Thứ Tư, 25 tháng 9, 2013

Từ Trường Học đến Trường Đời (Tiếp theo)

đến trường Đời 
Sau khi từ giã mái trường Lê Quí Đôn, tôi bước vào trường đời với nhiều thất bại hơn thành công! Có những thứ mà thầy cô dạy cho tôi trong trường đã trở thành ...vô ích, thậm chí nếu áp dụng đúng thì chỉ có nước ...ăn mày! Ngược lại, có những thứ rất cần thiết trong trường đời thì tôi chẳng thấy thầy cô nào chịu chỉ dạy cho mình. Trong trường đời, tôi có thể học đủ mọi thứ, trong mọi lúc, ở mọi nơi, với mọi người, cho đến cuối đời vẫn phải học những thực tế để chiến đấu mà sinh tồn. Có lẽ không chỉ có tôi nhận biết được điều đó nên tôi xin miễn ví dụ chứng minh dài dòng. Thất bại đầu tiên là khi khai lý lịch để xin thi vào đại học, tôi đã thành thật khai báo gia đình mình có tới 10 người (cha, chú, cậu ruột) là “Ngụy quân, Ngụy quyền” đang “học tập cải tạo,” chẳng có một ai “tham gia cách mạng”. Kết quả: tôi thi rớt, cho dù điểm chuẩn để vào đại học cho con em thuộc “gia đình cách mạng” còn cách xa điểm thi của tôi ít nhất là 10 điểm nhưng tôi vẫn “không đủ điều kiện xét tuyển” vào đại học. Thế mà địa phương lại cho tôi là “đầy đủ điều kiện” để đi thanh niên xung phong. Trong ngôi trường này, tôi học xắn đất, bắn leng, làm quần quật như trâu, ăn như heo, ngủ lăn trên trên nền đất trong lán sam y như bò ngựa... và người ta cứ nghĩ rằng thông qua môi trường lao động và những đêm sinh hoạt chính trị sẽ “cải tạo” những thanh niên thành phố như chúng tôi. Trong hoàn cảnh cực nhọc, khốn cùng tận đáy vực này, chúng tôi cũng ít ra tìm thấy chút ít bình đẳng giữa tôi là một đứa“con Ngụy” cũng “đồng sàng” như anh nghiện hút sì ke, cô gái điếm! Đây là khoảng thời gian mà trường đời đã dạy cho tôi khá nhiều bài học lý thú trước khi tôi được vào học sư phạm. Người ta thường đùa: “Chuột chạy cùng sào cũng vào sư phạm” nhưng với tôi thì có được ngồi học trên ghế nhà trường vẫn hơn là đi cày ngoài nắng nên tôi vẫn thấy sung sướng khi được đi học lại. Trong những năm học sư phạm, tôi cũng may mắn có nhiều bạn tốt, như Phương, Tư, Trọng, Mỹ Lệ, Bích Liên, Minh Trí, Loan, Triều..., cũng có những người thầy tốt như thầy Nam Minh (Pháp văn). Những ngày đi thực tập là những ngày vui và nhiều kỷ niệm đáng nhớ nhất. Sau khi ra trường, chúng tôi không còn có dịp gặp lại nhau nữa và cũng không biết bây giờ các bạn ấy hiện nay sống ở đâu? cuộc sống của họ ra sao? Hy vọng họ vẫn là những thầy cô giáo còn đứng vững trên bục giảng, vẫn tiếp tục hy sinh “vì đàn em thân yêu” của mình. Tôi học môn Hóa - Sinh nhưng ra trường lại đi dạy bất kỳ môn nào mà nhà trường cần vì thiếu giáo viên, trừ môn Văn! Bắt đầu ở một trường thuộc quận Bình Thạnh được trên 5 năm, tôi có khá nhiều học trò rất giỏi và dễ thương nên cũng an ủi với nghề cao quý mà bạc bẽo này. Thầy Quế (dạy Pháp văn trên 30 năm) có nói một câu đáng nhớ: Chúng ta làm công việc của một người đưa đò, hiếm có mấy ai qua sông rồi mà còn nhớ đến con đò cũ!” Tôi may mắn có được vài người học trò cũ vẫn nhớ và liên lạc thường xuyên cho dù tôi dạy khá nghiêm khắc hơn các thầy cô khác. Ngay cả khi tôi vượt biên thất bại, bị tù, bị đánh nằm nhà thương, tôi vẫn có được chút an ủi là có được vài người học trò đến thăm. Những năm phải ăn bo bo, khoai mì, bột mì ...thay gạo, thịt-cá-mắm-muối-đường-sữa ...phân phối theo “tiêu chuẩn” mà giáo viên vẫn cứ phải thao thao giảng trên bục, tối về chong đèn dầu chấm bài hay soạn giáo án, chờ cuối tháng lãnh đồng lương “chết đói” thì mới thấy cái khổ của nghề dạy học ở Việt Nam lúc ấy. Nhiều lúc dở cười dở khóc khi thấy thầy cô chia nhau từng miếng thịt “tiêu chuẩn”, tranh nhau từng xấp vải, “tranh thủ” giờ ra chơi để bán xôi cho học trò mình hầu có thêm chút đỉnh “thu nhập”! Trường đời dạo ấy cũng đã dạy cho tôi nhiều bài học về tình đời, tình người và những điều không hề có ở trường học. Có bà hiệu trưởng luôn “động viên” thầy trò “phấn đấu dạy tốt - học tốt” nhưng lại dẹp bớt lớp học, không cho 2 vợ chồng thầy cô là “giáo viên tiên tiến” mấy năm liền ở “tạm trú” nữa để mở hãng chuối xấy khô xuất khẩu. Có thầy đến lớp buổi sáng thao thao giảng về “yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội” nhưng đến chiều tối thì công an đến bắt thầy về tội “âm mưu vượt biên trốn ra nước ngoài.” Có cô là bí thư chi đoàn luôn dò xét “tư tưởng” các đồng nghiệp, dạy chính trị & đạo đức XHCN., về nhà là phải quấn thuốc lá “lậu,” đến khi bị lao phổi thì ai nấy xa lánh, không tiền chữa trị thuốc thang mà đành chịu chết. Nhà trường XHCN. đã là một hình ảnh thu nhỏ của trường đời với đủ thứ “hỉ-nộ-ái-ố...” mà lắm lúc thầy còn chẳng ra thầy, nói gì đến trò! Lúc đó, tôi mới thấy tuổi học trò của tôi sao may mắn quá, ít ra tôi không hề bị thầy cô dạy “căm thù kẻ địch” (một bài trong chương trình Đạo Đức lớp 8), bắt đi thu nhặt giấy vụn và bao ni-lông cũ theo “chỉ tiêu của ...trên giao”! Tôi cũng không ngờ nỗi là chính xã hội đã khiến vai trò của thầy cô trở nên nặng nề nhưng uy tín ngày càng mất đi, ít còn được tôn trọng như ngày xưa khi mà cuộc sống trở nên khó khăn, phức tạp hơn. Chương trình học chỉ nhằm tuyên truyền nhồi sọ, nhiều sai lầm và lỗi thời, phương pháp dạy lại có tính đối phó, không phù hợp với thực tế, tạo ra sự giả dối hơn là mở mang trí tuệ, khuyến khích sáng tạo nhưng không thầy cô giáo nào dám lên tiếng phê bình, góp ý. Những ngày hè tập trung “bồi dưỡng chính trị” là chính, “chuyên môn & nghiệp vụ” là thứ yếu, khéo nịnh bợ, giỏi khoác lác là dễ được “đề bạt” hay “bình chọn” là “tiên tiến” vào cuối năm. Phong trào dạy thêm là dịp tạo thêm “thu nhập” nhưng khi thầy cô “chạy sô” thì đến trường đã mệt mỏi, không còn hơi sức để dạy, học trò cũng không học thêm được gì mà chỉ mong thầy cho “đề tủ”, giải dùm bài tập, nới tay hơn khi trả bài hay chấm thi. Chưa bao giờ tôi thấm thía câu thơ Cao Bá Quát: “Một thầy, một cô, một chó cái Học trò, nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi” như thời gian này. Tôi cũng đã phải kiếm thêm tiền bằng nghề chụp ảnh đám cưới, đám ma, đám tiệc và cả việc tổ chức du lịch cho các trường học mà vẫn không đủ sống khi vật giá cứ tăng, còn phải “cống nạp” cho nhiều “chặng”. Cho dù cha tôi không bao giờ muốn dính líu đến chính trị và cũng muốn mọi người trong gia đình chúng tôi (từ các cô chú đến anh em chúng tôi) hãy lo học để có một nghề nuôi thân và phục vụ xứ sở như chính bản thân ông nhưng cuối cùng ông vẫn phải vào trại cải tạo và vĩnh viễn an nghĩ trên quê hương Việt Nam sau 5 năm tù. Tôi thật sự không hiểu nỗi tại sao một người chỉ biết đem nguồn nước ngọt trong lành đến cho người dân mà phải “cải tạo” rồi chết tức tưởi trong thân phận một Ngụy Quân - Ngụy Quyền, lôi kéo theo hậu quả dây chuyền cho đàn con của ông? Như một ly nước tràn, vì thế, sau khi ba tôi mất, tôi đã quyết định ra đi. Sau 3 lần thất bại vì bị gài, bị gạt thì chuyến vượt biên cuối cùng đã đưa tôi và 2 cậu học trò đến được Mã Lai sau 23 ngày trên biển, vừa đói khát, vừa bị bão, bị hải tặc Thái Lan cướp đến 2 lần, 5 người bạn đồng hành đã vĩnh viễn ra đi. Tôi sẽ mãi mãi nhớ ơn một chiếc tàu đánh cá Singapore đã cứu vớt chiếc ghe chúng tôi từ vùng biển Thái - Mã để đưa chúng tôi về tận bờ biển làng Endau trước khi Hội Hồng Nguyệt Mã đưa chúng tôi từ Johor về Trenganu rồi đến Pulau-Bidong vào một chiều mưa bão tháng 11 năm 1986. Từ ngày đặt chân lên đất liền, tôi đã tự nguyện với lòng mình là từ nay tôi sẽ đền đáp Trời Phật và Ba tôi linh thiêng đã phù hộ cho tôi được sống sót sau 23 ngày hải hùng, đói khát trên biển Đông - đó cũng chính là động lực thúc đẩy tôi phải cố gắng phấn đấu để học hỏi, sinh tồn và vươn lên trên xứ người, đã tham gia nhiều công việc thiện nguyện & xã hội như một bổn phận, một sự đền ơn, không hề vì một tham vọng hay là một sự tự tư tự lợi cho bản thân! Suốt hơn 3 tháng ở Pulau-Bidong cộng thêm 2 tháng ở Sungei-Besi rồi sau đó gần 6 tháng ở Bataan, Philippines, tôi cũng đã học thêm nhiều bài học cho trường đời của mình. Thành thật mà nói cuộc sống ở Pulau-Bidong thật phức tạp và người tị nạn đã trải qua những khó khăn về vật chất lẫn tinh thần mà khó có ai ngờ trước được. Trong thời gian sống ở “ngưỡng cửa tự do” mà tôi không biết nên gọi là “địa ngục” hay “thiên đàng” này, tôi đã may mắn tìm thấy chút ít tình người rất quý báu ở những người bạn mới quen biết trong trại tị nạn này, như Ẩn (hiện sống ở Kingston, Canada), chú Phan Xuân Hiệp, 2 cô bé Huyền - Thư (Mỹ), Cửu Thơm và Hoàng Phượng (Úc). Tôi sẽ không bao giờ quên những buổi đi dạy ở trường Anh Văn khu B, trường Pháp Văn khu F, những buổi đi đốn củi trên núi rồi xuống tắm suối hay tắm biển ở khu D, tối đến rủ nhau lên chùa Từ Bi cúng Phật, cầu nguyện cho những người bạn đã bỏ mình trên biển sớm siêu thoát. Tôi đã cố gắng làm nhiều công việc thiện nguyện bận rộn suốt ngày để tránh bớt những phức tạp của một trại tị nạn, đồng thời cũng muốn giúp đồng bào tôi như là một việc thiện nhằm bù lại cái Ơn Trời Phật đã phù hộ cho tôi được sống còn sau 23 ngày lênh đênh trên biển với biết bao nguy hiểm, đói khát... Đến khi có danh sách rời đảo, tôi vừa vui mừng, vừa bùi ngùi từ biệt những người bạn tốt vừa mới quen trên đảo nhưng thân thiết như anh em ruột thịt. Nghe bài “Biển Nhớ” và “Nghìn Trùng Xa Cách” mà chúng tôi không cầm được những giọt nước mắt ! Trong thời gian ở Sungei-Besi, tôi vẫn phải lên chùa, sinh hoạt hướng đạo hay đi dạy để xa lánh những phức tạp ở dãy long house mà tôi bị xếp vào ở chung. Khi đến Bataan, tôi cũng đã phải di chuyển từ vùng 7 qua vùng 9 rồi về vùng 8 với anh Hiền (cựu phi công, có lẽ đã về California?) trước khi đi định cư ở Mỹ. Những ngày ở trại tị nạn, tôi đã thấy rõ hậu quả của một xã hội “bế môn tỏa cảng”: Khi người ta vượt thoát khỏi “nhà tù lớn” Việt Nam để đến một nơi tự do hơn thì lẽ ra người ta phải biết quý tự do, phải biết thương nhau hơn nhưng tôi chỉ thấy người ta lại tự do buông thả, ăn chơi sa ngã, sẳn sàng hại nhau để rồi không ít người phải vào tù, vào bệnh viện, thậm chí vĩnh viễn ở lại Phi. Ở các trại tị nạn còn có những chuyện buồn nôn, chẳng hạn: cùng là dân “tị nạn” nhưng một anh cựu sĩ quan lại có thể hà hiếp, ăn chận khẩu phần của một anh tị nạn khác chỉ vì anh khéo nịnh bợ một tên cảnh sát Mã Lai hay Phi. Một anh cùng nằm tù với tôi dạo nào vốn bị bạn tù ghét vô cùng vì luôn khúm núm trước tên quản giáo đáng tuổi con cháu của anh, lên ghe vượt biên thì nói láo là sĩ quan hải quân từng làm hạm trưởng nhưng lại chẳng biết sử dụng hải bàn, hải đồ mà cũng chẳng biết lái tàu, tiếng Anh cũng không biết nhưng khi đến trại tị nạn và được phong làm “trưởng ban trật tự” rồi “trưởng trại” thì anh ta cứ như một cấp chỉ huy chống Cộng số 1, tuyên bố nảy lửa ...nhưng lai cứ phải “chôm” ít thực phẩm của đồng bào đem về nhà để nấu cơm và chìu chuộng cô vợ bé, mặc kệ 2 đứa con lăn lóc. Cô vợ bé vốn là ca-ve bị hải tặc Thái hãm hiếp mấy trận rồi lại cặp bồ với cảnh sát Mã nhưng vẫn còn nỏn nà đã khiến ông mê mệt và ông mới cặp khi ông lên làm “chúa đảo” vì xa vợ đã lâu mà chưa được đi định cư. Sau này, khi đến Mỹ, tôi mới biết được anh ta còn bê bối hơn tôi tưởng khi anh nhảy ra sinh hoạt cộng đồng với nhiều trò bát nháo. Những chuyện “cười ra nước mắt” lẽ ra nên viết thành truyện dài nhiều tập mới tạm coi là đủ về trại tị nạn. Một lần nữa, tôi nghiệm được rằng 12 năm ở trường học đã hình thành một con người khó có thể hội nhập vào một môi trường khác biệt nên tôi đâm ra khó khăn, xung khắc và trở nên dễ bị cô lập với loại trường đời như vậy. Tôi không biết là mình nên tự trách bản thân đã không chịu “linh động” thay đổi để hòa đồng với mọi người, hay là trách trường học đã không dạy cho tôi rất nhiều điều cần thiết phải biết để thích nghi với trường đời đầy cạm bẫy, dối trá, thử thách rất khắc nghiệt này. Cuối cùng, tôi cũng đến Mỹ với thân phận tị nạn - một loại di dân hợp pháp và có trợ cấp ban đầu. Sau 23 ngày khủng khiếp lênh đênh trên biển mà tôi vẫn còn sống sót, trải qua những ngày căng thẳng trong trại tị nạn ở Mã Lai và Phi Luật Tân, khi đặt chân xuống phi trường LAX, tôi mới thấy được cái giá quá đắt của sự Tự Do, mới tin là có số mệnh, biết ăn chay và niệm Phật, không còn tính chủ quan tự mãn mà thật sự muốn sám hối và cố gắng thay đổi con người mình sao cho có thể thích nghi với môi trường mới một cách tốt đẹp nhất cho bản thân, đồng thời có thể giúp đỡ phần nào cho Mẹ & các em tôi còn kẹt lại ở Việt Nam, các bạn còn kẹt lại ở trại tị nạn và mong rằng sẽ có thể vào được đại học như bấy lâu nay vẫn mơ ước. Tôi đến phi trường LAX vào trưa ngày14 tháng 9 năm 1987; sau khi làm thủ tục nhập cảnh thì tôi lên xe shuttle để về Orange County, nơi có người chú ruột của tôi sẽ đón. Tới phi trường John Wayne rồi đợi trên 2 giờ đồng hồ mới thấy chú tôi đến đón, tôi lại một phen lo sợ, hồi hộp. Chú đưa tôi về khu Bolsa để ăn phở. Sau gần 1 năm, tôi mới được thưởng thức lại mùi vị quen thuộc của một tô phở nên vừa ăn, vừa cảm thấy sung sướng làm sao khi đã đến “bến bờ tự do” thật sự. Hoa Kỳ- từ nay sẽ là quê hương thứ hai của tôi. Bấy giờ tôi chỉ còn 2 bàn tay trắng và 2 bộ quần áo cùng với vài giấy tờ tùy thân, chẳng có đồng xu dính túi. Hôm sau, tôi đi gặp World Relief để làm thủ tục rồi sau đó đến văn phòng tìm việc và cũng là trường dạy ESL. Khổ nỗi, tôi lại ngây thơ khai thật về vốn liếng Anh Văn ít ỏi nên chỉ lãnh vỏn vẹn $250.00 USD rồi phải lê gót đi tìm việc ngay chứ không được vừa đi học ESL., vừa ăn trợ cấp như đa số tị nạn khác. Chú tôi mắng tôi một trận về cái tội ngu này. Buổi sáng đầu tiên đi xin việc, tôi đã phải thức dậy từ 4 giờ sáng, chuẩn bị kỹ lưỡng theo như văn phòng tìm việc đã dặn dò rồi bước ra trạm xe bus cách nhà chừng nửa dặm. Lần đầu tiên đi xe bus, tôi lại gặp một tài xế Mỹ đen nói khó nghe mà ông ấy cũng tỏ ra khó chịu khi phải cố gắng để hiểu được điều tôi muốn nói. Cuối cùng tôi cũng đến được nơi tôi phải đến: một hãng chuyên lo thủ tục xuất nhập cảng chỉ cách nhà tôi ở khoảng 5 miles. Công việc làm đơn giản nên lương cũng thấp. Do đó, chú tôi khuyên tôi bỏ job để theo chú học nghề xây dựng (construction). Tôi làm theo lời chú nhưng sau 3 năm, tôi quyết định đi học cho xong để có một mảnh bằng đại học vì rõ ràng là tôi không thích hợp với công việc thầu xây cất. Muốn vậy, tôi phải kiếm một job khác đủ nuôi sống bản thân, trả tiền nhà, tiền xăng và xe, tiền học. Suốt mấy năm học college và đại học, tôi đã phải làm đủ mọi loại công việc, từ dễ dàng như chạy bàn, phụ bếp, assembler ở Metronics, phụ giáo ở trường trung học Huntington Beach và Westminster, họa viên kiến trúc, bán tạp hóa ở tiệm liquor, sorting mail ở Post Office, đến những công việc mà ai cũng chê như lau chùi cầu tiêu và sàn nhà nhầy nhụa dầu mỡ ở một xưởng sản xuất đinh ốc tại thành phố Brea, đi giao báo hay phone books, hoặc auto parts, làm soil technician trên những mảnh đất hoang sơ hay ngọn đồi trơ trọi cháy nắng. Có những tuần lễ mà tôi không có tiền để ăn mà phải dành dụm tiền để mua vật liệu (materials đắt tiền như basswood chẳng hạn!) làm mô hình (case study model) nên đành nhịn đói, uống nước lã “...cầm hơi” suốt mấy ngày sau mới có mấy đứa bạn cùng lớp cho một miếng pizza, một cái burger hay hotdog loại 99 cents (sao mà ngon đáo để!). Có hai tháng trời không có tiền để “share phòng” nên phải ngủ dưới gầm bàn vẽ hay trong chiếc xe cũ đậu trong parking lot của trường, tắm ở phòng thể dục (gym) của trường, ăn mì gói dài dài... Nước Mỹ không phải lúc nào cũng là một “Thiên đàng” như nhiều người lầm tưởng! Hãy xem biết bao người là homeless ở California? Tôi chấp nhận bắt đầu làm lại cuộc đời mình từ đáy xã hội để vươn lên nên không dám than thở mà cứ phải cố gắng học và đi làm để hy vọng có một ngày khá hơn! Dù sao, với tôi, nước Mỹ vẫn khá hơn quê tôi nhiều! Trong 2 năm làm phụ giáo ở Orange County, tôi cũng hiểu được tại sao học trò ở Mỹ thiếu sự kính trọng các thầy cô giáo, vì sao các em lại dễ hư hỏng trong khi các em có đầy đủ điều kiện, tiện nghi hơn ai hết để có thể trở thành con ngoan - trò giỏi - công dân tốt. Giá như các em đừng biết xài tiền và đua đòi quá sớm, được gia đình - nhà trường - xã hội quan tâm nhiều hơn đến việc giáo dục tâm sinh lý, đạo đức hơn là tư tưởng hiện sinh - thực dụng thì có lẽ sẽ hạn chế phần nào tình trạng những trẻ vị thành niên hư hỏng, phạm tội. Từ vai trò một sinh viên đến vị trí một phụ giáo đã cho tôi thấy nhà trường Mỹ rõ ràng khác với nhà trường Việt Nam nhiều quá, nhất là khi mà thầy cô đến lớp với ý nghĩ đi dạy chỉ là một cái job, ít ai có lương tâm chức nghiệp và cũng khó có biện pháp giáo dục nào hữu hiệu trước những lắt léo của luân lý, đạo đức, tập tục và quan niệm sống của người Mỹ và xã hội Mỹ! Khi ra trường, tôi cũng phải đổi từ các hãng tư vấn - thiết kế ở Costa Mesa về Buena Park qua Fullerton rồi trở thành công chức ở Artesia, lên San Jose, qua Fremont rồi Oakland trước khi quay về Los Angeles. Chỉ một thời gian ngắn với bấy nhiêu lần thay đổi, từ những ông boss gốc Do Thái, Đài Loan, Trung Đông hay Việt Nam, trường đời đã cung cấp tôi khá nhiều kinh nghiệm, kiến thức quý báu gấp mấy lần những năm dùi mài trong trường Fullerton, Pomona và UCLA. Biết chủ bóc lột nhưng tôi lại cứ làm việc chăm chỉ, siêng năng, chịu khó học hỏi, bệnh cũng không dám nghĩ bởi dù sao, nghĩ lại thì tôi vẫn sướng hơn thời gian còn kẹt lại trong nước, làm như trâu mà vẫn không đủ ăn. Bây giờ, làm một giờ ít ra cũng đủ mua một hộp gà chiên dòn hiệu KFC, cuối năm còn dành dụm chút ít gửi về cho thân nhân bên nhà. Chính lúc này, tôi thật sự biết ơn nước Mỹ đã cho tôi cuộc sống mới, tự do hơn, bình đẳng hơn và nhiều cơ hội học hỏi để tiến thân bằng chính khả năng của mình, mở rộng tầm mắt để nhìn thấy rõ ràng và đúng hơn về chính bản thân mình, về quá khứ/ hiện tại/ tương lai, về quê hương Việt Nam và cộng đồng Việt Nam ở Mỹ của tôi nên tôi không thể nào phủ nhận lòng bao dung của nước Mỹ và cả chính xã hội Mỹ với tất cả tốt/ xấu, hay/ dở... đã thật sự đổi đời mình. Có lẽ đây là một trường học mà tôi sẽ phải “mài đũng quần” cho tới cuối đời vẫn chưa học hết với biết bao điều cần thiết cho đời mình. Sau 10 năm lăn lộn trong cuộc sống bon chen của nước Mỹ, giờ đây tôi mới có thể tự tin hơn khi nhìn về tương lai và đến hôm nay tôi phải nói thật rằng”đất hứa” này sẽ là “quê hương thứ hai” của tôi. Cho dù tôi vẫn không sao quên được Việt Nam - quê hương mà tôi đã sinh ra và lớn lên nhưng sau một cuộc “đổi đời,” tôi buộc lòng phải chạy tìm đất mới màsống chỉ vì chế độ Cộng Sản tại Việt Nam đã trả thù tàn nhẫn một đứa “con Ngụy” như tôi bằng đủ hình thức phân biệt đối xử để dồn tôi vào chân tường trong suốt 11 năm! 25 năm qua, tôi đã trưởng thành từ “trường đời” ở Việt Nam, qua các trại tị nạn Mã Lai & Phi Luật Tân rồi tới Hoa Kỳ, với nhiều bài học quý giá, biết rõ hơn về thực tế cuộc sống, biết trân trọng “Tự Do” và “Dân Chủ” và cũng biết ước mơ nhiều hơn về tương lai. Năm 1996, lần đầu tiên tôi trở về thăm Việt Nam của mình vào thời mở cửa với nhiều “đổi mới” rất đáng khích lệ và cũng thấy ngỗn ngang nhiều chuyện không vui,chưa hẳn là đúng/ tốt/ công bằng và nhất là những mâu thuẫn do chênh lệch giàu - nghèo nhưng tôi cũng đành bó tay, không làm được gì hơn là viết ra những điều mình trăn trở, băn khoăn, qua kinh nghiệm của một chuyên viên kiến trúc - quy hoạch ở tiểu bang California về hướng phát triển của Saigon nói riêng, Việt Nam nói chung hôm nay và tương lai.

3 nhận xét:

  1. Anh Thảo ơi, em đến phi trường LAX vào trưa ngày14 tháng 9 năm 1987 chứ không phải 1997. Gửi lời thăm Anh Chị.
    Đạt

    Trả lờiXóa
  2. Chúc anh chị năm mới vạn sự như ý. thỉnh thoảng em có gặp anh Phước, Kim Chi. Đạt

    Trả lờiXóa

  Tết Sài Gòn trăm năm trước ra sao?   Biết những gì xảy ra trong quá khứ xa xưa dường như là mơ ước muôn đời của con người. Bởi trong c...