Thứ Bảy, 6 tháng 1, 2018

DANH HIỆU: SÀI GÒN – HÒN NGỌC VIỄN ĐÔNG

Lâu nay, người ta nhắc tới Sài Gòn xưa thì đi đôi với danh hiệu “Hòn ngọc viễn đông” nhưng thực sự cũng ít có người biết hoặc hiểu rõ cái danh hiệu này từ đâu mà có, và, nếu có biết cũng chỉ dừng lại ở cái chổ là do người Pháp đặt cho. “Hòn ngọc viễn đông” thực ra được đặt cho nhiều thành phố ở châu Á thuộc về phần phía cực đông của địa cầu của các nước thực dân thời đó mà cụ thể là Anh và Pháp.
Sau khi xâm chiếm các quốc gia châu Á này vào thế kỷ 19, thực dân Anh và Pháp ra sức xây dựng những thành phố tại đây theo kiểu mẫu châu Âu và ganh đua xem ai sở hữu thành phố đẹp nhất. Chính vì thế, hai quốc gia này thi nhau đặt cho các thành phố thuộc địa của mình cái tên “Hòn ngọc viễn đông”. Cụ thể:
Hòn ngọc Viễn Đông (tiếng Anh: Pearl of the Orient, tiếng Pháp: la Perle de l'Extrême-Orient) là danh hiệu mà một số nước phương Tây đặt cho một số thành phố thuộc địa tại Châu Á như:
Manila, thủ đô nước Philipines, từng là thuộc địa của Hoa Kỳ
Hong Kong, thành phố cảng thuộc địa Anh, nay thuộc Trung Quốc
Thượng Hải, thành phố của Trung Quốc
Tên một tòa nhà tại khu Phố Đông, Thượng Hải: tháp truyền hình Minh Châu Phương Đông.
Sri Lanka, quốc đảo ở Nam Á
Penang, một khu du lịch ở Malaysia
Thành phố Sài Gòn trước đây, thuộc địa của Pháp, ngày nay là Thành phố Hồ Chí Minh
Phnom Penh, thủ đô nước Campuchia, từng là thuộc địa của Pháp
(Nguồn Wikipedia)

Sau khi đánh chiếm thành Gia Định, thì không bao lâu sau đó người Pháp quyết tâm xây dựng thành phố Sài Gòn để làm nơi điều hành guống máy thuộc địa của mình. Trên vùng đất mà thời đó lác đác những khu nhà lá, khu mua bán của người Việt và Hoa xen kẽ là các vùng trũng, đầm lầy đầu đưng lác, muổi mòng.
Ngày 11 tháng 4 năm 1861, Phó Đô đốc Léonard Charner ra nghị định xác định địa giới thành phố Sài Gòn (tiếng Pháp: Ville de Saigon) lúc đó phía đông là sông Sài Gòn, phía bắc là rạch Thị Nghè, phía nam là rạch Bến Nghé, phía tây từ chùa Cây Mai đến đồn Kỳ Hòa, diện tích 25 km², theo đó, ngày 30 tháng 4 năm 1862, trung tá công binh Coffyn đã cho soạn dự án mở rộng thành phố Sài Gòn, và được thống đốc đầu tiên của Nam Kỳ, Chuẩn đô đốc Louis Bonard. Tuy nhiên, dự án này chỉ được triển khai một thời gian ngắn thì bị bỏ dở. (………..) Địa bàn thành phố Sài Gòn theo quy hoạch của Coffyn nằm trải rộng trên cả 2 huyện Bình Dương và Tân Long, đều cùng phủ Tân Bình.
Để điều chỉnh lại, ngày 3 tháng 10 năm 1865, quyền thống đốc Nam Kỳ, chuẩn đô đốc Pierre Roze đã ký nghị định quy định lại diện tích của thành phố Sài Gòn chỉ còn 3km2 (nằm gọn trong khu vực quận 1 ngày nay), đồng thời cũng quy định thành phố Chợ Lớn (tiếng Pháp: Ville de Cholon) trong một nghị định khác, với diện tích 1km2 (nằm gọn trong quận 5 hiện nay). (…….) Địa bàn của thành phố Sài Gòn và thành phố Chợ Lớn, cùng các xã thôn ở giữa đều thuộc địa hạt (hay Quận) Sài Gòn. Trước đó, de La Grandière cũng đã ban hành nghị định số 53 ngày 4 tháng 4 năm 1867, quy định về việc "Tổ chức một ủy ban thành phố Sài Gòn" Sau đó, ngày 8 tháng 7 năm 1869, Chuẩn đô đốc Gustave Ohier đã ban hành nghị định số 131, cải danh Ủy hội thành phố (tiếng Pháp: Commission municipale) thành Hội đồng thành phố (tiếng Pháp: Conseil municipal), do một viên Thị trưởng (Maire) đứng đầu Hội đồng và một số sửa đổi chi tiết về thành phần nhân sự của Hội đồng. (Nguồn Wikipedia)



Bờ sông Sài Gòn thuở còn hoang sơ




Như vậy diện tích thành phố mà người Pháp ưu tiên để xây dựng một “Hòn ngọc viễn đông” đầu tiên chỉ vỏn vẹn có 3km2 và về sau được nâng lên bao gồm một phần quận 3. Tại đây các công trình quan trọng được xây dựng cùng với hệ thống thoát nước cùng đường xá cây xanh như dinh toàn quyền (Norodom), dinh phó soái (Gia Long), Tòa án, Dinh xã Tây, nhà thờ Đức Bà, thảo cầm viên, cercle sportif, Vườn Mauric Long, trường Chasseloup Laubat, trường primaire supérieure des filles françaises (Marie Curie), Nhà hát thành phố, bưu điện cùng một số liến trúc khác nằm theo trục đường Norodom. Catinat, Paul Blanchy, Mac Mahon,La Grandière….Nhất là đường Catinat từ con đường đất đỏ nối liền sông Sài Gòn đến vùng giồng cao (Haut plateau) và cuối cùng thắt lại tại một ngôi chùa và một túp lều tranh cũ kỹ (vị trí về sau là nhà thờ Đức Bà), người Pháp cố xây dựng nơi đây thành khu phố thương mại sầm uất tương tự như một Paris thu nhỏ.



Đường Catinat mang dáng dấp một Paris thu nhỏ




Người Pháp cũng ra sức trồng cây xanh và xẻ những con đường lát nhựa và đá pa vê với hàng đèn chiếu sáng có chổ bằng điện và có chổ thắp bằng dầu. Họ cũng xây dựng một hệ thống cấp nước đủ cho thành phố lúc bấy giờ. Các du khách châu Âu củng như các nơi khác khi đến Sài Gòn đều khen ngợi bởi vẻ tráng lệ của nó và ban tặng cho Sài Gòn là thành phố nhiều cây xanh nhất châu Á hay tham quan vùng ngoại ô, săn thú bằng các Tour de l’inspection.

Hình ảnh này cho thấy Sài Gòn thời bấy giờ rất nhiều cây xanh


Hình chụp từ nóc nhà thờ Đức Bà nhìn về tháp nước về sau là quảng trường Joffre

Con đường Garcerie là đường Duy Tân/ Phạm Ngọc Thạch về sau
 cho thấy số lượng cây xanh hai bên đường.

Như vậy thời điểm Sài Gòn đẹp nhất và xứng đáng là “Hòn ngọc viễn đông” chỉ tồn tại trên 30 năm từ khi bắt đầu xây dựng. Vì sao? Từ những năm 1936 trở đi tình hình bất ổn tại châu Âu càng lúc càng lớn dần  rồi đưa đến chiến tranh thế giới lần thứ hai bộc phát đã ảnh hưởng rất nhiều đến các quốc gia thuộc địa trong đó có Việt Nam. Chính quyền thuộc địa cũng dồn sức để chi viện cho chính quốc, không còn nghỉ đến chuyện phát triển Sài Gòn như xưa. Sau chiến tranh thế giới, người Pháp trở lại Việt Nam nói chung và Sài Gòn nói riêng nhưng tình thế lịch sử tại đây đã đổi thay; kế hoạch phát triễn coi như ngưng trệ, chỉ có xây dựng mới trên những cái đã có từ trước như khu Passage Eden chẳng hạn. Ngoài ra Sài Gòn còn là một điểm hấp dẫn, “đổi đời” cho những người dân các tỉnh; họ ồ ạt đến và xây dựng cơ ngơi đủ kiểu theo cách của họ. Điều này khiến cho Sài Gòn dần mất đi vẻ đẹp của nó.

Những công trình mới mọc lên đã phá vở kết cấu cổ điển ban đầu








Thời VNCH vì lý do chiến tranh, Sài Gòn còn phải tự gánh vào nó những người chạy tránh giặc giã, các cơ quan mà người Pháp đã xây dựng thì vẫn tiếp tực sử dụng nhưng không tu bổ gì thêm. Sài Gòn từ một số ít quận thời Pháp đã tăng lên 8 quận và về sau là 11 quận. Các quận 1 và 3 mà người Pháp từ “o bế” giờ cũng nhếch nhác. Sau 1975 tình hình lại càng trầm trọng khi các công trình xây dựng của người Pháp để lại biến thành nơi vừa làm việc vừa là chốn ở đã khiến những công trình này xuống cấp và vô phương tu bổ phải dở bỏ xây dựng. Sau những năm cuối thập niên 1990 về sau, việc phát triễn càng ngày càng tăng tốc, không có quy hoạch kỷ càng, hàng quán thi nhau mọc lên ở tất cả các con đường đã làm xấu xí hình ảnh một thời của Sài Gòn “Hòn Ngọc viễn Đông”.
Như vậy để kết luận cái “Hòn Ngọc viễn Đông” là chỉ  cái khu vực quận 1 và quận 3 một thời pháp thuộc mà thôi chứ không phải nguyên cả một Sài Gòn rộng lớn nhưng nó đã kết thúc vào giữa thập niên 1930 rồi.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Tết Sài Gòn trăm năm trước ra sao?   Biết những gì xảy ra trong quá khứ xa xưa dường như là mơ ước muôn đời của con người. Bởi trong c...