Từ Trường Học đến
Trường Đời (Tiếp theo)
đến trường Đời
Sau khi từ giã mái trường Lê Quí Đôn,
tôi bước vào trường đời với nhiều thất bại hơn thành công! Có những thứ mà thầy
cô dạy cho tôi trong trường đã trở thành ...vô ích, thậm chí nếu áp dụng đúng
thì chỉ có nước ...ăn mày! Ngược lại, có những thứ rất cần thiết trong trường
đời thì tôi chẳng thấy thầy cô nào chịu chỉ dạy cho mình. Trong trường đời, tôi
có thể học đủ mọi thứ, trong mọi lúc, ở mọi nơi, với mọi người, cho đến cuối
đời vẫn phải học những thực tế để chiến đấu mà sinh tồn. Có lẽ không chỉ có tôi
nhận biết được điều đó nên tôi xin miễn ví dụ chứng minh dài dòng. Thất bại đầu
tiên là khi khai lý lịch để xin thi vào đại học, tôi đã thành thật khai báo gia
đình mình có tới 10 người (cha, chú, cậu ruột) là “Ngụy quân, Ngụy quyền” đang
“học tập cải tạo,” chẳng có một ai “tham gia cách mạng”. Kết quả: tôi thi rớt,
cho dù điểm chuẩn để vào đại học cho con em thuộc “gia đình cách mạng” còn cách
xa điểm thi của tôi ít nhất là 10 điểm nhưng tôi vẫn “không đủ điều kiện xét
tuyển” vào đại học. Thế mà địa phương lại cho tôi là “đầy đủ điều kiện” để đi
thanh niên xung phong. Trong ngôi trường này, tôi học xắn đất, bắn leng, làm
quần quật như trâu, ăn như heo, ngủ lăn trên trên nền đất trong lán sam y như
bò ngựa... và người ta cứ nghĩ rằng thông qua môi trường lao động và những đêm
sinh hoạt chính trị sẽ “cải tạo” những thanh niên thành phố như chúng tôi.
Trong hoàn cảnh cực nhọc, khốn cùng tận đáy vực này, chúng tôi cũng ít ra tìm
thấy chút ít bình đẳng giữa tôi là một đứa“con Ngụy” cũng “đồng sàng” như anh
nghiện hút sì ke, cô gái điếm! Đây là khoảng thời gian mà trường đời đã dạy cho
tôi khá nhiều bài học lý thú trước khi tôi được vào học sư phạm. Người ta
thường đùa: “Chuột chạy cùng sào cũng vào sư phạm” nhưng với tôi thì có được
ngồi học trên ghế nhà trường vẫn hơn là đi cày ngoài nắng nên tôi vẫn thấy sung
sướng khi được đi học lại. Trong những năm học sư phạm, tôi cũng may mắn có
nhiều bạn tốt, như Phương, Tư, Trọng, Mỹ Lệ, Bích Liên, Minh Trí, Loan,
Triều..., cũng có những người thầy tốt như thầy Nam Minh (Pháp văn). Những ngày
đi thực tập là những ngày vui và nhiều kỷ niệm đáng nhớ nhất. Sau khi ra
trường, chúng tôi không còn có dịp gặp lại nhau nữa và cũng không biết bây giờ
các bạn ấy hiện nay sống ở đâu? cuộc sống của họ ra sao? Hy vọng họ vẫn là
những thầy cô giáo còn đứng vững trên bục giảng, vẫn tiếp tục hy sinh “vì đàn
em thân yêu” của mình. Tôi học môn Hóa - Sinh nhưng ra trường lại đi dạy bất kỳ
môn nào mà nhà trường cần vì thiếu giáo viên, trừ môn Văn! Bắt đầu ở một trường
thuộc quận Bình Thạnh được trên 5 năm, tôi có khá nhiều học trò rất giỏi và dễ
thương nên cũng an ủi với nghề cao quý mà bạc bẽo này. Thầy Quế (dạy Pháp văn
trên 30 năm) có nói một câu đáng nhớ: Chúng ta làm công việc của một người đưa
đò, hiếm có mấy ai qua sông rồi mà còn nhớ đến con đò cũ!” Tôi may mắn có được
vài người học trò cũ vẫn nhớ và liên lạc thường xuyên cho dù tôi dạy khá nghiêm
khắc hơn các thầy cô khác. Ngay cả khi tôi vượt biên thất bại, bị tù, bị đánh nằm
nhà thương, tôi vẫn có được chút an ủi là có được vài người học trò đến thăm.
Những năm phải ăn bo bo, khoai mì, bột mì ...thay gạo,
thịt-cá-mắm-muối-đường-sữa ...phân phối theo “tiêu chuẩn” mà giáo viên vẫn cứ
phải thao thao giảng trên bục, tối về chong đèn dầu chấm bài hay soạn giáo án,
chờ cuối tháng lãnh đồng lương “chết đói” thì mới thấy cái khổ của nghề dạy học
ở Việt Nam lúc ấy. Nhiều lúc dở cười dở khóc khi thấy thầy cô chia nhau từng
miếng thịt “tiêu chuẩn”, tranh nhau từng xấp vải, “tranh thủ” giờ ra chơi để
bán xôi cho học trò mình hầu có thêm chút đỉnh “thu nhập”! Trường đời dạo ấy
cũng đã dạy cho tôi nhiều bài học về tình đời, tình người và những điều không
hề có ở trường học. Có bà hiệu trưởng luôn “động viên” thầy trò “phấn đấu dạy
tốt - học tốt” nhưng lại dẹp bớt lớp học, không cho 2 vợ chồng thầy cô là “giáo
viên tiên tiến” mấy năm liền ở “tạm trú” nữa để mở hãng chuối xấy khô xuất
khẩu. Có thầy đến lớp buổi sáng thao thao giảng về “yêu nước là yêu chủ nghĩa
xã hội” nhưng đến chiều tối thì công an đến bắt thầy về tội “âm mưu vượt biên
trốn ra nước ngoài.” Có cô là bí thư chi đoàn luôn dò xét “tư tưởng” các đồng
nghiệp, dạy chính trị & đạo đức XHCN., về nhà là phải quấn thuốc lá “lậu,”
đến khi bị lao phổi thì ai nấy xa lánh, không tiền chữa trị thuốc thang mà đành
chịu chết. Nhà trường XHCN. đã là một hình ảnh thu nhỏ của trường đời với đủ
thứ “hỉ-nộ-ái-ố...” mà lắm lúc thầy còn chẳng ra thầy, nói gì đến trò! Lúc đó,
tôi mới thấy tuổi học trò của tôi sao may mắn quá, ít ra tôi không hề bị thầy
cô dạy “căm thù kẻ địch” (một bài trong chương trình Đạo Đức lớp 8), bắt đi thu
nhặt giấy vụn và bao ni-lông cũ theo “chỉ tiêu của ...trên giao”! Tôi cũng
không ngờ nỗi là chính xã hội đã khiến vai trò của thầy cô trở nên nặng nề
nhưng uy tín ngày càng mất đi, ít còn được tôn trọng như ngày xưa khi mà cuộc
sống trở nên khó khăn, phức tạp hơn. Chương trình học chỉ nhằm tuyên truyền
nhồi sọ, nhiều sai lầm và lỗi thời, phương pháp dạy lại có tính đối phó, không
phù hợp với thực tế, tạo ra sự giả dối hơn là mở mang trí tuệ, khuyến khích
sáng tạo nhưng không thầy cô giáo nào dám lên tiếng phê bình, góp ý. Những ngày
hè tập trung “bồi dưỡng chính trị” là chính, “chuyên môn & nghiệp vụ” là
thứ yếu, khéo nịnh bợ, giỏi khoác lác là dễ được “đề bạt” hay “bình chọn” là
“tiên tiến” vào cuối năm. Phong trào dạy thêm là dịp tạo thêm “thu nhập” nhưng
khi thầy cô “chạy sô” thì đến trường đã mệt mỏi, không còn hơi sức để dạy, học
trò cũng không học thêm được gì mà chỉ mong thầy cho “đề tủ”, giải dùm bài tập,
nới tay hơn khi trả bài hay chấm thi. Chưa bao giờ tôi thấm thía câu thơ Cao Bá
Quát: “Một thầy, một cô, một chó cái Học trò, nửa người, nửa ngợm, nửa đười
ươi” như thời gian này. Tôi cũng đã phải kiếm thêm tiền bằng nghề chụp ảnh đám
cưới, đám ma, đám tiệc và cả việc tổ chức du lịch cho các trường học mà vẫn
không đủ sống khi vật giá cứ tăng, còn phải “cống nạp” cho nhiều “chặng”. Cho
dù cha tôi không bao giờ muốn dính líu đến chính trị và cũng muốn mọi người
trong gia đình chúng tôi (từ các cô chú đến anh em chúng tôi) hãy lo học để có
một nghề nuôi thân và phục vụ xứ sở như chính bản thân ông nhưng cuối cùng ông
vẫn phải vào trại cải tạo và vĩnh viễn an nghĩ trên quê hương Việt Nam sau 5
năm tù. Tôi thật sự không hiểu nỗi tại sao một người chỉ biết đem nguồn nước
ngọt trong lành đến cho người dân mà phải “cải tạo” rồi chết tức tưởi trong
thân phận một Ngụy Quân - Ngụy Quyền, lôi kéo theo hậu quả dây chuyền cho đàn
con của ông? Như một ly nước tràn, vì thế, sau khi ba tôi mất, tôi đã quyết
định ra đi. Sau 3 lần thất bại vì bị gài, bị gạt thì chuyến vượt biên cuối cùng
đã đưa tôi và 2 cậu học trò đến được Mã Lai sau 23 ngày trên biển, vừa đói
khát, vừa bị bão, bị hải tặc Thái Lan cướp đến 2 lần, 5 người bạn đồng hành đã
vĩnh viễn ra đi. Tôi sẽ mãi mãi nhớ ơn một chiếc tàu đánh cá Singapore đã cứu
vớt chiếc ghe chúng tôi từ vùng biển Thái - Mã để đưa chúng tôi về tận bờ biển
làng Endau trước khi Hội Hồng Nguyệt Mã đưa chúng tôi từ Johor về Trenganu rồi
đến Pulau-Bidong vào một chiều mưa bão tháng 11 năm 1986. Từ ngày đặt chân lên
đất liền, tôi đã tự nguyện với lòng mình là từ nay tôi sẽ đền đáp Trời Phật và
Ba tôi linh thiêng đã phù hộ cho tôi được sống sót sau 23 ngày hải hùng, đói
khát trên biển Đông - đó cũng chính là động lực thúc đẩy tôi phải cố gắng phấn
đấu để học hỏi, sinh tồn và vươn lên trên xứ người, đã tham gia nhiều công việc
thiện nguyện & xã hội như một bổn phận, một sự đền ơn, không hề vì một tham
vọng hay là một sự tự tư tự lợi cho bản thân! Suốt hơn 3 tháng ở Pulau-Bidong
cộng thêm 2 tháng ở Sungei-Besi rồi sau đó gần 6 tháng ở Bataan, Philippines,
tôi cũng đã học thêm nhiều bài học cho trường đời của mình. Thành thật mà nói
cuộc sống ở Pulau-Bidong thật phức tạp và người tị nạn đã trải qua những khó
khăn về vật chất lẫn tinh thần mà khó có ai ngờ trước được. Trong thời gian
sống ở “ngưỡng cửa tự do” mà tôi không biết nên gọi là “địa ngục” hay “thiên
đàng” này, tôi đã may mắn tìm thấy chút ít tình người rất quý báu ở những người
bạn mới quen biết trong trại tị nạn này, như Ẩn (hiện sống ở Kingston, Canada),
chú Phan Xuân Hiệp, 2 cô bé Huyền - Thư (Mỹ), Cửu Thơm và Hoàng Phượng (Úc).
Tôi sẽ không bao giờ quên những buổi đi dạy ở trường Anh Văn khu B, trường Pháp
Văn khu F, những buổi đi đốn củi trên núi rồi xuống tắm suối hay tắm biển ở khu
D, tối đến rủ nhau lên chùa Từ Bi cúng Phật, cầu nguyện cho những người bạn đã
bỏ mình trên biển sớm siêu thoát. Tôi đã cố gắng làm nhiều công việc thiện
nguyện bận rộn suốt ngày để tránh bớt những phức tạp của một trại tị nạn, đồng
thời cũng muốn giúp đồng bào tôi như là một việc thiện nhằm bù lại cái Ơn Trời
Phật đã phù hộ cho tôi được sống còn sau 23 ngày lênh đênh trên biển với biết
bao nguy hiểm, đói khát... Đến khi có danh sách rời đảo, tôi vừa vui mừng, vừa
bùi ngùi từ biệt những người bạn tốt vừa mới quen trên đảo nhưng thân thiết như
anh em ruột thịt. Nghe bài “Biển Nhớ” và “Nghìn Trùng Xa Cách” mà chúng tôi
không cầm được những giọt nước mắt ! Trong thời gian ở Sungei-Besi, tôi vẫn
phải lên chùa, sinh hoạt hướng đạo hay đi dạy để xa lánh những phức tạp ở dãy
long house mà tôi bị xếp vào ở chung. Khi đến Bataan, tôi cũng đã phải di
chuyển từ vùng 7 qua vùng 9 rồi về vùng 8 với anh Hiền (cựu phi công, có lẽ đã
về California?) trước khi đi định cư ở Mỹ. Những ngày ở trại tị nạn, tôi đã
thấy rõ hậu quả của một xã hội “bế môn tỏa cảng”: Khi người ta vượt thoát khỏi
“nhà tù lớn” Việt Nam để đến một nơi tự do hơn thì lẽ ra người ta phải biết quý
tự do, phải biết thương nhau hơn nhưng tôi chỉ thấy người ta lại tự do buông
thả, ăn chơi sa ngã, sẳn sàng hại nhau để rồi không ít người phải vào tù, vào
bệnh viện, thậm chí vĩnh viễn ở lại Phi. Ở các trại tị nạn còn có những chuyện
buồn nôn, chẳng hạn: cùng là dân “tị nạn” nhưng một anh cựu sĩ quan lại có thể
hà hiếp, ăn chận khẩu phần của một anh tị nạn khác chỉ vì anh khéo nịnh bợ một
tên cảnh sát Mã Lai hay Phi. Một anh cùng nằm tù với tôi dạo nào vốn bị bạn tù
ghét vô cùng vì luôn khúm núm trước tên quản giáo đáng tuổi con cháu của anh,
lên ghe vượt biên thì nói láo là sĩ quan hải quân từng làm hạm trưởng nhưng lại
chẳng biết sử dụng hải bàn, hải đồ mà cũng chẳng biết lái tàu, tiếng Anh cũng
không biết nhưng khi đến trại tị nạn và được phong làm “trưởng ban trật tự” rồi
“trưởng trại” thì anh ta cứ như một cấp chỉ huy chống Cộng số 1, tuyên bố nảy
lửa ...nhưng lai cứ phải “chôm” ít thực phẩm của đồng bào đem về nhà để nấu cơm
và chìu chuộng cô vợ bé, mặc kệ 2 đứa con lăn lóc. Cô vợ bé vốn là ca-ve bị hải
tặc Thái hãm hiếp mấy trận rồi lại cặp bồ với cảnh sát Mã nhưng vẫn còn nỏn nà
đã khiến ông mê mệt và ông mới cặp khi ông lên làm “chúa đảo” vì xa vợ đã lâu
mà chưa được đi định cư. Sau này, khi đến Mỹ, tôi mới biết được anh ta còn bê
bối hơn tôi tưởng khi anh nhảy ra sinh hoạt cộng đồng với nhiều trò bát nháo.
Những chuyện “cười ra nước mắt” lẽ ra nên viết thành truyện dài nhiều tập mới tạm
coi là đủ về trại tị nạn. Một lần nữa, tôi nghiệm được rằng 12 năm ở trường học
đã hình thành một con người khó có thể hội nhập vào một môi trường khác biệt
nên tôi đâm ra khó khăn, xung khắc và trở nên dễ bị cô lập với loại trường đời
như vậy. Tôi không biết là mình nên tự trách bản thân đã không chịu “linh động”
thay đổi để hòa đồng với mọi người, hay là trách trường học đã không dạy cho
tôi rất nhiều điều cần thiết phải biết để thích nghi với trường đời đầy cạm
bẫy, dối trá, thử thách rất khắc nghiệt này. Cuối cùng, tôi cũng đến Mỹ với
thân phận tị nạn - một loại di dân hợp pháp và có trợ cấp ban đầu. Sau 23 ngày
khủng khiếp lênh đênh trên biển mà tôi vẫn còn sống sót, trải qua những ngày
căng thẳng trong trại tị nạn ở Mã Lai và Phi Luật Tân, khi đặt chân xuống phi
trường LAX, tôi mới thấy được cái giá quá đắt của sự Tự Do, mới tin là có số
mệnh, biết ăn chay và niệm Phật, không còn tính chủ quan tự mãn mà thật sự muốn
sám hối và cố gắng thay đổi con người mình sao cho có thể thích nghi với môi
trường mới một cách tốt đẹp nhất cho bản thân, đồng thời có thể giúp đỡ phần
nào cho Mẹ & các em tôi còn kẹt lại ở Việt Nam, các bạn còn kẹt lại ở trại
tị nạn và mong rằng sẽ có thể vào được đại học như bấy lâu nay vẫn mơ ước. Tôi
đến phi trường LAX vào trưa ngày14 tháng 9 năm 1987; sau khi làm thủ tục nhập
cảnh thì tôi lên xe shuttle để về Orange County, nơi có người chú ruột của tôi
sẽ đón. Tới phi trường John Wayne rồi đợi trên 2 giờ đồng hồ mới thấy chú tôi
đến đón, tôi lại một phen lo sợ, hồi hộp. Chú đưa tôi về khu Bolsa để ăn phở.
Sau gần 1 năm, tôi mới được thưởng thức lại mùi vị quen thuộc của một tô phở
nên vừa ăn, vừa cảm thấy sung sướng làm sao khi đã đến “bến bờ tự do” thật sự.
Hoa Kỳ- từ nay sẽ là quê hương thứ hai của tôi. Bấy giờ tôi chỉ còn 2 bàn tay
trắng và 2 bộ quần áo cùng với vài giấy tờ tùy thân, chẳng có đồng xu dính túi.
Hôm sau, tôi đi gặp World Relief để làm thủ tục rồi sau đó đến văn phòng tìm
việc và cũng là trường dạy ESL. Khổ nỗi, tôi lại ngây thơ khai thật về vốn
liếng Anh Văn ít ỏi nên chỉ lãnh vỏn vẹn $250.00 USD rồi phải lê gót đi tìm
việc ngay chứ không được vừa đi học ESL., vừa ăn trợ cấp như đa số tị nạn khác.
Chú tôi mắng tôi một trận về cái tội ngu này. Buổi sáng đầu tiên đi xin việc,
tôi đã phải thức dậy từ 4 giờ sáng, chuẩn bị kỹ lưỡng theo như văn phòng tìm
việc đã dặn dò rồi bước ra trạm xe bus cách nhà chừng nửa dặm. Lần đầu tiên đi
xe bus, tôi lại gặp một tài xế Mỹ đen nói khó nghe mà ông ấy cũng tỏ ra khó
chịu khi phải cố gắng để hiểu được điều tôi muốn nói. Cuối cùng tôi cũng đến
được nơi tôi phải đến: một hãng chuyên lo thủ tục xuất nhập cảng chỉ cách nhà
tôi ở khoảng 5 miles. Công việc làm đơn giản nên lương cũng thấp. Do đó, chú
tôi khuyên tôi bỏ job để theo chú học nghề xây dựng (construction). Tôi làm
theo lời chú nhưng sau 3 năm, tôi quyết định đi học cho xong để có một mảnh
bằng đại học vì rõ ràng là tôi không thích hợp với công việc thầu xây cất. Muốn
vậy, tôi phải kiếm một job khác đủ nuôi sống bản thân, trả tiền nhà, tiền xăng
và xe, tiền học. Suốt mấy năm học college và đại học, tôi đã phải làm đủ mọi
loại công việc, từ dễ dàng như chạy bàn, phụ bếp, assembler ở Metronics, phụ
giáo ở trường trung học Huntington Beach và Westminster, họa viên kiến trúc,
bán tạp hóa ở tiệm liquor, sorting mail ở Post Office, đến những công việc mà
ai cũng chê như lau chùi cầu tiêu và sàn nhà nhầy nhụa dầu mỡ ở một xưởng sản
xuất đinh ốc tại thành phố Brea, đi giao báo hay phone books, hoặc auto parts,
làm soil technician trên những mảnh đất hoang sơ hay ngọn đồi trơ trọi cháy
nắng. Có những tuần lễ mà tôi không có tiền để ăn mà phải dành dụm tiền để mua
vật liệu (materials đắt tiền như basswood chẳng hạn!) làm mô hình (case study
model) nên đành nhịn đói, uống nước lã “...cầm hơi” suốt mấy ngày sau mới có
mấy đứa bạn cùng lớp cho một miếng pizza, một cái burger hay hotdog loại 99
cents (sao mà ngon đáo để!). Có hai tháng trời không có tiền để “share phòng”
nên phải ngủ dưới gầm bàn vẽ hay trong chiếc xe cũ đậu trong parking lot của
trường, tắm ở phòng thể dục (gym) của trường, ăn mì gói dài dài... Nước Mỹ
không phải lúc nào cũng là một “Thiên đàng” như nhiều người lầm tưởng! Hãy xem
biết bao người là homeless ở California? Tôi chấp nhận bắt đầu làm lại cuộc đời
mình từ đáy xã hội để vươn lên nên không dám than thở mà cứ phải cố gắng học và
đi làm để hy vọng có một ngày khá hơn! Dù sao, với tôi, nước Mỹ vẫn khá hơn quê
tôi nhiều! Trong 2 năm làm phụ giáo ở Orange County, tôi cũng hiểu được tại sao
học trò ở Mỹ thiếu sự kính trọng các thầy cô giáo, vì sao các em lại dễ hư hỏng
trong khi các em có đầy đủ điều kiện, tiện nghi hơn ai hết để có thể trở thành
con ngoan - trò giỏi - công dân tốt. Giá như các em đừng biết xài tiền và đua
đòi quá sớm, được gia đình - nhà trường - xã hội quan tâm nhiều hơn đến việc
giáo dục tâm sinh lý, đạo đức hơn là tư tưởng hiện sinh - thực dụng thì có lẽ
sẽ hạn chế phần nào tình trạng những trẻ vị thành niên hư hỏng, phạm tội. Từ
vai trò một sinh viên đến vị trí một phụ giáo đã cho tôi thấy nhà trường Mỹ rõ
ràng khác với nhà trường Việt Nam nhiều quá, nhất là khi mà thầy cô đến lớp với
ý nghĩ đi dạy chỉ là một cái job, ít ai có lương tâm chức nghiệp và cũng khó có
biện pháp giáo dục nào hữu hiệu trước những lắt léo của luân lý, đạo đức, tập
tục và quan niệm sống của người Mỹ và xã hội Mỹ! Khi ra trường, tôi cũng phải
đổi từ các hãng tư vấn - thiết kế ở Costa Mesa về Buena Park qua Fullerton rồi
trở thành công chức ở Artesia, lên San Jose, qua Fremont rồi Oakland trước khi
quay về Los Angeles. Chỉ một thời gian ngắn với bấy nhiêu lần thay đổi, từ
những ông boss gốc Do Thái, Đài Loan, Trung Đông hay Việt Nam, trường đời đã
cung cấp tôi khá nhiều kinh nghiệm, kiến thức quý báu gấp mấy lần những năm dùi
mài trong trường Fullerton, Pomona và UCLA. Biết chủ bóc lột nhưng tôi lại cứ
làm việc chăm chỉ, siêng năng, chịu khó học hỏi, bệnh cũng không dám nghĩ bởi
dù sao, nghĩ lại thì tôi vẫn sướng hơn thời gian còn kẹt lại trong nước, làm
như trâu mà vẫn không đủ ăn. Bây giờ, làm một giờ ít ra cũng đủ mua một hộp gà
chiên dòn hiệu KFC, cuối năm còn dành dụm chút ít gửi về cho thân nhân bên nhà.
Chính lúc này, tôi thật sự biết ơn nước Mỹ đã cho tôi cuộc sống mới, tự do hơn,
bình đẳng hơn và nhiều cơ hội học hỏi để tiến thân bằng chính khả năng của
mình, mở rộng tầm mắt để nhìn thấy rõ ràng và đúng hơn về chính bản thân mình,
về quá khứ/ hiện tại/ tương lai, về quê hương Việt Nam và cộng đồng Việt Nam ở
Mỹ của tôi nên tôi không thể nào phủ nhận lòng bao dung của nước Mỹ và cả chính
xã hội Mỹ với tất cả tốt/ xấu, hay/ dở... đã thật sự đổi đời mình. Có lẽ đây là
một trường học mà tôi sẽ phải “mài đũng quần” cho tới cuối đời vẫn chưa học hết
với biết bao điều cần thiết cho đời mình. Sau 10 năm lăn lộn trong cuộc sống
bon chen của nước Mỹ, giờ đây tôi mới có thể tự tin hơn khi nhìn về tương lai
và đến hôm nay tôi phải nói thật rằng”đất hứa” này sẽ là “quê hương thứ hai”
của tôi. Cho dù tôi vẫn không sao quên được Việt Nam - quê hương mà tôi đã sinh
ra và lớn lên nhưng sau một cuộc “đổi đời,” tôi buộc lòng phải chạy tìm đất mới
màsống chỉ vì chế độ Cộng Sản tại Việt Nam đã trả thù tàn nhẫn một đứa “con
Ngụy” như tôi bằng đủ hình thức phân biệt đối xử để dồn tôi vào chân tường
trong suốt 11 năm! 25 năm qua, tôi đã trưởng thành từ “trường đời” ở Việt Nam,
qua các trại tị nạn Mã Lai & Phi Luật Tân rồi tới Hoa Kỳ, với nhiều bài học
quý giá, biết rõ hơn về thực tế cuộc sống, biết trân trọng “Tự Do” và “Dân Chủ”
và cũng biết ước mơ nhiều hơn về tương lai. Năm 1996, lần đầu tiên tôi trở về
thăm Việt Nam của mình vào thời mở cửa với nhiều “đổi mới” rất đáng khích lệ và
cũng thấy ngỗn ngang nhiều chuyện không vui,chưa hẳn là đúng/ tốt/ công bằng và
nhất là những mâu thuẫn do chênh lệch giàu - nghèo nhưng tôi cũng đành bó tay,
không làm được gì hơn là viết ra những điều mình trăn trở, băn khoăn, qua kinh
nghiệm của một chuyên viên kiến trúc - quy hoạch ở tiểu bang California về
hướng phát triển của Saigon nói riêng, Việt Nam nói chung hôm nay và tương lai.
Anh Thảo ơi, em đến phi trường LAX vào trưa ngày14 tháng 9 năm 1987 chứ không phải 1997. Gửi lời thăm Anh Chị.
Trả lờiXóaĐạt
Anh sẽ sửa lại. Cám ơn Đạt.
XóaChúc anh chị năm mới vạn sự như ý. thỉnh thoảng em có gặp anh Phước, Kim Chi. Đạt
Trả lờiXóa