Thứ Năm, 29 tháng 9, 2016

Sài Gòn: Biệt thự cổ biến mất 'đáng buồn'




Du khách văn hóa đến Sài Gòn chỉ biết vài tòa nhà quen thuộc như Bưu điện Thành phố (Ảnh: CiaoHo)




Một nhà nghiên cứu người Ireland nói Sài Gòn đánh mất đi “tính cách” khi hiều những kiến trúc thuộc địa và hậu thuộc địa quan trọng biến mất.


Ông Tim Doling, từng có nhiều năm ở Việt Nam, nói với BBC Tiếng Việt ông “không ngạc nhiên” khi các kiến trúc cũ biến mất.
Trung tâm nghiên cứu kiến trúc thuộc Sở Quy hoạch kiến trúc Tp.HCM nói có đến gần nửa biệt thự cổ đã "biến mất" trong số 1.300 biệt thự cổ xây trước 1975, tờ VnExpress đưa tin hồi cuối tuần trước.
Nhà nghiên cứu nói: “Tôi đi vòng quanh thành phố rất nhiều, và không có ngày nào trôi qua mà tôi không thấy những tấm bảng lớn chăng xung quanh những tòa nhà cũ chuẩn bị bị phá hủy. Tôi đã viết rất nhiều bài báo về việc phá bỏ nhiều tòa nhà có giá trị quan trọng, nhưng rất đáng buồn ngày càng có thêm nhiều ngôi nhà bị phá bỏ mà không ai để ý.”
Cuối năm 2015, khi Sài Gòn quyết định phá bỏ thương xá Tax, làn sóng dư luận đã dấy lên đặt câu hỏi về sự bảo tồn các kiến trúc quan trọng từ xưa của thành phố. Dư luận chuyển thành một thư kiến nghị hàng ngàn người tham gia yêu cầu giữ lại Thương xá Tax, mà sau đó công ty SATRA chấp nhận giữ lại cầu thang mosaic chính và một số kiến trúc quan trọng của tòa nhà.
Ông Tim Doling nhận định: “Rất nhiều tòa nhà di sản có giá trị thẩm mỹ vô giá, rất nhiều nơi người ta muốn đến thăm và được bước vào. Bạn có thể nhìn những tòa nhà cũ như số 14 Tôn Thất Đạm, 42 Nguyễn Huệ hay số 9 Thái Văn Lung, trong những năm gần đây, người trẻ đã biến nơi này thành những cửa hàng thời thượng, quán cafe và nhiều cửa hàng thời trang ở đó.”

'Mở đường" cho tòa nhà mới

“Rất nhiều tòa nhà kiến trúc cũ có giá trị bị phá hủy để mở đường cho những tòa nhà mới này,” ông nhận định.

“Việc phá hủy có hệ thống nhiều kiến trúc di sản quan trọng và việc xây dựng phân mảnh, không phù hợp những tòa nhà chọc trời xấu xí trong nhiều năm qua ngay giữa trái tim thành phố thể hiện sự thiếu tầm nhìn trong phát triển đô thị.”
“Nguyên nhân thực sự duy nhất có lẽ là lợi nhuận khổng lồ bởi những nhà phát triển xây dựng những toàn nhà chọc trời ở những nơi được gọi là đất vàng.”
“Dĩ nhiên, chúng ta có thể giải thích cho giá trị kinh tế của việc bảo tồn di sản, vốn đã từng được ghi nhận ở rất nhiều quốc gia, nhưng đáp lại đó là giá trị lâu dài và không bao giờ có thể cạnh tranh với lợi nhuận tức thì do những nhà phát triển lớn tạo ra.”

“Chỉ có chính phủ đứng giữa các tòa nhà di sản và sự phá hủy. Trong khi đó hiện thời, cơ quan bảo tồn nhà nước ở Sài Gòn chỉ đóng vai trò rất nhỏ trog phát triển đô thị.”


Nhiều trụ sở của các cơ quan nhà nước tại các quận trung tâm ở Sài Gòn là các công trình kiến trúc quan trọng.

“Các kiến trúc di sản gắn liền với các sự kiện lịch sử chính là điều khiến du khách nước ngoài tìm đến tham quan. Các cơ quan quản l‎ý du lịch Việt Nam thường đổ lỗi cho việc giảm du khách vì chất lượng quảng bá và sự không hấp dẫn của khẩu hiệu du lịch, nhưng lại quên đi thực tế là các tòa kiến trúc đẹp thu hút du khách văn hóa, đang ngày qua ngày biến mất."
“Trong khi nhóm du khách này rất chịu chi tiêu.”
Ông Tim Doling cho biết, ông cũng là người hỗ trợ tài liệu lịch sử cho nhiều tổ chức và nhóm văn hóa tại Sài Gòn khi thực hiện các chương trình tìm hiểu lịch sử về các tòa nhà của thành phố.
Nhà nghiên cứu này từng làm việc với Bộ Văn hóa – Thông tin Việt Nam từ năm 1999-2004 trong dự án về phát triển giáo trình quản lý nghệ thuật trong ba trường đại học tại Hà Nội.
Ông cũng là tác giả quyển “Đường sắt và đường xe điện của Việt Nam”.

Giới trẻ "có quan tâm"

Trong khi đó, nói với BBC Tiếng Việt từ Sài Gòn, Daniel Caune, một kỹ sư kiến trúc người Pháp ở Sài Gòn đang xây dựng cơ sở dữ liệu các tòa nhà ở Sài Gòn nói: “Truyền thông và giáo dục là cách quan trọng để bảo tồn các di sản này. Thế hệ trẻ Việt Nam có vẻ rất sẵn sàng bảo vệ di sản thành phố.
"Đó là điều chúng tôi bắt đầu một năm trước với Đài Quan sát Di sản Sài Gòn, một dự án dữ liệu mở, xây dựng trên mạng xã hội, định vị và ghi nhận lại tài liệu về các tòa nhà. Chúng tôi đã tích hợp hàng ngàn bưu thiếp cũ, ảnh cũ lại cho cơ sở dữ liệu này.”


Nhà thờ Đức Bà ở Sài Gòn là một công trình kiến trúc di sản quan trọng

Ông Daniel cũng nói “Tronc các bưu thiếp cũ của Sài Gòn cho thấy cảnh quan thành phố, tuyệt đẹp và thanh lịch. Nhưng giờ đây vẻ đẹp đó đã bị phá hủy, qua nhiều năm, và sự phá hủy này gia tăng trong thập niên vừa qua.”
Cơ sở dữ liệu của nhóm Đài Quan sát Di sản Sài Gòn được cập nhật trực tiếp trên Google Maps và các kiến trúc sư, sử gia bổ sung tài liệu bên cạnh hình ảnh do công chúng cung cấp.
Trên báo VnExpress cuối tuần trước, Ông Hoàng Minh Trí - Phó Viện trưởng Nghiên cứu phát triển Tp.HCM nói “tiêu chí để đánh giá phân loại biệt thự cổ chưa có là quá trễ so với nhu cầu phát triển” nhưng ông cũng nói “đã trình dự thảo tiêu chí quản lý và phân loại biệt thự nhưng chưa được thành phố thông qua”.
                                                                                          Theo BBC Việt Nam

Thứ Bảy, 24 tháng 9, 2016



NGÀY ẤY VÀ BÂY GIỜ



                         981. Văn phòng hãng BGI đường Hai Bà Trưng năm 1971  và bây giờ.


                         982. Những cửa hiệu đường Lê Thánh Tôn khoảng giữa Pasteur và Công Lý năm 1966 và hiện nay.


                         983. Góc Hai Bà Trưng và Nguyễn Đình Chiểu (Trần Quốc Toản) xưa và nay.


                         984. Tòa nhà 213 Tự Do ngày xưa và vị trí hiện nay,


                         985. Bên ngoài  Ambassador Hotel bên hông quốc hội ngày xưa và hiện nay.


                         986. Mặt tiền Ambassador Hotel 17 Lam Sơn xưa và nay.


                         987. Trạm xăng góc Pasteur - Hiền Vương xưa và nay.


                         988. Đường Hai Bà Trưng trước cư xá Brink ngày xưa và vị trí hiện nay.


                         989. Một đoạn đường Nguyễn Huệ xưa và nay.


                         990. Cầu Thị Nghè năm 1965 và hiện nay.


Nguồn Tim Doling, Paul Blizard, Trung Ngo

Thứ Hai, 19 tháng 9, 2016


Sự cướp phá tòa đại sứ Pháp
            tại Sài Gòn tháng 7 năm 1964                                                                             
 (Tiếp theo)

1964 cơ hội để trung lập hóa
Năm 1964, sự nguy hiểm càng ngày càng lớn dần. Mặt trận Giải phóng miền Nam kiểm soát một phần lớn của các chiến dịch và các vụ ám sát Ngô Đình Diệm đã dìm những thành phố miền Nam Việt Nam trong một sự hỗn loạn chính trị thực sự trong đó tám nội các nối tiếp nhau trong khoảng thời gian mười chín tháng. Sự sụp đổ của chế độ cho phép những tiếng nói mà trước đó đã bị trấn áp được lên tiếng. Họ ca ngợi công lao của “Cách mạng 1963” và thách thức tất cả những mưu toan lập lại chế độ đã bị lật đổ. Họ lên án độc đoán của chính quyền, sự mờ ám của của chế độ đã thiên vị người công giáo và đàn áp người phật giáo. Nhưng mối nguy hiểm lớn nhất trong con mắt của những người di cư là đặt lại nghi ngại hai điểm cốt yếu của các bài phát biểu của ông Ngô Đình Diệm: cuộc chiến chống lại chủ nghĩa cộng sản và sự thống nhất của Việt Nam. Họ phải đảm bảo rằng cuộc cách mạng năm 1963, lật đổ tất cả các giáo điều của chế độ cũ nhưng không vất bỏ lý tưởng quốc gia mà họ khao khát.
Nếu trước đây vài tiếng nói độc lập đề nghị đàm phán với miền bắc, trong năm 1964 đã xuất hiện một xu thế thật sự về trung lập hóa. Một số phong trào, như vì hòa bình của nhà sư Thích Quảng Liên muốn ngăn chặn xung đột tương tàn đã chia rẽ người Việt Nam từ năm 1945 (28). Nhưng ngoài các cuộc gọi cho một lệnh ngừng bắn, các phong trào ly khai đe dọa phá vỡ miền Nam Việt Nam. Trong tháng tám năm 1964 hội đồng nhân dân cứu quốc thành lập ở Huế đòi quyền tự trị miền Trung Việt Nam và trung lập hóa tất cả mọi xung đột trên vùng đất này (29). Theo tổ chức này, miền trung trở thành vùng đệm cho vụ xung đột nam bắc. Nhưng đối với người di cư, đề xuất này là một đe dọa như việc đòi trung lập hóa. Trong trường hợp Nam Việt Nam nếu bị chia cắt, nhiệm vụ của họ để thống nhất đất nước sẽ gặp khó khăn gấp đôi.
Những cuộc biểu tình năm 1964, tạo thành một phản ứng của những bước đi mới . Hành động của sinh viên không chỉ nhắm tới nước Pháp mà còn chính phủ và nhân dân, rằng sự bất công của Hiệp định Geneve đã làm họ không thể quên. "Tinh thần của đêm không ngủ là biểu hiện của người dân về văn hóa, niềm tin vào chiến thắng của lý trí và chính nghĩa của các quốc gia yếu kém. Mục tiêu của đêm không ngủ là để cảnh tỉnh, để cảnh báo đồng đội rằng những người yêu nước đang đối diện với một quá khứ giả dối và mối đe dọa hiện tại của cộng sản và thực dân là sự thông đồng giữa hai bên” (30), đó là lời tuyên bố của tổng hội sinh viên. Trong cuộc họp báo hai ngày sau các cuộc cướp phá, cũng nhắc nhở rằng họ đã sẵn sàng để chiến đấu cho sự thống nhất của đất nước. Khi một phóng viên hỏi tại sao các sinh viên lo ngại sự tổng động viên nếu họ thấy mình rất quyết tâm để chiến đấu chống chủ nghĩa cộng sản, chủ tịch hội trả lời rằng sự chống đối của họ về sự không công bằng trong việc tuyển mộ, "Nhưng trong trường hợp có một cuộc bắc tiến, cần có một cuộc tổng động viên thì sinh viên thì sẽ tình nguyện tạo thành hàng ngũ phía trước” (31).
Một vài ngày sau khi vụ cướp phá tòa đại sứ, tượng đài tại công trường đài chiến sĩ bị tháo dỡ bằng dây thừng và cuốc bởi các sinh viên (32). Tổng hội sinh viên nắm lấy cơ hội này để nhắc nhở lại tuyên bố của mình. Họ yêu cầu cắt đứt quan hệ ngoại giao và quốc hữu hóa tài sản của Pháp. Nhưng bên cạnh đó, họ cũng yêu cầu chính phủ nên bắt đầu chuẩn bị cho một cuộc hành quân bắc tiến (33). Mặc dù tổng hội không đại diện cho ý chí của tất cả các thành viên, thông điệp của nó rất rõ ràng: Quyết tâm chống lại chủ nghĩa cộng sản và thống nhất Việt Nam. Trong những tháng sau đó các cuộc biểu tình chống Pháp vẫn tiếp tục, sinh viên tiếp tục đấu tranh chống lại các mối đe dọa cả trung lập và ly khai. Đồng thời tổng hội hình thành lực lượng sinh viên liên đại học do Nguyễn Phúc Liên, một người gốc bắc và rất gần với giới công giáo Bùi Chu. Tổ chức này dùng để chống lại hội đồng nhân dân cứu quốc đã bắt đầu xâm nhập vào trong giới sinh viên ở Huế (34).
Cuối cùng, các sinh viên cũng không phải một mình là người đáp lại lời kêu gọi thự hiện sự thống nhất. Một bài viết trên báo Dân chủ mới, điều hành bởi Hà Thành Thọ, một nhà báo di cư cũng nhắc lại nguồn gốc của lý tưởng quốc gia: "Từ những ngày đầu tiên của cuộc đấu tranh chống Pháp, chúng ta nhớ rằng vấn đề thống nhất đất nước cho nhân dân ta cũng không kém quan trọng hơn độc lập. Độc lập mà không thống nhất lãnh thổ sẽ là chỉ một sự độc lập tạm thời kể từ thời điểm đó, khi Pháp vẫn ở Nam Kỳ, độc lập cho An Nam và Bắc Kỳ chỉ là sự độc lập bấp bênh. (...) Pháp đã thay đổi chiến thuật và ngừng chống lại việc thống nhất "nếu đó là ý nguyện của nhân dân Việt Nam", nhưng biến độc lập thành một dạng tự trị (...). Dân tộc chúng ta liên tục phản đối, quyết tâm đổ máu mình để đạt được độc lập và thống nhất thật sự. (...). Chúng ta cuốn theo những thời điểm khó phân biệt được nhưng chúng ta có một thế hệ trẻ đầy nhiệt tình và cam kết tương lai của tổ quốc chúng ta là an toàn và tràn đầy hy vọng. " (35) Đối với những người di cư, là một quốc gia Việt Nam duy nhất thống nhất từ Bắc đến Nam.
Dù là sinh viên hay nhà báo, những người di cư nắm lấy cơ hội của lễ kỷ niệm lần thứ mười này để nhắc nhở những người còn lại về sự cấp bách của việc đạt được lý tưởng quốc gia của họ và không bỏ cuộc. Đối mặt với các mối đe dọa cộng sản ở nông thôn và sự bất ổn chính trị, họ mạnh mẽ tái khẳng định ý nguyện của họ là thống nhất đất nước. Nhưng thiếu vắng một chính phủ cứng rắn và và có tham vọng giống như họ, những người di cư chỉ còn một điều phải làm: xuống đường và thậm chí cầm vũ khí để bảo vệ quyết tâm này. Giữa năm 1964 và 1966, và thậm chí sau khi bắt đầu có sự can thiệp của Mỹ, người di cư cũng không giảm cảnh giác. Đối mặt với sự kích động đôi khi tạo ra  bạo lực của đối phương (36), những người di cư tập hợp lại trong vô số các tổ chức từ năm 1964 và 1966, bề thế khác nhau. Một số hoàn toàn công giáo như Đoàn Đại Kết, số khác, gồm mặt trận iên tôn giáo chống lại chủ nghĩa cộng sản và trung lập của cha Hoàng Quỳnh (37). Những tổ chức khác là các quân nhân, như những người Nùng nhóm lại trong Hiệp hội các cựu chiến binh yêu nước (38). hoặc lực lượng bán quân sự như lực lượng Hùng Vương (39). Nhưng các hội này dù phương thức hoạt động có khác nhau nhưng yêu cầu một mục tiêu duy nhất liên kết họ: đó là sự thống nhất và giải phóng Việt Nam khỏi chủ nghĩa cộng sản.
Kết luận
Một phân tích về những sự kiện dẫn đến việc cướp phá tòa đại sứ Pháp tại Sài Gòn ngày 20 tháng bảy năm 1964 cho thấy phải nằm trong bối cảnh hai mặt của một xu hướng trung lập. Bên ngoài, đề nghị của Tướng De Gaulle đã làm lung lay tinh thần đoàn kết rõ ràng của mặt trận phương Tây để ngăn chặn các mối đe dọa Cộng sản. Bên trong, một phong trào nổi lên do hậu quả của các vụ ám sát Ngô Đình Diệm. Hành động này phá hoại làm ô nhục của một cuộc khủng hoảng sâu sắc hơn, như tất cả những biểu hiện phong trào bài Pháp của các cuộc biểu tình năm 1964 chỉ là đỉnh của tảng băng trôi. Những người di cư mà cuộc sống đã bị thay đổi sau Hiệp định Geneve là những người ủng hộ mạnh mẽ của một nước Việt Nam thống nhất. Các khoảng trống chính trị còn lại của sự sụp đổ nền Cộng hòa và những phản ứng quốc tế do dự đối với sự mở rộng của chủ nghĩa cộng sản trùm lên một mối nghi ngờ sâu sắc, không làm cho họ dửng dưng lại. Những người di cư phản bác lại những đề nghị của Pháp cũng như mối đe dọa trung lập hóa và phá vở một nước Việt Nam từ bên trong. Những "cựu binh" của Chiến tranh Đông Dương đã huy động tất cả các nguồn lực của mình để tiếp tục cuộc chiến chống lại chủ nghĩa cộng sản và lãnh đạo đất nước để chiến đấu trong cuộc chiến tranh Việt Nam. (36)

Phần chú thích
28  Contrairement à l’idée d’un Bouddhisme manipulé par les communistes comme dans Marguerite Higgins dans 1965. Our Vietnam Nightmare, New York, Harper & Row, ou Mark Moyar. « Political Monks: The Militant Buddhist Movements during the Vietnam War », 2004. Modern Asian Studies, 38(4), 749-794, les velléités bouddhistes étaient nationalistes, Edward Miller. « Religious Revival and the Politics of Nation Building : Re-interpreting the 1963 ‘Buddhist Crisis’ in South Vietnam  ». Modern Asian Studies, ou pacifistes selon Robert J. Topmiller, 2006. The Lotus Unleashed: The Buddhist Peace Movement in South Vietnam, 19641966, Lexington, University Press of Kentucky.
29  SHD GR/10T, 967, Rapport de l’Ambassade de France sur la situation politique au Vietnam en août 1964 au Ministre des affaires étrangères, 31 août 1964, p. 16. Un bulletin du Service de la documentation extérieure et du contre-espionnage français rapporte que ces projets séparatistes sont réitérés lors des élections de 1966. Le bonze Tich Tri Quang demandait l’autonomie du Centre Vietnam, où le conflit contre les communistes serait neutralisé et l’aide économie et technique américaine substituée
par la France et le Japon. SHD GR/10T, 973, Bulletin de renseignement du SDECE sur les menaces de sécession du Centre-Vietnam.
30  « Thông cáo của Tổng hội Sinh viên Saigon về cuộc tuấn hành trong đêm không ngủ » [Proclamation de l’Association générale des étudiants au sujet du cortège de la nuit sans sommeil]. Tự do, 22/7/1964,  p. 1.
31  « Đoạn giao với Pháp » [Rupture des relations diplomatiques]. Tự do, 22/7/1964, p. 4.
32  « Dêm hôm qua 28-7, 1 nhóm sinh viên đập phá và kéo đổ 3 pho tượng đồng tại Công trường Chiến-sĩ Pháp » [La nuit dernière du 28/7, un groupe d’étudiants saccage et fait tomber les trois statues de bronze de la Place des combattants français]. Dân chủ mới, 30/7/1964, p. 1
33  « Tuyên ngôn của Uỷ ban Sinh viên Cách Mạng yêu cầu 7 điểm » [La déclaration du comité des étudiants révolutionnaires en sept points]. Dân chủ mới, 30/7/1964, p. 1
34  Nguyễn Phúc Liên. Tóm tắt lý lịch. Visité le 7/7/2014, http://www.viettudan.net/36984/index.html. 35  Lê Hữa. « Đêm không ngủ » [La nuit sans sommeil]. Dân chủ mới, 24/7/1964, p. 3.
36  Le 21 septembre 1964, le Comité de salut national vandalisa plusieurs bureaux gouvernementaux et occupa la radio de Hué. Le 23 janvier 1965, il incendia la bibliothèque de la Chambre d’information américaine de la même ville.
37  TTLT2/PThT/An Ninh [Sécurité], 15.166, Tài liệu của Võ phòng về tình hình an ninh tại khu vực đồng bào công giáo tại Biên Hoà và Gia Định năm 1965, 5.1.654.6.65 94 tr. Tài liệu hạn chế, [Documents des renseignements de police sur la sécurité dans les zones des compatriotes catholiques de Bien Hoa et Gia Dinh en 1965, 5.1.65-4.6.65 94 p. Diffusion restreinte].
38  TTLT2/PThT/An Ninh [Sécurité], 14.990, Hồ sơ v/v các cá nhân và đàon thể xin thành lập các lực lượng chiến đấu chống cộng và việc tuyển dùng quân nhân giáo phái vào địa phương quân năm 1964 8.1.64-22.1.65 58 tr., Tài liệu hạn chế, [Dossier sur les personnes et groupes demandant la création de forces anticommunistes et l’engagement de forces religieuses dans les forces régionales, 1964, 58 p. Diffusion restreinte].

39  TTLT2/UBLĐQG/, 569, Hồ sơ v/v hoạt động của các lực lượng năm 1965-1967 79 tr, [Dossier sur les activités des forces paramilitaires].

Tài liệu đối chứng:

Thứ Bảy, 17 tháng 9, 2016

NGÀY ẤY VÀ BÂY GIỜ


                             971. Rạp Nam Quang góc Trần Quý Cáp-Lê Văn Duyệt và giờ đây.


                            972. Đường Hai Bà Trưng sau lưng quốc hội ngày nào và hiện nay.


                             973. U.S. Army CAPITAL BEQ đường Đồng Khánh ngày nay không còn nữa.


                             974. Vị trí bức tượng TQLC ngày xưa và nay.


                             975. Vị trí những cô gái đứng đón xe buýt tại bùng binh chợ Bến Thành ngày và hiện nay.


                             976. Nhà thương Sài Gòn xưa và nay.


                             977. Đường Hai Bà Trưng gần tới chợ Tân Định xưa và nay.

                             
                             978. Đường Hồng Thập Tự trước trường Lê Quý Đôn xưa và nay.



                             979. Nhà thờ Thánh nữ Jeanne d' Arc xưa và nay.


                               980. Tượng An Dương Vương tại ngả 6 Chợ Lớn xưa và nay.


Nguồn Tim Doling, Paul Blizard

Thứ Sáu, 16 tháng 9, 2016

Sự cướp phá tòa đại sứ Pháp
      tại Sài Gòn tháng 7 năm 1964             

 (Tiếp theo)


Trung lập hóa miền Nam Việt Nam
Sự thường trực của mặt trận quốc nội
Nước Pháp không phải là trở ngại duy nhất cản trở những người di cư. Kế hoạch về một Việt Nam thống nhất từ bắc vào nam và dẹp bõ sự hiện diện của cộng sản đã được sự chấp thuận của Ngô Đình Diệm và đồng minh Hoa Kỳ của ông. Nhưng tầm nhìn này lại xa sự đồng lòng của nhân dân miền Nam Việt Nam. Dưới một cữ chỉ ngầm ra dáng vẻ bài Pháp, sự cướp phá tòa đại sứ từ sự phản ứng của người di cư kép làm gia tăng mối đe dọa từ việc trung lập hóa đến từ phía Pháp và từ bên trong lãnh thổ.
Sau Hiệp định Geneve năm 1954, một bộ phận dân cư thích nghi tốt về một sự dàn xếp được tìm thấy ở lệnh ngừng bắn (18). Thậm chí họ còn hài lòng với một biên giới cuối cùng tại vĩ tuyến 17 như Hàn quốc. Nhưng đối với người di cư, sự chia cắt này là điều khó có thể quan niệm. Báo chí cũng liên tục xuất bản tin tức tin tức về miền bắc (19). Những ấn bản đặc biệt của báo dành cho cuộc thi sáng tác về các bài thơ về miền đất đã mất này. Cộng đồng báo chí được huy động để miền bắc không biến mất khỏi ký ức và sự giải phóng cũng không bị xóa khỏi những ưu tiên chính trị. Đường biên tưởng tượng của quốc gia, như từ ngữ của Benedict Anderson sử dụng (20), không thể dừng lại ở vĩ tuyến 17. Lãnh thổ luôn gợi trong lòng các học giả miền nam Việt Nam là chạy từ mũi Cá Mau đến ải Nam Quan là điều hiển nhiên trong suy nghĩ của mọi người.
Ngoài ra, nước Pháp không phải là nước duy nhất đề xuất việc không chống cộng sản. Những người di cư biết rõ điều này. Trước khi có lời kêu gọi của De Gaulle, bác sĩ Phan Quang Đán để xuất vào năm 1957 một giải pháp thương lượng với miền bắc (21). Lập tức là lời đáp trả mạnh mẽ, chính phủ dồn dập xử phạt hành chính tờ báo loan tin (22). Nhưng những người di cư cũng không để yên. Họ cũng công kích đề xuất trên, tờ Luyện Thép là tờ báo địa phận Vinh của những người di cư tức tối vì lời nói xuất phát từ một người gốc miền bắc và cho rằng nó giống luận điệu tuyên truyền của cộng sản (23). Bí ẩn hơn , các cơ quan báo chí cùng bị lục soát và 50.000 bản sao bị thiêu hủy (24). Mỗi khi Hà Nội đề xuất thành lập thương mại và quan hệ văn hóa như là một bước đầu tiên hướng tới việc bình thường hóa quan hệ giữa Bắc và Nam, thì báo chí của những người di cư đập trả lại (25). Những kẻ quá khích sẳn sàng gầm ghè (26). Tất cả các lý lẽ đó đều tốt để đảm bảo không có ai ở phía nam vĩ tuyến 17 chú ý tới việc đó.
Năm 1960, khi cuộc nổi dậy của cộng sản lại tiếp tục ở trong nước, câu hỏi được đặt ra một lần nữa. Có nên đánh nhau hay ngược lại hay hành động cho hòa bình? Một lần nữa, chúng ta có thể gặp trong các cuộc tấn công của báo chí chống lại những người chiến bại và trung lập: "Những xu hướng này là được gọi là ‘ mặt trận quốc nội’. Người ta tìm thấy có nhân viên tình báo làm tay sai cho ngoại bang, những kẻ tình nguyện gieo rắc sự chia rẽ” (27). Dù dưới một chế độ có chia sẻ lòng tham vọng dân tộc và kiềm chế sự gia tăng bất kỳ hình thức bất đồng chính kiến, những người di cư không hạ vũ khí. Có hoặc không có sự hỗ trợ của Ngô Đình Diệm, họ chống lại bất kỳ ý kiến đi ngược lại mong muốn của họ để thống nhất một Việt Nam không có sự hiện diện của cộng sản.



Phần chú thích
18  Par exemple, le Mouvement de la défense pour la paix formé à Saigon le 1er août 1954, rendu public le 10 août, rassemblant vingt-six intellectuels, techniciens et propriétaires terriens du Sud, CAOM/HCI/ SPCE, 83, Mouvement pour la défense de la paix.
19  De tous les journaux publiés par des réfugiés, rien que les titres Hà Nội et Tin Bắc (Les nouvelles du Nord), Hồn Quê (L’âme des terres natales) sont révélateurs.
20  Benedict O’ G. Anderson. 1983. Imagined Communities: Reflections on the Origins and Spread of Nationalism, New York, Verso.
21  « Lập trường của Bắc sĩ Phán Quang Đán: Hiệp định Geneve và tổng tuyển cử » [L’opinion du Dr. Phan Quang Dan: Les Accords de Paris et le référendum]. Thời Luận, 28/7/1957, p. 1. Voir aussi Nghiêm Xuân Thiện. « Hiệp thương và thống nhất » [Les négociations et l’unification]. Thời Luận, 11/8/1957, p. 1 et Nghiêm Xuân Thiện. « Thống nhất là tranh thủ nhân dân » [L’unification pour gagner le peuple]. Thời Luận, 18/8/1957, p. 1.
22  « Vụ xử án Thời Luận ngày thứ năm 3-10 vừa qua » [Le procès de Thoi Luan jeudi 3-10 dernier]. Thời Luận, 6/10/1957, p. 1. Le gouvernement lui imposait une amende supérieure à 100 000 piastres rappelait son directeur Nghiêm Xuân Thiện. « Lời nói đầu của Nghiêm Xuân Tiện » [L’introduction de Nghiem Xuan Tien]. Thời Luận, 16/1/1964, p. 1.
23  Khai Minh. « Thử đạt lại trách nhiệm lịch sử trức vấn đề thống nhất lãnh thổ Việt Nam » [Considérons à nouveau notre responsabilité historique face au problème de l’unification du territoire vietnamien]. Luyện Thép, 15/7/1957, p. 3, Khai Minh. «  Lập trường: Ý kiến chúng tôi về lập trường thống nhất của Báo Thời Luận và của KHối dân chủ đối lập » [Notre avis sur la position du journal Thoi Luan et du Bloc démocratique d’opposition sur l’unification]. Luyện Thép, 1/9/1957, p. 3.
24  Nghiêm Xuân Thiện. « Lời nói đầu của Nghiêm Xuân Tiện » [L’introduction de Nghiem Xuan Tien]. Thời Luận, 16/1/1964, p. 1.
25  Voir « Chung quanh đề nghị của Phạm Văn Đồng » [Autour des propositions de Pham Van Dong]. Lửa sống, 2/8/1955, p. 1, « Không hiệp thương với Việt Cộng » [Pas de négociations avec le Viet Cong]. Dân Việt, 7/7/1956, p. 38-39, « Nghiên cứu bản tuyên cáo của chinh phủ Cộng Hòa Việt Nam » [Une analyse des déclarations du gouvernement de la République du Vietnam]. Tin Bắc: Tuần san trào phúng - văn hóa - xã hội, 10/5/1958, p. 1.
26  En 1956, le journal Tiên Thủ fut saccagé par une horde de migrants lorsqu’il proposa des négociations avec le Nord comme le rappelait « Tóm tắt về đời sống và những hoạt động của đồng bào định cư » [Un résumé des activités et de l’existence des patriotes réimplantés]. Dân Việt, 25/4/1957, pp. 6-7.

27  SHD GR/10T, 963, Rapport de l’Ambassade de France sur la situation politique au Vietnam en juin 1960 au Ministre des affaires étrangères, 30 juin 1960, p. 49-50.

Thứ Tư, 14 tháng 9, 2016

Sự cướp phá tòa đại sứ Pháp
tại Sài Gòn tháng 7 năm 1964
                                                                             
(Tiếp theo)


Nước Pháp, kẻ đố kỵ đời đời với lý tưởng quốc gia
Những người di cư cảm thấy một tình trạng thù địch chống lại Pháp vì ngay cả sau khi Pháp ra đi, họ vẫn tìm cách ngăn lý tưởng quốc gia. Trong mắt người di cư, Paris đã gạt bỏ trách nhiệm của mình trong năm 1954 khi trung lập hóa các xung đột giữa "thế giới tự do" với các mối đe dọa của Cộng sản. Nhắc lại thông cáo của họ, Hiệp Định Geneve là "kết quả của một âm mưu bất chính, Việt Cộng [sic] liên minh với thực dân, đã chuẩn bị sẵn sàng để chia đất nước." (14) Những lời buộc tội là rất rõ ràng: những người cộng sản là kẻ thù số một và Pháp là đối thủ của một Việt Nam. Để lại một di sản nặng nề phía sau, các đô thị xưa là một phần trách nhiệm về sự ra đi của người Pháp.
Nhưng ngoài những sai phạm của lệnh ngừng bắn, Pháp tiếp tục thể hiện sự phản bội trong mắt của những người di cư. Giữa năm 1954 và 1960, Paris dường như đi theo một chính sách rõ ràng. Mặc dù thừa nhận của chính quyền miền Nam Việt Nam, nó vẫn tiếp tục duy trì quan hệ với Hà Nội. Chiến tranh đã kết thúc, Việt Nam đã được phi thực dân hóa, nhưng vẫn còn phải giải quyết một số khía cạnh của cuộc chiến. Các cuộc họp được lặp đi lặp lại trong khuôn khổ của Ủy ban hỗn hợp Trưng Gia. Jean Sainteny thậm chí còn được gửi đến Hà Nội là như đại diện chính thức của chính phủ Pháp. Sau đó, Pháp đã phải giải quyết các vấn đề của công nhân Bắc kỳ đã gửi tới Nouvelles Hébrides giữa những năm 1923 và 1940. Sự lựa chọn của Paris là cho hồi hương họ về miền Bắc vào năm 1960 đã được giải thích bởi là nơi xuất xứ của người lao động. Tuy nhiên, một số thành viên của quốc hội Sài Gòn phản ứng lại "Việc ký kết Thoả thuận là một thủ đoạn của thực dân với Việt minh [sic] được mưu toan ở Hà Nội và Noumea; Chính phủ Pháp, đã công nhận chính quyền Sài Gòn là chính quyền hợp pháp duy nhất của Việt Nam, không thể ủng hộ thỏa thuận này và cần chấm dứt hoặc không thi hành nó ", báo cáo của Đại sứ Pháp tại Quai d'Orsay (15). Đối với nhiều người di cư, nước Pháp sau khi đã giải phóng thuộc địa vẫn là trở ngại đời đời của Việt Nam.
Vị trí mập mờ của Pháp từ năm 1954 đến 1960 gây ra sự khó chịu đối với người di cư. Nhưng khi De Gaulle lên đã mang tới một hướng mới đối diện với quyền tự trị những vùng đất của đế quốc, dẫn đến hậu quả nghiêm trọng hơn đối với Việt Nam. Tổng thống được bầu công nhận sự tự quyết của Algerie và kết thúc cuộc xung đột vào năm 1962. Trong khuôn khổ chính sách về nền độc lập mà Washington bắt tay với Moscow và Bắc Kinh, ông cho là chính quyền hợp pháp của Việt Nam là Hà Nội và ủng hộ một quyết định từ giờ chấm dứt thù địch giữa những người Việt Nam hai miền nam bắc. Nhưng những đề xuất trung lập hóa đã làm những người di cư hết sức tức giận. Theo tờ Thời Báo, "các hoạt động của Pháp để trung lập hóa miền Nam Việt Nam, (...), rõ ràng là một nỗ lực thọt gậy bánh xe, phá hoại tình đoàn kết của phương Tây trong việc chống lại học thuyết cộng sản ở châu Á" (16) Hai ngày sau hãng thông tấn Pháp công bố chi tiết kế hoạch trung lập hóa gồm 3 giai đoạn: 1) ngưng bắn, 2) chấm dứt sự can thiệp nước ngoài và 3) thiết lập dần dần một quy trình thống nhất đất nước. Thông tấn xã Việt Nam vào ngày 20 tháng 1 đáp trả lại: “ Người ta tự hỏi nước Pháp có quyền gì áp đặt các kế hoạch để giải quyết các vấn đề Việt Nam. Những ngưới Việt có thẩm quyền liên quan nhớ lại rằng vào năm 1954, Pháp đã thất bại trong nhiệm vụ của mình để bảo vệ tự do của một quốc gia mà họ có trách nhiệm…. Ngay cả bây giờ, nó còn gây tổn thất cho lợi ích của nhân dân Việt Nam khi nước Pháp đang cố gắng tham gia vào chính trường Viễn Đông bằng hiệp thương với nhà cầm quyền cộng sản ở Bắc Kinh. Sự trở lại này không có nghĩa là sự trở lại của chủ nghĩa thực dân cũ ... " (17). Không thể phủ nhận, sự giận dữ của người di cư vào năm 1964 có nguyên gốc từ đề xuất trung lập hóa của Pháp. Nhưng lời kêu gọi cho Paris đã không đe dọa trong chính họ. Nó trở nên đặc biệt nguy hiểm ngay sau khi nó hiện thực hóa phong trào trung lập  nơi có nguồn gốc bên trong biên giới.

Phần chú thích
14  « Lập trường: Hiệp Định Genève có giá trị gì? » [Quelle est la valeur des Accords de Genève ?]. Luyện Thép, 1/8/1957, p. 1.
15  SHD GR/10T, 963, Rapport de l’Ambassade de France sur la situation politique au Vietnam en juin 1960 au Ministre des affaires étrangères, 30 juin 1960, p. QI3.
16  SHD GR/10T, 966, Rapport de l’Ambassade de France sur la situation politique au Vietnam en décembre 1963 au Ministre des affaires étrangères, 31 décembre 1963, p. P4.
17  SHD GR/10T, 967, Rapport de l’Ambassade de France sur la situation politique au Vietnam en janvier 1964 au Ministre des affaires étrangères, 31 janvier 1963, p.QI 2.

18  Par exemple, le Mouvement de la défense pour la paix formé à Saigon le 1er août 1954, rendu public le 10 août, rassemblant vingt-six intellectuels, techniciens et propriétaires terriens du Sud, CAOM/HCI/ SPCE, 83, Mouvement pour la défense de la paix.

  Tết Sài Gòn trăm năm trước ra sao?   Biết những gì xảy ra trong quá khứ xa xưa dường như là mơ ước muôn đời của con người. Bởi trong c...