Thứ Bảy, 5 tháng 11, 2016


RANH GIỚI HÀNH CHÍNH

ĐÔ THỊ SÀI GÒN – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
 THỂ HIỆN QUA CÁC BẢN ĐỒ

(GIAI ĐOẠN 1859 – 2005) 


Vũ Ngọc Thành

Lịch sử hình thành vùng đất Sài Gòn được đánh dấu bằng mốc son năm 1698 khi Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lý và lập phủ Gia Định. Sài Gòn khi đó vẫn còn là một vùng nông thôn thuộc hai dinh Trấn Biên và Phiên Trấn. Dưới thời Gia Long vào năm 1808, vùng đất này thuộc 2 trấn Biên Hòa và Phiên An. Năm 1836, sau cuộc cải cách hành chính của vua Minh Mạng thì địa bàn Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh thuộc về 2 tỉnh Biên Hòa và Gia Định. Mặc dù thời kỳ đó trên địa bàn vùng nông thôn này đã hình thành nhiều khu tập trung dân cư, có phố chợ buôn bán làm dịch vụ sầm uất nhưng vẫn chưa có khái niệm và danh xưng “thành phố”. Sau khi chiếm được Sài Gòn vào năm 1859, người Pháp đã gấp rút quy hoạch xây dựng Sài Gòn thành một đô thị lớn nhiều chức năng (hành chính, quân sự, kinh tế, cảng, v.v.).

Bản đồ 1860


Quyết định của đô đốc Charner ngày 11 tháng 4 năm 1861 đã ấn định địa phận thành phố Sài Gòn (Ville de Saigon) và cho những ranh giới “một mặt là rạch Bến Nghé và rạch Thị Nghè, mặt kia là chính sông Sài Gòn và một đường rạch nối từ chùa Cây Mai đến những phòng tuyến cũ đồn Chí Hòa”1 thì Sài Gòn lúc này mới bắt đầu là một đơn vị hành chính riêng, diện tích 25 km². 
Với quyết định này, thành phố Sài Gòn lúc bấy giờ bao gồm cả 2 khu Sài Gòn và Chợ Lớn. Năm 1862 dự án thiết kế thành phố Sài Gòn với 500.000 dân của Coffyn được phê duyệt. Đến năm 1864 người Pháp cho tách khu Chợ Lớn ra khỏi thành phố Sài Gòn2. Chợ Lớn lúc này là lỵ sở của huyện Tân Long thuộc phủ Tân Bình. Đây là một thay đổi cơ bản và thuận lợi nhất để tập trung đầu tư xây dựng khu trung tâm Sài Gòn. Từ đây ranh giới hành chính của thành phố Sài Gòn đã được định hình trên các bản đồ qua từng thời kỳ lịch sử.

                                                 
* Trung tâm Nghiên cứu Đô thị và Phát triển TP.HCM

1  Nhiều tác giả, Sài Gòn – TP. Hồ Chí Minh 300 năm địa chính, Sở Địa chính Thành phố Hồ Chí Minh, 1998, tr 67.
2  Website: http://saigon24h.vn, ngày 25/8/2012.

Bản đồ 1867 




Hai bản đồ này cho thấy mặt bằng đô thị vẫn còn rất nhỏ hẹp, chỉ khoảng trên 200 ha (theo Nghị định ngày 3/10/1965 của Thống đốc Nam Kỳ về việc đặt ranh giới cho thành phố Sài Gòn). Về phía Bắc, địa bàn thành phố Sài Gòn tiếp giáp với một phần con rạch Thị Nghè (đoạn từ cầu Bông cho tới cầu Thị Nghè) và đường Trần Quang Khải ngày nay. Về phía Đông tiếp giáp với sông Sài Gòn, phía Nam đến rạch Bến Nghé, cầu Ông Lãnh và một đoạn đường đi Chợ Lớn (Lý Tự Trọng), đường Thuận Kiều (Cách Mạng Tháng Tám) rẽ vào đường Chasseloup Laubat (Nguyễn Thị Minh Khai). Phía Tây thành phố tiếp giáp với hai con đường Chasseloup Laubat (Nguyễn Thị Minh Khai) và đường Impériale (sau này đổi tên thành đường Nationale tức đường Hai Bà Trưng ngày nay). Lúc này đô thị Sài Gòn là lỵ sở của hạt Sài Gòn thuộc tỉnh Sài Gòn[1]. Dân số Sài Gòn thời kỳ này có khoảng 10.735 người (1866). Trong đó người Âu có 555 người, người Ấn có 180 người, người Việt và người Hoa có độ 10.000 người[2].

[1] Nguyễn Đình Đầu, Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn Gia Định, NXB TP.Hồ Chí Minh, 1994, tr.98. 
[2] Nhiều tác giả (1998), Sđd,  tr.109.  

Bản đồ 1878



Ranh giới hành chính của Sài Gòn 1878
theo bản đồ Plan de la ville de Saigon (Cochinchine) 1878 
Ranh giới thành phố    

Ranh giới của thành phố được xác định cụ thể, trong đó, ngoài những đường ranh giới thiên nhiên, thì các con đường cũng được dùng để xác định ranh giới. Bản đồ thành phố Sài Gòn năm 1878 bao gồm có 4 phần được chia cắt bởi hai trục đường lớn chạy qua thành phố là hai con đường Chasseloup Laubat (Nguyễn Thị Minh Khai) và đường Nationale (Hai Bà Trưng).
Ranh giới phía Bắc từ giao lộ đường Impériale (đã được đổi tên thành Nationale - Hai Bà Trưng) và đường Cimetière (Võ Thị Sáu) theo nghĩa địa người Âu (nghĩa địa Mạc Đĩnh Chi - công viên Lê Văn Tám) vòng qua nghĩa địa người châu Á (nay là khu vực đường Lý Văn Phức) rồi ngược xuống đường Bangkok (Mạc Đĩnh Chi) nối với đường Des Mois (Nguyễn Đình Chiểu) đến đường Tây Ninh (Nguyễn Bỉnh Khiêm) rồi rẽ xuống cầu Thị Nghè và từ đó theo rạch Thị Nghè đổ ra sông Sài Gòn. 
Về phía Đông, Sài Gòn giáp sông Sài Gòn, phía Nam giáp rạch Bến Nghé đến đầu đoạn kênh Lò Heo (kể cả Lò Heo) kéo dài lên đường De Lagrandière (Lý Tự Trọng) nối với đường Thuận Kiều (Cách Mạng Tháng Tám). 
Về phía Tây là từ giao lộ đường Thuận Kiều (Cách Mạng Tháng Tám) và đại lộ Chasseloup Laubat (Nguyễn Thị Minh Khai), đến đường Mac Mahon (Nam Kỳ Khởi Nghĩa) rồi chạy vòng lên tới đường Nationale (Hai Bà Trưng). 
Lúc này thành phố Sài Gòn đã là một thành phố lớn được xếp vào thành phố hạng I theo sắc lệnh của Tổng thống Pháp ban hành ngày 8/1/1877. Khi đó khung hành chính lục tỉnh đã bị Pháp phá bỏ (vào năm 1876) và chia ra làm 19 hạt với 4 khu vực lớn có tính cách quân sự bao gồm: khu vực Sài Gòn, khu vực Mỹ Tho, khu vực Vĩnh Long và khu vực Hậu Giang. Thành phố Sài Gòn thuộc hạt Sài Gòn nằm trong khu vực Sài Gòn.

 Bản đồ 1882 



Ranh giới hành chính của Sài Gòn – Chợ Lớn theo bản đồ Plan topographique 20è
Arrondissement et ses environs 1882
                                           Ranh giới thành phố    
                                       Ranh giới hạt                 

Nam Kỳ được chia ra làm 20 hạt vào năm 1880, Thành phố Sài Gòn và Thành phố Chợ Lớn nằm trong phạm vi hạt 20[1]. Bản đồ 1882 cho thấy giữa thành phố Sài Gòn và thành phố Chợ Lớn còn cách nhau một miền quê rộng lớn, gồm nhiều xã thôn như Phú Thạnh, Thái Bình, Nhơn Hòa, Tân Thành, Tân Hòa, Bình Yên, Tân Quang, Nhơn Giang, Tân Kiểng, Tân Châu, Hòa Bình… Đó là những vùng đất thuộc hai tổng Bình Chánh Thượng và tổng Dương Minh của hạt 20 mà Pháp lập ra theo Nghị định của Thống đốc Nam Kỳ ban hành ngày 13/12/1880. 
Ranh giới hành chính thành phố Sài Gòn vào năm 1882 không có sự thay đổi đáng kể nào so với năm 1878. Dân số Sài Gòn vào năm 1881 có 13.481 người cư ngụ trong đó chủ yếu là người Việt, người Hoa và người Pháp [2].
Riêng về Chợ Lớn, bản đồ năm 1878 cũng như bản đồ năm 1867 không vẽ nên ta chỉ có thể xem xét sự thay đổi địa giới hành chính qua bản đồ do Trần Văn Học lập vào năm 1816 và bản đồ năm 1882, tức khoảng 66 năm. Đây là một khoảng thời gian khá dài và là giai đoạn vùng đất Chợ Lớn (bản đồ năm 1816 dùng tên gọi là Sài Gòn), cũng như khu đô thị Sài Gòn (năm 1816 dùng tên gọi là Bến Nghé) trải qua rất nhiều biến động quan trọng. Chính vì thế, ranh giới hành chính của vùng Chợ Lớn (bản đồ 1882, dùng tên gọi là Thành phố Chợ Lớn) đã mở rộng hơn trước rất nhiều. Nếu trên bản đồ Trần Văn Học, vùng Chợ Lớn chủ yếu nằm giữa rạch Lò Gốm và đường thiên lý đi miền Tây Nam kỳ thì đến bản đồ năm 1882, thành phố Chợ Lớn đã mở rộng hơn rất nhiều ở tất cả các hướng. Về phía Đông và phía Bắc sáp nhập thêm các làng An Bình, An Đông, Tân Thành. Phía Tây sáp nhập thêm các làng Minh Phụng, Phú Lâm, Bình Tiên, Bình Tây và phía Nam sáp nhập thêm một phần làng Bình Đông nằm về phía Bắc rạch Tàu Hũ cùng các làng Phong Phú, Long Vĩnh, Un Long nằm về phía Nam rạch Tàu Hũ. Dân số Chợ Lớn trong năm 1881 nhiều gấp 3 lần so với dân số Sài Gòn với số dân là 39.806 người [3].


[1] Nguyễn Quang Ân, Việt Nam những thay đổi địa danh và ranh giới hành chính, NXB Thông Tấn, Hà Nội, 2003, tr.37.
[2] Nhiều tác giả (1998), Sđd, tr.109.
[3] Nhiều tác giả (1998), Sđd, tr.110. 


Bản đồ 1897


Ranh giới hành chính của Sài Gòn – Chợ Lớn  theo bản đồ Saigon Cholon et leurs environs 1897   
                                   Ranh giới thành phố năm 1882   
                                   Ranh giới thành phố năm 1897   
                                   Ranh giới Hạt                              
                                Phần diện tích mở rộng        

Sài Gòn
Bản đồ trên cho thấy địa bàn thành phố Sài Gòn được mở rộng so với năm 1882. Việc mở rộng này được thực hiện từ năm 1894. Ranh giới về phía Bắc được nới rộng ra đến hết rạch Thị Nghè, sáp nhập thêm các làng Phú Hòa, Nam Chơn, Hòa Mỹ (vùng Đa Kao ngày nay). Ranh giới thành phố về phía Tây bắt đầu từ cầu Kiệu theo rạch Thị Nghè chạy xuống tới đường Cách Mạng Tháng Tám bao gồm các làng Tân Định và một phần làng Xuân Hòa (vùng Tân Định ngày nay), tăng thêm diện tích được 344 ha (năm 1894). Sài Gòn lúc này có diện tích 791 ha. Một năm sau, ngày 15/3/1895 thành phố lại được nới rộng ra về phía Nam với việc sáp nhập một phần đất các làng Khánh Hội và làng Tam Hội cũ (rộng 182 ha) dọc bờ sông Sài Gòn làm cho Sài Gòn có diện tích 973 ha[1]. Như vậy, về phía Bắc và phía Đông thành phố Sài Gòn được bao bọc bởi rạch Thị Nghè và sông Sài Gòn. Phía Nam tiếp giáp với đường Nguyễn Thái Học ngày nay rồi vòng xuống rạch Bến
Nghé theo đường Pháo đài Nam (một phần đường Nguyễn Tất Thành) đến rạch Bàng. Phía Tây tiếp giáp với một phần rạch Thị Nghè và đường Cách Mạng Tháng Tám. 
Lúc này thành phố Sài Gòn thuộc hạt Gia Định với dân số khoảng 37.593 người2.

Chợ Lớn
Vào thời kỳ này, giữa hai thành phố Sài Gòn và Chợ Lớn có thêm đường giao thông nối với nhau. Đó là đại lộ Vành Đai (Boulevard de Ceinture) chạy từ kênh Vành Đai (Canal de Ceinture) đến đường Route stratégique (Đường Chiến lược). 
Tuy được nối thêm đường giao thông, nhưng giữa hai thành phố vẫn còn được ngăn cách bởi một miền quê rộng lớn. Miền quê này nằm trong hạt Gia Định và hạt Chợ Lớn (Hạt 20 đã bị giải thể vào năm 1888).
Về mặt hành chính, thành phố Chợ Lớn thuộc hạt Chợ Lớn. Thành phố cũng có sự mở rộng về địa giới so với năm 1882, nhưng không đáng kể. Đó là việc sáp nhập thêm một dải đất của làng Bình Đông thuộc phía Nam rạch Tàu Hũ, từ ranh hiện tại của rạch Tàu Hũ chạy về phía Nam đến hết vàm rạch Lò Gốm. Chợ Lớn có dân số tập trung đông đúc 122.132 người (1895)[2], hơn hẳn dân số Sài Gòn (37.593 người).



[1] Nhiều tác giả (1998), Sđd, tr.107. 
2 Nhiều tác giả (1998), Sđd, tr.110.
[2] Nhiều tác giả (1998), Sđd,  tr.110.  

Bản đồ 1923 


      Ranh giới hành chính của Sài Gòn – Chợ Lớn  
                                         theo bản đồ Plan de Saigon – Cholon 1923 
                                   Ranh giới thành phố năm 1897   
                                   Ranh giới thành phố năm 1923   
                                Phần diện tích mở rộng        

Sài Gòn
So với bản đồ năm 1897, bản đồ năm 1923 cho thấy ranh giới hành chính đô thị Sài Gòn - Chợ Lớn có một số thay đổi. Theo các tài liệu[1], thì vào năm 1906, về phía Tây, diện tích thành phố được nới rộng thêm một phần đất của làng Tân Hòa và Phú Thạnh (vùng giữa Sài Gòn và Chợ Lớn) rộng 344 ha, Sài Gòn có diện tích là 1.317 ha. Địa giới thành phố Sài Gòn tiếp tục được mở rộng ra đến đường Eglise de Cầu Kho (Trần Đình Xu) và một phần đường Route Stratégique (Trần Phú), đoạn giữa quốc lộ 1 (Cách Mạng Tháng Tám) và đường Nancy (Nguyễn Văn Cừ). Việc mở rộng này được thực hiện theo Nghị định của Thống đốc Nam Kỳ ban hành ngày 30/12/1912[2].
Về phía Nam, ngày 21/8/1907 địa bàn thành phố được nới rộng với việc sáp nhập thêm phần diện tích còn lại của các làng Khánh Hội và một phần của làng Chánh Hưng (rộng 447 ha làm cho Sài Gòn có diện tích là 1.764 ha). Ranh giới phía Nam kéo xuống đến rạch Ông Đội – rạch Bàng[3].  
Thành phố Sài Gòn có 3 quận là quận 1, quận 2 và quận 3. Mỗi quận đều có bót cảnh sát (Commissariat de Police) để cai quản. Có tất cả ba bót cảnh sát, được đánh số 77 (quận 1), số 98 (quận 2), số 20 (quận 3) trên bản đồ Plan de Saigon –
Cholon 1923.

Chợ Lớn
Chợ Lớn cũng có nhiều thay đổi như Sài Gòn với các hoạt động phong phú của một đô thị đang phát triển. Ranh giới hành chính của Chợ Lớn được mở rộng, bao gồm có 2 quận là quận 4 và quận 5. Về phía Đông, diện tích thành phố Chợ Lớn có thêm một phần làng Tân Hòa và làng Phú Thạnh, đường Nancy trở thành ranh giới giữa hai thành phố Sài Gòn và Chợ Lớn. Về phía Tây và phía Nam, Chợ Lớn có thêm một phần các làng xung quanh như Tân Hòa Đông, Phú Định, An Lạc, An Phú Tây, Phong Đước, Bình Đăng, Bình Đông, Chánh Hưng, Tân Thới Hòa, Chí Hòa[4] vào năm 1923 (Nghị định ngày 5/1/1923 do Thống đốc Nam Kỳ ban hành)[5]. 


[1] Nhiều tác giả (1998), Sđd, tr.107.
[2] Nguyễn Đình Tư, “Địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh qua các thời kỳ lịch sử” trong Một số vấn đề về xây dựng chính quyền đô thị từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh, NXB TP.HCM, 2007, tr.335.
[3] Vốn thuộc làng Tân Thuận Đông, nay thuộc quận 7.
[4] Nguyễn Đình Tư, Sđd, tr.336.
[5] Phần diện tích được mở rộng theo Nghị định ngày 5/1/1923 chưa được thể hiện trên bản đồ năm 1923.

Bản đồ 1942


                   Ranh giới hành chính Khu Sài Gòn – Chợ Lớn

theo bản đồ Plan de Saigon 1942, Plan de Cholon 1942

                                   Ranh giới thành phố năm 1923   
                                   Ranh giới thành phố năm 1947   
                                   Phần diện tích mở rộng               
                                Phần diện tích thu hẹp               


Bản đồ năm 1942 cho thấy ranh giới hành chính Khu Sài Gòn – Chợ Lớn có những thay đổi lớn. Đô thị Sài Gòn được mở rộng về phía Tây với việc sáp nhập các phần đất còn lại của làng Xuân Hòa (khu vực Ga Sài Gòn ngày nay) và một phần nhỏ đất đai của làng Hòa Hưng (trung tâm Du lịch quận 10 ngày nay). Tuy nhiên về phía Nam, ranh giới đô thị Sài Gòn lại bị thu hẹp với việc cắt trả khu vực từ rạch Bàng Đôn đến kênh Tẽ (nay thuộc quận 7) về cho quận Nhà Bè (tỉnh Gia Định). 
Sài Gòn ở vào thời điểm 1949 bao gồm có 4 quận, vị trí các quận 1,2,3 vẫn được giữ nguyên như cũ. Quận 6 được thành lập theo nghị định số 2383 – MI/DAA của chính phủ lâm thời Cộng hoà Nam Kỳ quyết định thành lập vào ngày 10/5/1948. Theo đó Quận 6 bao gồm hầu hết phần đất của các làng Khánh Hội và Vĩnh Hội của thành phố Sài Gòn (quận 4 ngày nay).
Đô thị Chợ Lớn tiếp tục được mở rộng ra về phía Tây với việc sáp nhập thêm các xóm Phú Thới, xóm Mỹ Trung và xóm Phú Định thuộc làng Phú Định và các xóm Hòa Đông, xóm Phú Lâm thuộc làng Tân Hòa Đông vào địa bàn Chợ Lớn. Về phía Bắc, Chợ Lớn được mở rộng hơn với các phần đất của làng Chí Hòa và một phần đất của làng Hòa Hưng. Về phía Nam, địa bàn Chợ Lớn được mở rộng xuống đến phần đất của các xóm Cầu Mật, xóm Thái Phúc thuộc làng Chánh Hưng. Các quận trên địa bàn Chợ Lớn vẫn được giữ nguyên như cũ. 

           Bản đồ 1958


Ranh giới hành chính Đô thành Sài Gòn 1958  theo bản đồ Đô thành Sài Gòn 1958
                                           Ranh giới Đô thành  

Bản đồ năm 1958 mang tên là Đô thành Sài Gòn. Bản đồ cho thấy hai thành phố Sài Gòn và thành phố Chợ Lớn không còn cách nhau riêng biệt nữa mà đã là một đơn vị hành chính có ranh giới chung cho toàn địa bàn.  
Bản đồ không thể hiện đầy đủ các đường ranh giới cho toàn bộ Đô thành Sài Gòn, nhưng khi so sánh với những phần thể hiện được trên bản đồ với bản đồ
1942, ta thấy ranh giới hành chính của cả hai thành phố Sài Gòn và thành phố Chợ Lớn không có sự thay đổi gì, chỉ có đơn vị hành chính là có sự thay đổi. Trên địa bàn thành phố Sài Gòn – Chợ Lớn có 5 quận với 18 hộ.
Ngày 10/5/1948, Chính phủ lâm thời Cộng hòa Nam Kỳ ra nghị định số 2383 - MI/DAA về việc chia khu Sài Gòn – Chợ Lớn ra làm 6 quận. Trên địa bàn thành phố Sài Gòn có các quận 1, quận 2, quận 3 và quận 6. Trên địa bàn thành phố Chợ Lớn có 2 quận là quận 4 và quận 5. Ranh giới được ấn định như sau[1]: Quận 1 gồm có hộ 1
Quận 2 gồm có hộ 2
Quận 3 gồm có hộ 4, cộng thêm một khu tứ giác bao bọc bởi đường Chasseloup Laubat (Nguyễn Thị Minh Khai), đại lộ Hui Bon Hoa (Lý Thái Tổ). Đường Général Lizé (Điện Biên Phủ) và ranh giới của hộ 3 và hộ 4 như đã được ấn định theo Nghị định ngày 22/9/1941.
Quận 4 gồm có các hộ: 7,8,9,10,13 và một phần hộ 15 và hộ 18 khu vực Chợ Lớn.
Quận 5 gồm có các hộ: 11,12,14,15,16,17 và 18 (trừ phần đã sáp nhập vào quận 4).
Quận 6 gồm có hộ 3 (Khánh Hội và Vĩnh Hội) của Sài Gòn.
Số đơn vị quận của Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn được tăng lên 7 quận với sắc lệnh số 104-NV của Quốc trưởng Bảo Đại ban hành ngày 27/12/1952 quyết định thành lập thêm quận 7 (phần đất phía Tây của thành phố Chợ Lớn).

Bản đồ 1973

Để nghiên cứu sự mở rộng về mặt hành chính đô thị trong giai đoạn từ năm 1954-1975, chúng tôi sử dụng bản đồ Đô thành Sài Gòn và vùng phụ cận. Tuy bản đồ không để năm xuất bản nhưng căn cứ vào những thông tin được thể hiện trên bản đồ kết hợp với những tư liệu viết về hành chính Đô thành Sài Gòn trong giai đoạn này chúng tôi có thể xác định đây là bản đồ được vẽ trong khoảng thời gian từ năm 1969 đến năm 1973.


Bản đồ Đô thành Sài Gòn và vùng phụ cận trước năm 1975 

[1] Nguyễn Thanh Lợi, “Địa lý hành chính Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh” trong Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh 60 năm tiếp bước con đường Cách mạng tháng Tám 1945-2005, NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2005, tr.24. 

So với bản đồ Đô Thành Sài Gòn năm 1958 ở giai đoạn trước, chúng ta thấy bản đồ Đô thành Sài Gòn và vùng phụ cận trước năm 1975 cho thấy ranh giới hành chính Đô thành Sài Gòn được thể hiện khá đầy đủ trọn vẹn và chi tiết từ ranh giới Đô thành cho đến ranh giới từng quận, phường bằng những ký hiệu chú giải trên bản đồ. Sự thay đổi ranh giới hành chính được thể hiện rất rõ rệt cả về mặt địa giới cũng như số lượng đơn vị các quận hành chính trong Đô thành.
Ngày 27/3/1959, Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa ra nghị định số 110-NV về việc phân chia Đô thành Sài Gòn ra làm 8 quận bao gồm có quận Nhất, Nhì, Ba, Tư, Năm, Sáu, Bảy, Tám. Trong số 8 quận mới thành lập trên, chỉ có quận Nhất, Nhì, Ba là giữ nguyên so với giai đoạn trước, các quận còn lại đều được đổi tên và thay đổi về mặt địa giới hành chính. Cụ thể: 
Quận Nhất: địa giới quận Nhất cũ, chia ra 4 phường: Bến Nghé, Hòa Bình, Tự Đức, Trần Quang Khải.
Quận Nhì: địa giới quận Nhì cũ, chia ra 4 phường: Cầu Ông Lãnh, Chợ Bến Thành, Cầu Kho, Nhà thờ Huyện Sỹ.
Quận Ba: địa giới quận Ba, chia ra 5 phường: Đài Chiến Sĩ, Bàn Cờ, Chí Hòa, Trương Minh Giảng, Yên Đỗ.
Quận Tư: địa giới thuộc quận Sáu cũ, chia ra 4 phường: Xóm Chiếu, Lý Nhơn, Vĩnh Hội, Bến Xà Lan.
Quận Năm: phần địa giới thuộc quận Tư cũ, phía bắc Kênh Tàu Hũ, chia ra 6 phường Trung Ương, Chợ Quán, An Đông, Minh Mạng, Nguyễn Tri Phương, Phú Thọ.
Quận Sáu: một phần địa giới của quận Năm cũ, chia ra 7 phường: Bình Tây, Chợ, Bình Tiên, Phú Lâm, Cầu Tre, Bình Thới, Phú Thọ Hòa.
Quận Bảy: một phần địa giới của quận Năm cũ, chia ra 6 phường: Cây Sung, Bình Đông, Rạch Cát, Phú Định, Bến Đá, Hàng Thái.
Quận Tám: phần địa giới thuộc quận Tư cũ, phía nam Kênh Tàu Hũ chia ra 5 phường: Xóm Củi, Hưng Phú, Bình An, Chánh Hưng, Rạch Ông.
Năm 1965, Đô thành Sài Gòn có tám quận, bao gồm 54 phường, 707 khóm với tổng cộng 1.485.295 dân[1].
Ngày 15/6/1966, Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung Ương ra sắc lệnh số 100-SL/NV sáp nhập xã An Khánh, thuộc quận Thủ Đức, tỉnh Gia Định vào địa phận quận Nhất Đô thành Sài Gòn. Đến đây, ranh giới hành chính Đô thành Sài Gòn đã được mở rộng hơn về mặt địa giới hành chính so với giai đoạn trước đó. Diện tích Đô thành tăng lên 67,53 km2 và không thay đổi đến tháng 4/1975.
Ngày 5/12/1966, chính quyền lại chia xã An Khánh ra làm 2 phường An Khánh và Thủ Thiêm trực thuộc quận Nhất. 
Ngày 17/1/1967, chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương ra sắc lệnh số 9SL/ĐUHC về việc thành lập quận 9 trên cơ sở 2 phường An Khánh và Thủ Thiêm của quận Nhất.
Ngày 1/7/1969, Sắc lệnh số 073-SL/NV của Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa về việc thành lập quận 10 và quận 11 trên cơ sở một số phường của các quận 3,5,6. Theo đó, địa phận quận 10 hình thành từ hai phường: Chí Hòa, Phan Thanh Giản của quận Ba và hai phường: Minh Mạng, Nguyễn Tri Phương của quận Năm.
Quận Mười Một hình thành từ phường Phú Thọ của quận Năm và ba phường: Bình Thới, Cầu Tre, Phú Thọ Hòa của quận Sáu. Từ thời gian này Đô thành có tổng cộng 11 quận và không thay đổi cho đến trước năm 1975, chỉ có số phường trong các quận là có sự thay đổi về mặt tên gọi từ năm 1973. Những thông tin mới về tên gọi phường sau năm 1973 không được thể hiện trên bản đồ cùng với những chú giải về bưu phí nội xứ (áp dụng từ ngày 06/02/73), điện tín nội xứ (áp dụng từ ngày 01/03/72) có ghi trên bản đồ cũng là cơ sở để chúng tôi xác định bản đồ trên được vẽ trong khoảng thời gian từ năm 1969 đến năm 1973. 
Năm 1974, toàn bộ Đô thành Sài Gòn có tổng cộng 11 quận, với 60 phường, dân số tổng cộng là 1.825.297 người[2].
Như thế, trong giai đoạn này ranh giới hành chính Đô thành Sài Gòn đã được mở rộng hơn so với giai đoạn trước khi có thêm vùng đất quận 9 phía bên kia sông Sài Gòn (nay thuộc quận 2) và số lượng các quận hành chính trong Đô thành cũng tăng từ 7 quận lên 11 quận trong giai đoạn này.

Bản đồ 1988 

Sau khi Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tiếp quản Đô thành Sài Gòn vào ngày 30/04/1975, ngày 03/05/1975 thành phố Sài Gòn - Gia Định được thành lập trên cơ sở sáp nhập các đơn vị hành chính thời chính quyền Việt Nam Cộng Hòa dưới đây:
Đô thành Sài Gòn gồm mười một quận. Tỉnh Gia Định gồm các quận Gò Vấp, Tân Bình, Hóc Môn, Thủ Đức, Bình Chánh và Nhà Bè. Riêng hai quận Cần Giờ và Quảng Xuyên sáp nhập với nhau, mang tên mới là huyện Duyên Hải chuyển sang trực thuộc tỉnh Biên Hòa.
Thành phố Sài Gòn - Gia Định mới lập được tổ chức lại thành 18 quận (bao gồm 11 quận của Đô thành Sài Gòn và 7 xã “đô thị hóa” của tỉnh Gia Định được nâng thành quận là Bình Hòa, Thạnh Mỹ Tây, Phú Nhuận, Hạnh Thông, Thông Tây Hội (gồm cả xã An Nhơn thuộc quận Gò Vấp tỉnh Gia Định cũ), Tân Sơn Nhì và Tân Sơn Hòa, cùng 5 huyện: Củ Chi (gồm hai quận Củ Chi và Phú Hòa nhập lại); Bình Chánh (gồm quận Bình Chánh, hai xã: Vĩnh Lộc và Bình Hưng Hòa của quận Tân Bình cũ và xã Bình Lợi là phần đất cắt từ xã Đức Hòa, quận Đức Hòa, tỉnh Hậu Nghĩa cũ, sáp nhập với nhau); Hóc Môn (gồm quận Hóc Môn và hai xã
An Phú Đông, Thạnh Lộc của quận Gò Vấp cũ sáp nhập); Nhà Bè (gồm cả xã Hiệp Phước thuộc quận Cần Giuộc tỉnh Long An cũ) và Thủ Đức. Dân số thành phố Sài Gòn - Gia Định vào tháng 5/1975 theo thống kê của chính quyền thành phố là 3.498.120 người[3].
Ngày 20/05/1976, tổ chức hành chính thành phố Sài Gòn - Gia Định được sắp xếp lần hai, 18 quận nội thành được chuyển thành 12 quận mới gồm: 1 (sáp nhập quận Nhất và quận Nhì), 3, 4, 5, 6, 8 (sáp nhập quận Bảy và quận Tám), 10, 11, Bình Thạnh (sáp nhập hai quận Bình Hòa và Thạnh Mỹ Tây), Phú Nhuận, Gò Vấp (sáp nhập Hạnh Thông và Thông Tây Hội), Tân Bình (sáp nhập Tân Sơn Nhì và Tân Sơn Hòa), riêng quận 9 giải thể, chia thành hai xã Thủ Thiêm và An Khánh nhập vào huyện Thủ Đức và gọi là xã. 
Ngày 02/07/1976 Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam chính thức đổi tên thành phố Sài Gòn - Gia Định thành Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 29/12/1978 huyện Duyên Hải, tỉnh Đồng Nai được chuyển giao cho Thành phố Hồ Chí Minh và sau đó đổi tên lại thành huyện Cần Giờ (1991). 
Như vậy, toàn thành phố Sài Gòn - Gia Định có 12 quận nội thành và 6 huyện ngoại thành với diện tích 2.095,01 km2. Từ đây, diện tích toàn thành phố luôn giữ ổn định và không có sự mở rộng về mặt địa giới hành chính cho tới nay mà chỉ có sự mở rộng ở khu vực nội thành với việc thành lập thêm nhiều quận mới lấn ra các huyện ngoại thành. Quá trình này thay đổi qua từng thời kỳ của thành phố theo quá trình đô thị hóa. Có thể hình dung khu vực nội thành Thành phố Hồ Chí Minh đến trước tháng 4/1997 qua bản đồ sau. 


Bản đồ nội thành Thành phố Hồ Chí Minh năm 1988 

Bản đồ nội thành Thành phố Hồ Chí Minh năm 1988 cho thấy rõ sự mở rộng về mặt ranh giới hành chính đô thị so với Đô thành Sài Gòn trước năm 1975. Phần diện tích mở rộng bao gồm toàn bộ diện tích các quận Phú Nhuận, Bình Thạnh, Tân Bình, Gò Vấp. Tuy vậy, phần diện tích quận 9 thuộc Đô thành Sài Gòn trước đây cũng không còn được thể hiện trên bản đồ khu vực nội thành Thành phố Hồ Chí Minh do đã được trả về cho huyện thủ Đức.

            Bản đồ 2003 


Ngày 06/01/1997, với Nghị định số 03/CP của Chính phủ về việc thành lập các quận, phường mới ở Thành phố Hồ Chí Minh thì thành phố đã có thêm 5 quận mới bao gồm:
Quận 2 trên cơ sở tách các xã An Khánh, An Phú, Thạnh Mỹ Lợi, Thủ Thiêm và một phần xã Bình Trưng của huyện Thủ Đức, 
Quận 9 trên cơ sở tách các xã Long Bình, Long Trường, Long Phước, Long Thạnh Mỹ, Phước Bình, Tăng Nhơn Phú, Phú Hữu và một phần bốn xã Bình Trưng, Phước Long, Tân Phú và Hiệp Phú của huyện Thủ Đức, 
Quận Thủ Đức là phần còn lại của huyện Thủ Đức cũ, gồm Thị trấn Thủ Đức, các xã Hiệp Bình Chánh, Hiệp Bình Phước, Linh Đông, Linh Trung, Linh Xuân, Tam Bình, Tam Phú và một phần ba xã Phước Long, Tân Phú và Hiệp
Phú), 
Quận 7 trên cơ sở tách các xã Tân Thuận Đông, Tân Thuận Tây, Tân Quy Đông, Tân Quy Tây, Phú Mỹ và một phần thị trấn Nhà Bè của huyện Nhà Bè, 
Quận 12 trên cơ sở tách các xã Đông Hưng Thuận, Tân Thới Hiệp, Tân Thới Nhất, Thạnh Lộc, An Phú Đông và một phần hai xã Trung Mỹ Tây và Tân Chánh Hiệp của huyện Hóc Môn.
Ngày 05/11/2003, với Nghị định số 130/2003/NĐ-CP, ranh giới nội thành tiếp tục được mở rộng ra khi có thêm 2 quận mới là Tân Phú (trên cơ sở tách các phường 16, 17, 18, 19, 20 và một phần hai phường 14 và 15 của quận Tân Bình và Bình Tân trên cơ sở tách các xã Bình Hưng Hòa, Bình Trị Đông, Tân Tạo và thị trấn An Lạc của huyện Bình Chánh.
Như vậy, từ tháng 11/2003 đến nay Thành phố Hồ Chí Minh có hai mươi bốn đơn vị hành chính trực thuộc gồm 19 quận nội thành (1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, Bình Tân, Bình Thạnh, Gò Vấp, Phú Nhuận, Tân Bình, Tân Phú, Thủ Đức) và 5 huyện ngoại thành (Bình Chánh, Cần Giờ, Củ Chi, Hóc Môn, Nhà Bè). 
Quá trình mở rộng địa giới hành chính đô thị Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh diễn ra liên tục qua các thời kỳ lịch sử. Từ một thành phố Sài Gòn được thành lập dưới chế độ thuộc địa buổi ban đầu chỉ với 25km2 đến nay khu nội thành Thành phố Hồ Chí Minh đã được mở rộng ra với diện tích 442,13km2 (chỉ tính trong phạm vi các quận nội thành) trở thành đô thị lớn thứ 2 cả nước. Việc mở rộng địa giới hành chính trên cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của một đô thị mới chỉ 300 năm tuổi nhưng đã được khẳng định trong quá khứ như là “Hòn Ngọc Viễn Đông”. Và với xu hướng hiện nay khi mà huyện Bình Chánh cũng đã đề xuất với UBND TP.HCM và Bộ Nội vụ nâng cấp Bình Chánh từ huyện thành thị xã, địa giới hành chính đô thị Thành phố Hồ Chí Minh sẽ tiếp tục được mở rộng theo hướng “dãn nở” ra các huyện ngoại thành tạo ra nhiều trung tâm, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội nhằm thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước và công tác quy hoạch, quản lý đô thị trên địa bàn.  


Bản đồ hành chính Thành phố Hồ Chí Minh năm 2003

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Sách, bài viết

1. Nguyễn Quang Ân, Việt Nam những thay đổi địa danh và ranh giới hành chính, NXB Thông Tấn, Hà Nội, 2003.
2. Nguyễn Đình Đầu, Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn Gia Định, NXB TP.Hồ Chí Minh, 1994.
3.  Nguyễn Thanh Lợi, “Địa lý hành chính Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh” trong Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh 60 năm tiếp bước con đường Cách mạng tháng Tám 1945-2005, NXB Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2005.
4.  Nguyễn Đình Tư, “Địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh qua các thời kỳ lịch sử” trong Một số vấn đề về xây dựng chính quyền đô thị từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh, NXB TP.HCM, 2007. 
5.  Nhiều tác giả, Sài Gòn – TP. Hồ Chí Minh 300 năm địa chính, Sở Địa chính Thành phố Hồ Chí Minh, 1998.
6.  Trần Văn Giàu (chủ biên), Trần Bạch Đằng, Nguyễn Công Bình, Địa chí Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, tập 1, NXB Tổng Hợp TP.HCM, 1987.
7.  Website: http://saigon24h.vn.
8.  Website: http://vi.wikipedia.org.

Các bản đồ 

1.  Plan de la ville de Saigon – Cochinchine 1867.
2.  Plan de la ville de Saigon (Cochinchine) 1878. 
3.  Plan topographique 20è Arrondissement et ses environs 1882.  
4.  Saigon, Cholon et leurs environs 1897.  
5.  Plan de Saigon – Cholon 1923.  
6.  Plan de Saigon – Cholon 1942.  
7.  Đô thành Sài Gòn 1958. 
8.  Đô thành Sài Gòn và vùng phụ cận trước năm 1975.  
9.   Nội thành Thành phố Thành phố Hồ Chí Minh 1988.
10.  Bản đồ hành chính Thành phố Hồ Chí Minh năm 2003.
                                                                                                  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Tết Sài Gòn trăm năm trước ra sao?   Biết những gì xảy ra trong quá khứ xa xưa dường như là mơ ước muôn đời của con người. Bởi trong c...