nằm trong đường Lý Trần Quán.
Các Cơ Sở Tôn Giáo
Song song với cơ sở giáo dục như vừa kể qua ở trên, các
cơ sở tôn giáo trong vùng mới chính thật là nét văn hóa đặc thù của khu Đakao.
Trước hết xin nói về các ngôi đình. Tôi tin
rằng trong toàn thành phố Saigon không có khu vực nào có nhiều đình như khu
Đakao và tập trung trong một diện tích nhỏ hẹp như vậy.
Nội trên đường Trần Quang Khải thôi ta đã có đến 4 ngôi
đình. Ở khoảng đầu đường, đi vào từ ngả tư với đường Đinh Tiên
Hoàng, bên phải có một ngôi đình mà tôi không còn nhớ tên, ngôi đình nầy bề
ngoài trông như một căn phố, không có sân; cách đó chừng mười lăm mét, bên tay
trái là ngôi đình lớn nhứt trong toàn khu Đakao, đó là đình Nam
Chơn. Đình nầy có sân rất rộng, có cả một cây đa cổ thụ ngay ở
trước, phía bên trong vách tường bằng gạch ở mặt tiền. Chính dưới
bóng mát của cây đa nầy là các bàn hớt tóc mà tôi đã nhiều lần đến hớt tóc lúc còn nhỏ. Vào bên trong, toà nhà
của đình với điện thờ nằm bên tay trái, phần còn lại là một khoảng sân đất rất
rộng, đây là nơi dựng rạp khi cúng kỳ yên. Rạp được dựng lên bằng
vải và được sử dụng cho hai việc: ban ngày là nơi để cho khách đến cúng đình
ngồi nghĩ uống nước, ghi sổ cúng tiền, và chờ đợi đến phiên mình vào lể khi bên
trong điện đã quá chật, ban đêm trở thành rạp hát để trình diển các vở tuồng
hát bội. Sau đình Nam Chơn, ra đến gần ngả ba với đường Nguyễn Phi
Khanh, bên tay phải lại có một ngôi đình nhỏ nữa, tôi cũng không nhớ tên ngôi
đình nầy, chỉ nhớ ngôi đình nằm bên cạnh một con hẽm nhỏ, và là nơi đóng đô
thường trực của một đoàn hát bội nhỏ. Qua khỏi ngả ba Nguyễn Phi
Khanh, tại ngay ngả ba với đường Bà Lê Chân, là đình Phú Hòa, với cửa vào quay
ra đường Bà Lê Chân, chính tại đây có quán cà phê của nghệ sĩ cải lương lừng
danh Bảy Nhiêu. Đình Phú Hòa thường được các đoàn cải lương lớn dùng
làm nơi tập tuồng mới.
Trên đường Nguyễn Phi Khanh, ngay ngả ba với đường Huyền
Quan, gần ra tới ngả ba với đường Trần Quang Khải, cũng có một ngôi đình lớn là
đình Sơn Trà. Đình nầy chỉ nhỏ hơn đình Nam Chơn thôi, phía trước và
dọc theo cạnh đường Huyền Quan là hàng rào cây sống. Trước mặt tiền
của điện thờ cũng là một sân đất lớn và, cũng như đình Nam Chơn, đây là nơi dựng
rạp trong các dịp cúng kỳ yên. Chính tại ngôi đình nầy tôi đã được
mẹ tôi cho đi theo để coi những vở tuồng hát bội nổi tiếng của thời đó như
tuồng San Hậu, Huê Dung Đạo, Thần Nữ Dưng Ngủ Linh Kỳ, Trãm Trịnh Ân..., với
các cô đào hát bội một thời vang bóng như Cô Năm Đồ, Cô Cao Long Ngà ... Tôi
còn nhớ mãi cái không khí ngột ngạt của các đêm hát bội tại đây. Rạp
bằng vải bố, che không cao lắm, bên trong rạp rất chật, và nóng
bức. Sân khấu bằng gổ cũng không cao lắm, và gần như lúc nào cách
bài trí cũng giống nhau, dầu là cảnh nhà dân, nhà quan, hay cung vua, cũng chỉ
thấy có một cái bàn với hai cái ghế để ở hai bên, cả bàn và ghế đều có tấm phủ
mầu sắc đẹp. Ngay đưới sân khấu, chỉ có hai hay ba hàng đầu là để
ghế, các hàng còn lại toàn là băng gổ. Ngay trước cái ghế ở chính
giữa hàng ghế đầu có để một cái trống lớn, và người ngồi ở cái ghế đó thỉnh
thoảng cầm cây chầu đánh vào trống mấy cái thùng thùng. Về sau lớn lên tôi
mới biết đó là một vị chức sắc trong đình có nhiệm vụ "cầm chầu" để
làm cái việc đánh giá cách trình diển của các nghệ sĩ trên sân
khấu. Thỉnh thoảng người đi xem cũng tham gia vào việc tán thưởng
các nghệ sĩ bằng tiền, họ kẹp tiền vào các cây quạt xếp bằng giấy và liệng quạt
lên sân khấu. Đoàn hát luôn luôn có người phụ trách đi lượm các cây
quạt, gở tiền ra và mang quạt không trả lại cho khán
giả.
Trên đường Nguyễn Bĩnh Khiêm, ngay ngả tư với đường Tự
Đức, là đình Tân An, cũng là nơi đóng quân của một đoàn cải lương
nhỏ. Tôi không có kỹ niệm gì về ngôi đình nầy.
Ngoài ra khu Dakao còn cái đình nhỏ nữa. Đình
nầy nằm trong một con hẽm trổ ra gần nơi đường Đinh Tiên Hoàng gặp đường Hiền
Vương. Con hẽm nầy ăn thông ra đến đường Huỳnh Khương
Ninh. Tôi không còn nhớ tên ngôi đình nầy.
Như thế là trong một khu vực với diện tích chưa tới một
cây số vuông, ta có tất cả 7 ngôi đình. Nếu tính theo đường chim
bay, hai ngôi đình lớn nhứt trong khu Đakao, đình Nam Chơn và đình Sơn Trà,
cách nhau chưa tới hai trăm mét. Hồi còn nhỏ tôi hoàn toàn không nghĩ gì
về mật độ tập trung nầy của các ngôi đình trong vùng. Về sau lớn
lên, nhất là tôi lại học về ngành sử, nét văn hóa đặc thù nầy làm tôi thấy thắc
mắc nhiều. Vì thông thường mổi làng chỉ có một ngôi đình mà thôi,
làm nơi thờ thành hoàng bổn cảnh . Làng ở trong Nam lại thông thường
có diện tích rất lớn. Thật khó tin là khu vực nhỏ bé nầy của Đakao,
nơi quy tụ bảy ngôi đình nầy, ngày xưa là địa hạt của bảy cái
làng. Nhưng nếu không phải như vậy thì tại sao lại có tới bảy cái
đình. Tôi đã có dự định làm một cuộc nghiên cứu về các ngôi đình nầy
để tìm câu trả lời nhưng chưa bao giờ làm được vì nhiều lý do ngoài ý
muốn. Cho đến một hôm vào khoảng cuối năm 1974, rất tình cờ, thắc
mắc nầy của tôi đã được giải đáp một phần nào. Hôm đó tôi đi họp ủy
ban tại trụ sở của Hội Đồng Văn Hóa Giáo Dục (HĐVHGD) ở đường Trần Quý Khoách
mà tôi là một thành viên. Trong khi chờ họp, tôi ngồi trò chuyện với
cụ Đổ Văn Rở, Thứ Trưởng Bộ Văn Hoá Giáo Dục Đặc Trách Văn Hóa, Phó
Chủ Tịch Văn Hóa của HĐVHGD (ở nhiệm kỳ 2 nầy của HĐVHGD, 1974-1977, Chủ Tịch HĐVHGD
là Phó Tổng Thống Trần Văn Hương, Phó Chủ Tịch Giáo Dục của Hội Đồng là Giáo Sư
Trần Văn Tấn, Khoa Trưởng Đại Học Sư Phạm Saigon). Tôi không còn nhớ
chúng tôi đã khởi đầu câu chuyện như thế nào nhưng sau một hồi thì câu chuyện
xoay quanh các ngôi đình của vùng Đakao. Tôi chợt nhớ lại thắc mắc
của mình nên đem vấn đề ra hỏi cụ Rở. Không suy nghĩ gì cả, cụ nói
ngay ý nghĩ của cụ ra cho tôi nghe, và tôi nhận thấy cụ rất có lý, và đây có
thể là mấu chốt của vấn đề. Theo cụ Rở, những người đã dựng lên các
ngôi đình nầy là những di dân thuộc các làng chài lưới đánh cá từ miền nam
Trung phần vào. Tiếng địa phương gọi các làng chài nầy là các
Vạn. Vào đây rồi, khi đã ổn định thì họ lập đình để tiếp tục thờ
cúng các vị thành hoàng của họ. Mổi Vạn đều có thành hoàng riêng nên
bắt buộc họ phải lập đình riêng. Đó là lý do tại sao có quá nhiều
đình trong môt phạm vi nhỏ hẹp như thế. Cụ Rở đưa ra bằng chứng là
ngay tại vùng Đakao nầy có một xóm gọi là Xóm Vạn Chài. Xóm nầy nằm
sát bờ Rạch Thị Nghè, ngay phía sau khu vực trường Văn Hiến và rạp chớp bóng
Văn Hoa ở đường Trần Quang Khải sau nầy, gần như đối diện với đình Nam Chơn, và
cũng không cách đình Sơn Trà bao xa. Cho tới thập niên 50, lúc tôi
còn nhỏ, xóm nầy vẩn còn mang tên là Xóm Vạn Chài. Lý luận và bằng
chứng cụ Rở đưa ra khá vững, tôi nghĩ là bước kế tiếp cần thực hiện là nghiên
cứu các thần sắc (nếu còn) thờ trong các ngôi đình nầy, chắc chắn ta sẽ tìm
được gốc tích của những người đầu tiên đã lập ra các ngôi đình
nầy. Trong thâm tâm tôi tin rằng thuyết của cụ Rở là đúng.
Sau các ngôi đình, các cơ sở tôn giáo quan trọng khác của
khu Đakao là chùa Cô Hồn ở đường Trần Quang Khải, chùa Ngọc Hoàng ở đường Phạm
Đăng Hưng và Đền thờ Đức Trần Hưng Đạo ở đường Hiền Vương. Trong ba
cơ sở nầy, chùa Ngọc Hoàng là cổ nhứt. Ngay trong thập niên 50 lúc
tôi còn nhỏ thì chùa nầy đã có được nữa thế kỹ rồi. Chùa Ngọc Hoàng
có cơ sở khá lớn, cổng gạch, sân rộng và dài, lối đi lát gạch, bên trong sân có
nhiều cây cối. Vào hết phần sân ngoài rồi là lan can bằng gạch rồi
đến phần sân trong hoàn toàn lát gạch, có nhiều cây kiểng, và đặc biệt ở góc
bên tay phải có một hồ nhỏ nuôi rùa và cua đinh, mặt hồ hoàn toàn phủ rong
xanh, vách và thành hồ bằng đá cũng đầy rong rêu, trông rất cổ
kính. Trước khi vào bên trong chùa, hai bên cửa có hai tượng Ông
Thiện và Ông Ác to gần bằng người thật, đứng cầm gươm, màu sắc rực
rỡ. Bên trong chùa lúc nào cũng âm u và khói nhang nghi ngút, thú
thật tôi chỉ dám đứng ở ngoài cửa nhìn vào mà thôi, chưa bao giờ tôi dám bước
vào bên trong. Tôi chỉ thích đứng chồm mình vào thành cái hồ ngoài
sân để nhìn các chú rùa lâu lâu trồi lên mặt nước để thở. Chùa Cô
Hồn, cách không xa đình Phú Hòa, tuy gọi là chùa nhưng xem có vẻ giống cái đình
nhiều hơn, không biết cất từ năm nào, có cổng gạch và sân gạch, về sau dường
như có cho thuê phần sân để làm garage sửa xe hơi. Chùa Cô Hồn thì
tôi cũng có khá nhiều kỹ niệm. Đó là nơi hàng năm vào dịp Rằm Tháng
Bảy bọn con nít tụi tôi kéo tới xem cúng cô hồn, xem tượng Ông Tiêu làm bằng
hoa lá, với cái lưởi le dài ra, đỏ lòm trông đễ sợ, và cũng để chờ tiết mục hấp
dẫn nhứt sau khi chùa cúng xong: đó là màn màn nhào vô giựt bánh trái, giựt
tiền trong chùa liệng ra sân (gọi là thí cô hồn). Bánh trái thì đủ
loại, nào chuối, nào khoai, nào đậu phộng nấu, nào bánh cúng, bánh cấp, bánh
in, bánh ít. Còn tiền thì chỉ là bạc cắt, một cắt, hai cắt mà
thôi. Đền thờ Đức Thánh Trần là mới nhứt trong ba cơ sở tôn giáo
nầy. Đền được cất lên sau năm 1954, bên ngoài đường Hiền Vương nhìn
vào tưởng như chỉ là một căn phố với cổng sắt cao. Sau khi vào cổng
rồi là một lối đi lát gạch, bề ngang chỉ rộng độ ba mét, dài độ hơn mười
mét. Cuối lối đi nầy khách viếng thăm đền sẽ ngạc nhiên vô cùng khi
đối diện với một sân gạch rất rộng nằm xéo qua phía bên tay phải, sân nầy hình
chữ nhựt, mổi cạnh dài có đến trên hai mươi mét. Cuối sân đó là điện
thờ, nền lát gạch bông luôn luôn sạch bóng và sơn son thếp vàng rực
rỡ. Hàng năm đến ngày húy của Đức Thánh thì đồng bào đến lể đông vô
cùng, bên trong khói nhang nghi ngút và chiêng trống đánh vang rền.
Khu Đakao còn một cơ sở tôn giáo nữa, tuy nhỏ nhưng mang
nhiều nét độc đáo. Đó là Miểu Nổi. Đây là tên của người
địa phương đặt cho cơ sở tôn giáo nầy, tên chính thức của nó là gì thì tôi
không biết vì chưa bao giờ nghe nói đến. Đặt tên như thế vì đây là một cái
miểu cất trên một cái cù lao nhỏ trên rạch Thị Nghè (rạch Thị Nghè là tên gọi
trên bản đồ, người địa phương thì gọi là sông Cầu Bông). Có thể đến
Miểu Nổi bằng hai cách, hoặc theo một con hẽm nhỏ ở đường Trần Quang Khải, đi
xuyên qua hết khu xóm Vạn Chài, ra tới tận bờ sông rồi dùng đò qua miểu, hoặc
đi xuyên qua trại cưa Trần Pháp, ở dưới dốc Cầu Bông, về phía bên Bà Chiểu, độ
hơn 100 mét, ra bờ sông rồi cũng dùng đò qua miểu. Miểu là nơi thờ một vị
Thánh Mẫu, dân trong vùng thường chỉ gọi là Bà, nên cũng có khi người ta gọi cơ
sở tôn giáo nầy là Miểu Bà. Dân chúng trong vùng tin là Bà rất linh
thiêng, cầu xin gì cũng được, nên suốt năm lúc nào cũng có đông người đến cúng
vái, và vì thế Miểu Nổi lúc nào cũng ở trong tình trạng được chăm sóc, sơn phết
tươi tốt.
Về phần đạo Thiên Chúa, ngoài hai ngôi thánh đường lớn,
tuy không xa khu Đakao, nhưng khó có thể gọi là thuộc khu Đakao, Nhà Thờ Đức Bà
Saigon (về sau được Toà Thánh La Mã nâng cấp lên hàng Vương Cung Thánh Đường),
và Nhà Thờ Tân Định, còn phải kể đến các cơ sở đào tạo tu sĩ nằm trong khu
Đakao. Đó là Đại Chũng Viện Saigon và nhà Dòng Tu Kín, cả hai cơ sở
nầy đều nằm trên đường Cường Để.
Ngoài những cơ sở tôn giáo thuần túy như vừa trình bày ở
trên, khu Đakao còn có Đền thờ Quốc Tổ trong Thảo Cầm Viên (người Saigon thường
gọi là Sở Thú). Sau khi vào cổng chính của Thảo Cầm Viên, nhìn sang
phía tay phải ta thấy ngay đền thờ Quốc Tổ. Ngôi đền nầy có kiến
trúc rất độc đáo, vuông vức, mổi cạnh khoảng 10 mét, dựng trên một mô đất cao,
với mái cong, lợp ngói âm dương rất đẹp. Mổi phía đều có bậc thềm đá
dẩn lên đền, hai bên thềm có lan can hình rồng đúc xi măng và sơn phết rất
đẹp. Ngay trước mặt chính của đền là sân lát gạch, ỡ giữa có một bia
đá. Nhìn từ phía chính diện vào trong đền, bên tay phải, các đền
chừng 5 mét có một tượng voi bằng đồng đen, theo bảng đề bên cạnh thì tượng voi
nầy là do Vua Cao Miên tặng vào dịp khánh thành Sở Thú. Chung quanh
đền, bốn phía đều có cửa bằng gổ quý. Đền chỉ mở cửa cho khách viếng
vào ngày Chúa Nhựt thôi. Bên trong đền là điện thờ sắp xếp như trong
các ngôi đình, chia làm ba gian, với các giá dựng binh khí bằng đồng bóng
loáng. Hàng năm cứ đến ngày Giổ Tổ Hùng Vương đều có tổ chức lể rất
long trọng tại đây.
Các Cơ Sở Văn Hóa Khác
Ngoài các cơ sở giáo dục và tôn giáo vừa kể trên, khu
Đakao còn có nhiều cơ sở văn hóa quan trọng khác.
Trước hết, đáng kể nhứt là Thảo Cầm Viên Saigon, tức Sở
Thú. Tọa lạc trên một vùng đất rộng hàng chục mẫu, mặt tiền là đường
Nguyễn Bĩnh Khiêm, một cạnh là đường Hồng Thập Tự, và mặt sau chạy dọc theo
rạch Thị Nghè, Sở Thú là một trong những khu giải trí quan trọng của dân chúng
Saigon, nhứt là vào ngày Chúa Nhựt. Sở Thú thời Pháp thuộc gọi là
Jardin Botanique (nghĩa là vườn bách thảo), sang thời Cộng Hòa đổi ra tên Việt,
gọi là Thảo Cầm Viên, nhưng đối với người dân Saigon thì truớc sau vẩn gọi là
Sở Thú. Theo ý kiến riêng của tôi thì cả ba tên gọi nầy, hai tên chính thức,
một tên nôm na, đều không diển tả được hết nội dung của khu vườn
nầy. Tên Pháp thì hoàn toàn chỉ nói về cây cối là sai, vì trong vườn
có nuôi rất nhiều loại thú khác nhau. Tên Việt chính thức cũng không
hoàn toàn đúng vì chỉ nói đến cây cối và chim, bỏ ra ngoài các loài
thú. Tên Việt nôm na thì chỉ nói tới thú, bỏ qua hết cây cối, bông
hoa. Tuy nhiên phải công nhận một điều là tên Sở Thú có vẻ sát với
thực tế nhứt, vì phần đông khách vào Sở Thú là để xem thú nhiều hơn là xem cây
cối. Sau khi vào cổng chính, du khách sẽ thấy ngay trước mặt mình
một con đường tráng nhựa rất rộng xe hơi có thể chạy được, chia làm hai đường,
một đường để vào, một đường để ra, phần chính giữa còn khá rộng có những bồn
hoa đủ màu. Ngay đầu con đường nầy, bên tay phải là Đền Thờ Quốc Tổ
(đả kể ở trên), bên trái là Viện Bảo Tàng Saigon (sẽ nói đến
sau). Con đường nầy chạy dài, thẳng tắp độ 200 mét thì hết, đụng vào
con đường chạy dọc theo rạch Thị Nghè. Ngay tại ngả ba nầy là một
sân khấu lộ thiên nhỏ, có tam cấp đi lên, hai bên viền lại bằng các giàn bông
giấy đủ màu trắng, đỏ, và tím. Đây chính là nơi hòa nhạc công cộng
vào các ngày lể hay Chúa Nhựt để giúp vui cho du khách. Ở vào khoảng
giữa con đường lớn nầy có một ngả tư. Con đường cắt ngang, nếu ta rẽ
về bên tay phải, sẽ dẩn ta vào khu trung tâm của Sở Thú, nơi có chuồng khỉ, hầm
gấu, chuồng chim, két, và, đặc biệt nhất, là một hồ sen rất lớn, ở
giữa có nhà thủy tạ hình bát giác có cầu gổ từ trong bờ đưa ra. Hồ
sen nầy, từ thập niên 60 trở đi có nuôi nhiều cá chép Nhật Bản đủ màu rất
đẹp. Rời khu vực hồ sen ta sẽ đến khu chuồng cọp, sư tử và dã
nhân. Sau đó bọc vòng trở lại bờ sông thì có chuồng voi và
nai. Từ bờ sông gần chuồng voi có một cây cầu lớn dẩn qua khu Thị
Nghè. Chính trên cây cầu nầy đã xảy ra vụ tai nạn làm chết nhiều
người trong thời gian Hội Chợ Thị Nghè trong thời Đệ Nhứt Cộng
Hòa. Ngoài các loại thú, Thảo Cầm Viên cũng có trồng nhiều kỳ hoa dị
thảo, và có cả một khu nhà kiếng cho các loại phong lan.
Công trước Thảo cầm viên
Đền thờ vua Hùng trong Thảo cầm viên
Đến Thảo Cầm Viên mà không vào viếng Viện Bảo Tàng sẽ là
một điều đáng tiếc. Viện Bảo Tàng, như đã nói ở trên, nằm ngay bên
phía tay trái khi bước vào cổng chính của Sở Thú. Thời Pháp thuộc
Viện Bảo Tàng mang tên Pháp là Musée Blanchard de la Brosse. Trong
thời Cộng Hòa, cố học giả Vương Hồng Sển đã làm Giám Đốc viện trong khoảng 10
năm. Tôi xin mạn phép mở một đấu ngoặc nhỏ ở đây để ghi lại đôi dòng
kỹ niệm về vị thầy khả kính vừa khuất bóng. Năm thứ hai ở Đại Học Sư Phạm
Saigon, niên khóa 1961-1962, anh chị em Ban Sử Địa chúng tôi được may mắn học
môn sử Việt Nam với thầy Vương Hồng Sển. Ngoài việc dạy môn chính
khóa nầy, thầy còn kể cho chúng tôi nghe những nghiên cứu của thầy về đồ sứ men
lam Huế mà thầy là chuyên gia số một của thế giới. Tôi còn nhớ mãi
hai câu thơ thầy đã ngâm cho chúng tôi nghe khi nói về chiếc dĩa Mai Hạc:
"
Nghêu ngao vui thú yên hà
Mai
là bạn củ, Hạc là người quen"
Tôi xin được đóng dấu ngoặc lại ở đây. Xin mời
độc giả trở lại Viện Bảo Tàng. Viện Bảo Tàng là một toà nhà lớn,
dài, sơn trắng, xây trên một nền cao. Bên trong chia làm nhiều
phòng, mổi phòng dành riêng cho một giai đoạn lịch sử hay một nền văn minh, chủ
yếu là các cổ vật của nước ta và các quốc gia trong vùng như Chiêm Thành, Phù Nam,
Chân Lạp. Đáng chú ý nhứt có lẻ là phòng trưng bày các cổ vật của
nền văn minh Óc Eo, đào được tại Long Xuyên trong thập niên 40, đặc biệt là hai
đồng tiền cổ La Mã thời Hoàng Đế Marc Aurèle, chứng tỏ Vương Quốc Phù Nam xưa
đã có những trao đổi hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp (qua các thương nhân Ả Rập?)
với Đế Quốc La Mã.
Một cơ sở văn hóa quan trọng khác, trong đầu thập niên
60, là Viện Khảo Cổ, cũng nằm ngay trên đường Nguyễn Bĩnh Khiêm, đối diện với
Sở Thú (từ cuối thập niên 60 trở đi Viện Khảo Cổ mới dời về đường Gia Long, đối
diện với Bộ Kinh Tế). Khi tôi học năm thứ nhứt tại Đại Học Sư Phạm
Saigon, thầy dạy môn Phương Pháp Sử của chúng tôi là Giáo Sư Trương Bữu Lâm,
lúc đó là Giám Đốc Viện Khảo Cổ. Trong năm học thầy Trương Bữu Lâm
tổ chức cho anh chị em sinh viên chúng tôi vào viếng Viện để được nghe thuyết
trình về công tác của Viện, và chính tại đây tôi đã được lần đầu tiên nhìn thấy
tận mắt một chiếu chỉ của triều Lê Thánh Tôn, lồng kính treo trên tường trong
phòng làm việc của thầy.
Ngoài các cơ sở văn hóa quan trọng vừa nêu trên, khu
Đakao còn có khá nhiều rạp hát, cả cho bộ môn hát bội, cải lương và chiếu
bóng. Về môn hát bội thì rạp hát chính là những ngôi đình mà tôi đã
có kể qua ở phần trên. Về cải lương thì có rạp Thuận Thành ở đường
Paul Bert (Trần Quang Khải, về sau bị phá đi để xây rạp chiếu bóng Văn Hoa) là
nơi đóng quân của đoàn Phụng Hảo, và một rạp nữa trên cùng một đường mà tôi
không còn nhớ tên và là nơi đóng quân của đoàn Bích Thuận. Về chiếu bóng thì có
rạp ASAM và Casino Đakao cùng nằm trên đường Albert 1er (Đinh Tiên Hoàng), và
rạp Nam Tân trên đường Dr. Angier (Nguyễn Bĩnh Khiêm). Sang thập
niên 60 chỉ còn lại rạp Casino Đakao, sau năm 1975 đổi tên lại gọi là rạp Cầu
Bông.
Các Món Ăn Ngon Khu ĐaKao
Nói về văn hóa mà không nói đến các món ăn thì có phần
thiếu sót, vì ăn uống cũng là một phần khá quan trọng trong đời sống văn hóa
của một dân tộc.
Sau đây tôi xin lược kể ra các món ngon nổi tiếng của khu
Đakao. Trước hết xin kể về các món ăn của người Việt. Khu Đakao
nổi tiếng về các món ăn sau đây: cơm tấm, bánh cuốn, và bánh mì
thịt. Về cơm tấm thì có hai tiệm. Tiệm thứ nhứt nằm trong
đường Nguyễn Phi Khanh, không có bảng hiệu, nhưng khách ăn quen thường gọi là
Cơm Tấm Bà Ba Liên, theo tên bà chủ tiệm. Cơm tấm tiệm nầy ngon nhờ gạo
ngon, nấu khéo, hột cơm rời nhưng không khô, bì nhiều thịt ít da và luôn luôn
tươi (vì khách ăn tới đâu thì bà chủ mới xắc tới đó), và nước mắm thì pha đậm
(lại bằng nước mắm hạng ngon) nên không cần chan nhiều. Tiệm nầy chỉ
bán có hai loại, cơm tấm bì, và cơm tấm bì chả, miếng chả rất ngon vì chắc chớ
không bời rời và nhiều thịt cua. Dĩ nhiên tiệm cũng bán luôn cà phê
phin đen và sửa, nhưng cà phê nầy chỉ thuộc loại xoàng. Tiệm thứ nhì
theo tôi nhớ cũng không có bảng hiệu nhưng ai cũng gọi là Cơm Tấm Hiền Vương vì
nằm trên đường Hiền Vương, gần tới ngả tư Hai Bà Trưng. So với tiệm
Bà Ba Liên, cơm tấm tiệm nầy không ngon bằng, nhưng không khí và giá cả có vẻ
bình dân hơn. Cơm tấm tiệm nầy thì nhiều loại hơn, cơm tấm bì, cơm
tấm bì chả, cơm tấm bì hột gà, cơm tấm bì nem chiên. Miếng chả tiệm
nầy thì thua xa tiệm Bà Ba Liên, vì chỉ có trứng và thịt heo chớ không phải làm
bằng thịt cua. Món ngon của tiệm nầy chính là cơm bì nem chiên, với
mấy chiếc nem Lái Thiêu chiên mở vàng ngậy, thơm lừng. Cà phê tiệm
nầy thì uống cũng được mà không uống cũng không có điều gì đáng
tiếc. Về bánh cuốn thì phải nói là rất nổi tiếng, đó là bánh cuốn
Tây Hồ. Hàng bánh cuốn nầy thật ra không có tên, người ta gọi như
thế là vì lúc mới ra hàng nầy đặt cơ sở trong sân của Đền thờ Cụ Tây Hồ Phan
Châu Trinh ở bên cạnh chợ Đakao. Sau 1975, cửa hàng dời ra một căn
phố nhỏ đường Đinh Tiên Hoàng, gần ngả ba với đường Huỳnh Khương
Ninh. Bánh cuốn Tây Hồ ngon nhờ cuốn ăn liền tại chổ, bột rất mõng,
nhưn ngon vì làm bằng thịt heo tươi, trộn nấm mèo và củ hành xắc nhuyễn, nước
mắm chanh pha rất loãng nhưng vừa miệng nên có thể chan nhiều. Về
bánh mì thịt thì nổi tiếng nhứt là xe Bánh Mì Bảy Quan, đặt tại ngả ba Đinh
Tiên Hoàng và Huỳnh Khương Ninh. Nét đặc biệt của xe bánh mì nầy là
không bán vào buổi sáng, mà chỉ bán vào ban đêm, từ 6 giờ chiều trở
đi. Cái ngon của bánh mì Bảy Quan là một tổng hợp của nhiều đặc
điểm:1) bánh mì luôn luôn nóng dòn (do được nướng lại trên một cái lò than đằng
sau chiếc xe), 2) bánh mì được phết một lớp mõng sauce mayonnaise, 3) sau đó
được phết thêm lên trên một lớp ba tê gan, 4) thịt ba chỉ (cuộn lại, cột chặt
bằng dây, và có nhuộm phẩm đỏ bên ngoài) luôn luôn mới mổi đêm, và 5) kèm theo
là đồ chua (củ cải trắng và cà rốt xắc cộng dài và ngâm dấm), dưa leo và mấy
cọng ngò tàu tươi xanh. Về sau nhiều người cũng nhái theo công thức
nầy và ra nhiều xe bánh mì khác, cũng có tiếng, nhu Ba Lẹ, Bé Bự, nhưng vẩn
không tài nào giựt nổi khách của Bảy Quan.
Về món ăn Tây, thì khu Đakao, như có nói qua trong Phần
Thứ Nhứt về các con đường, có khá nhiều nhà hàng cơm Tây khá nổi tiếng, tất cả
đều nằm trên đường Albert 1er (Đinh Tiên Hoàng). Nhà hàng lâu đời
nhứt trong khu Đakao là nhà hàng Casino Đakao, đối diện với rạp chiếu bóng có
cùng tên, và cũng là nhà hàng cơm Tây đầu tiên của cả Saigon có bán Repas
Complet với ba món và với một giá tiền nhứt định. Các món nổi tiếng
của nhà hàng nầy là Soupe à l'Oignon, Poulet Marengo, và Homard
Thermidor. Soupe à l'Oignon (súp hành) dựng trong tô lớn bưng ra múc
vào dĩa cho khách, rất nóng, thành phần gồm có củ hành tây xắc khoanh và chiên
vàng, fromage Gruyère bào nhuyển, và mấy miếng ruột bánh mì, trong một thứ nước
súp rau cải ngọt lịm. Poulet Marengo (Gà Marengo) là một món gà
(thường là cái đùi) chiên vàng, thả vào trong một thứ nước sốt rất sệch có pha
sửa và có đủ thứ đồ bổi như cà rốt, khoai tây, và cà mấy khoanh bánh mì
nữa. Homard Thermidor (Tôm hùm Thermidor) là món tôm hùm làm bằng
thịt tôm hùm trộn với fromage, dồn trở lại vô vỏ tôm, rồi đút lò. Một
nhà hàng cơm Tây khác là Chez Albert thì nổi tiếng với hai món ngon, Salade
Russe au Crabe và Chateaubriand. Salade Russe au Crabe làm bằng các
loại cà rốt, khoai tây, đậu Hòa Lan, tất cả xắc vuông nhỏ, trộn sauce
mayonnaise và thịt cua, món nầy ăn rất ngon nhưng không ăn nhiều được vì quá
béo nên mau ngán. Chateaubriand là một loại steak cao cấp, làm bằng một
miếng thịt bò rất dầy, nhưng rất mềm, ăn kèm với khoai tây
chiên. Một nhà hàng cơm Tây nữa nổi tiếng với món Bouillabaisse là
nhà hàng La Cigale (Con Ve Sầu), ở gần ngả tư với đường Richaud (Phan Đình
Phùng). Bouillabaisse là món đồ biển, gồm có nhiều loại tôm, cá,
cua, ốc, mực, ăn với một loại nước chấm đặc biệt. Món nầy ngon hay
dở là do nước chấm đó, nghe nói làm rất công phu, món nầy xuất phát từ vùng
Marseille của Miền Nam nước Pháp. Một nhà hàng cơm Tây khác nữa là
nhà hàng Duy Ban, đối diện với Chez Albert, cũng nổi tiếng, nhưng có lẻ nổi
tiếng là do khung cảnh (rất lịch sự, trang nhã) hơn là món ăn, vì tôi không còn
nhớ món nào là món ngon của nhà hàng nầy cả.
Về món ăn của người Hoa thì dĩ nhiên, không nói ai cũng
biết, đó là mì Cây Nhản. Tiệm mì nầy mang cái tên dễ nhớ đó là vì
đặt cơ sở trong sân một ngôi nhà xưa, đối diện với trường Tiểu Học Đakao, có
một cây nhản rất lớn. Mì Cây Nhản ngon nhờ một thứ nước sốt đặc
biệt, làm bằng thịt heo xoay nhuyển, vừa ngọt, vừa béo, vừa
thơm. Sau khi nấu mì xong cho vào tô, trước khi đổ nước lèo vào, thì
nước sốt nầy được chan một ít lên trên mặt vắt mì. Nước sốt nầy như
thế sẽ thấm vào cọng mì, và sau đó tan vào trong nước lèo luôn, làm thành cái
vị đặc biệt mà không có tiệm mì, xe mì nào có được. Tiềm mì nầy, sau
năm 1975, dời ra ngoài xa lộ, cách cầu Phan Thanh Giản chừng vài trăm mét.
Đường Đinh Tiên Hòang hướng về đường Hiền Vương và rạp Casino Đa Kao
Đọan từ cầu Phan Thanh Giản về ngả tư Đinh Tiên Hòang - Phan Thanh Giản
Nói đến chuyện ăn uống ở Đakao mà không nói đến tiệm Cà
phê Thái Chi sẽ là một thiếu sót lớn. Dân sành điệu chuyên uống cà
phê phin ở Đakao, và có lẻ một phần khá lớn dân ghiền cà phê phin của Saigon,
ai mà không biết tiệm cà phê Thái Chi nầy. Nằm ngay sát đầu đường
Nguyễn Phi Khanh, tiệm cà phê nầy đặt cơ sở trong một căn phố nhỏ xíu, bề ngang
chừng hơn ba mét, còn bề sâu vô chắc chừng hơn hai mét thôi, trong tiệm chỉ đặt
được chừng ba hay bốn cái bàn gổ nhỏ, thấp lè tè, ghế thì toàn là ghế
đẩu. Tuy nhiên đừng vì cái bề ngoài lôi thôi nầy mà bị lầm. Cà
phê phin tiệm nầy có thể xếp vào hàng ngon nhứt của cả thành phố Saigon, theo ý
kiến riêng của cá nhân tôi, thì còn ngon hơn cả cà phê phin Gió Bắc một thời
lừng danh ở đường Phan Đình Phùng, trong khu Bàn Cờ. Chủ nhân là một
cặp vợ chồng sồn sồn (hồi thập niên 60, bây giờ không biết còn sống hay không)
người Bắc di cư năm 1954 không có con cái gì cả. Cà phê tiệm nầy
ngon nhờ làm toàn bằng cà phê loại ngon của Ban Mê Thuột, do chính chủ nhân
rang, ướp, và xay một cách đặc biệt nên hương vị vô cùng đậm đà, khi phục vụ
khách thì dùng những phin rất tốt, pha thật đậm đặt, nên uống vô thì
"phê" vô cùng. Tiệm nầy hiện nay vẩn còn ngay tại địa điểm
nầy, nhưng khách thì đông hơn gấp bội, vì tiệm bày thêm rất nhiều bàn ra ngoài
lề đường luôn. Điều nầy đã một lần nữa xác định tiệm Cà phê Thái Chi
của khu Đakao quả là "danh bất hư
truyền".
Thay Lời Kết
Qua sự trình bày trên chắc bạn đọc cũng khó mà không đồng
ý với tôi rằng khu Đakao quả thật là một trong những cái nôi văn hóa quan trọng
của thành phố Saigon. Nó là một trong những vùng đất được định cư từ
lâu đời nhứt của Saigon, với một mật độ tập trung văn hóa rất cao về nhiều mặt:
giáo dục, tôn giáo, bảo tàng, văn nghệ, và cả ẩm thực nữa. Ước mong
sau nầy sẽ có những công trình địa phương chí nghiên cứu nghiêm chĩnh vùng đất
nầy để trả lời cho những thắc mắc mà đến nay vẩn chưa được giải đáp thỏa đáng
như: nguồn gốc của địa danh Đakao và Đất Hộ, tại sao có quá nhiều đình trong
một khu vực nhỏ hẹp như vậy, ai là những người dân đầu tiên khai phá vùng đất
nầy.
Khong thay noi den hai cac ngoi truong do cac thay dong (frere) va so (soeur) cai quan nhu Lasan Duc Minh (duong Hien Vuong)va Thien Phuoc (duong Hai Ba Trung) ngay tai khu Tan Dinh va xa hoi nua la Saint Paul ngay canh truong Trung Vuong. Ngoai ra cung thieu de cap toi cac truong cong lap nhu truong Tieu Hoc Tan Dinh (duong Huynh Tinh Cua) thanh lap tu thoi Phap, truong Do Chieu, sau doi thanh Tran luc (duong Nguyen Dinh Chieu), truong Tieu Hoc Nguyen Binh Khiem (duong Nguyen Binh Khiem) nam gan ho boi Nguyen Binh Khiem etc...
Trả lờiXóa