DANH
HIỆU: SÀI GÒN – HÒN NGỌC VIỄN ĐÔNG
Lâu nay, người ta nhắc tới Sài Gòn xưa
thì đi đôi với danh hiệu “Hòn ngọc viễn đông” nhưng thực sự cũng ít có người biết
hoặc hiểu rõ cái danh hiệu này từ đâu mà có, và, nếu có biết cũng chỉ dừng lại ở
cái chổ là do người Pháp đặt cho. “Hòn ngọc viễn đông” thực ra được đặt cho nhiều
thành phố ở châu Á thuộc về phần phía cực đông của địa cầu của các nước thực
dân thời đó mà cụ thể là Anh và Pháp.
Sau khi xâm chiếm các quốc gia châu Á
này vào thế kỷ 19, thực dân Anh và Pháp ra sức xây dựng những thành phố tại đây
theo kiểu mẫu châu Âu và ganh đua xem ai sở hữu thành phố đẹp nhất. Chính vì thế,
hai quốc gia này thi nhau đặt cho các thành phố thuộc địa của mình cái tên “Hòn
ngọc viễn đông”. Cụ thể:
Hòn ngọc Viễn Đông (tiếng
Anh: Pearl of the Orient, tiếng Pháp: la Perle de l'Extrême-Orient)
là danh hiệu mà một số nước phương Tây đặt cho một số thành phố thuộc địa tại
Châu Á như:
Manila,
thủ đô nước Philipines, từng là thuộc địa của Hoa Kỳ
Hong
Kong, thành phố cảng thuộc địa Anh, nay thuộc Trung Quốc
Thượng
Hải, thành phố của Trung Quốc
Tên
một tòa nhà tại khu Phố Đông, Thượng Hải: tháp truyền hình Minh Châu
Phương Đông.
Sri
Lanka, quốc đảo ở Nam Á
Penang,
một khu du lịch ở Malaysia
Thành
phố Sài Gòn trước đây, thuộc địa của Pháp, ngày nay là Thành phố Hồ
Chí Minh
Phnom
Penh, thủ đô nước Campuchia, từng là thuộc địa của Pháp
(Nguồn Wikipedia)
Sau khi đánh chiếm thành Gia Định, thì
không bao lâu sau đó người Pháp quyết tâm xây dựng thành phố Sài Gòn để làm nơi
điều hành guống máy thuộc địa của mình. Trên vùng đất mà thời đó lác đác những
khu nhà lá, khu mua bán của người Việt và Hoa xen kẽ là các vùng trũng, đầm lầy
đầu đưng lác, muổi mòng.
Ngày
11 tháng 4 năm 1861, Phó Đô đốc Léonard Charner ra nghị định xác định địa giới
thành phố Sài Gòn (tiếng Pháp: Ville de Saigon) lúc đó phía đông là sông Sài
Gòn, phía bắc là rạch Thị Nghè, phía nam là rạch Bến Nghé, phía tây từ chùa Cây
Mai đến đồn Kỳ Hòa, diện tích 25 km², theo đó, ngày 30 tháng 4 năm 1862, trung
tá công binh Coffyn đã cho soạn dự án mở rộng thành phố Sài Gòn, và được thống
đốc đầu tiên của Nam Kỳ, Chuẩn đô đốc Louis Bonard. Tuy nhiên, dự án này chỉ
được triển khai một thời gian ngắn thì bị bỏ dở. (………..) Địa bàn thành phố Sài
Gòn theo quy hoạch của Coffyn nằm trải rộng trên cả 2 huyện Bình Dương và Tân
Long, đều cùng phủ Tân Bình.
Để
điều chỉnh lại, ngày 3 tháng 10 năm 1865, quyền thống đốc Nam Kỳ, chuẩn đô đốc
Pierre Roze đã ký nghị định quy định lại diện tích của thành phố Sài Gòn chỉ
còn 3km2 (nằm gọn trong khu vực quận 1 ngày nay), đồng thời cũng quy định thành
phố Chợ Lớn (tiếng Pháp: Ville de Cholon) trong một nghị định khác, với diện
tích 1km2 (nằm gọn trong quận 5 hiện nay). (…….) Địa bàn của thành phố Sài Gòn
và thành phố Chợ Lớn, cùng các xã thôn ở giữa đều thuộc địa hạt (hay Quận) Sài
Gòn. Trước đó, de La Grandière cũng đã ban hành nghị định số 53 ngày 4 tháng 4
năm 1867, quy định về việc "Tổ chức một ủy ban thành phố Sài Gòn" Sau
đó, ngày 8 tháng 7 năm 1869, Chuẩn đô đốc Gustave Ohier đã ban hành nghị định số
131, cải danh Ủy hội thành phố (tiếng Pháp: Commission municipale) thành Hội đồng
thành phố (tiếng Pháp: Conseil municipal), do một viên Thị trưởng (Maire) đứng
đầu Hội đồng và một số sửa đổi chi tiết về thành phần nhân sự của Hội đồng. (Nguồn Wikipedia)
Bờ sông Sài Gòn thuở còn hoang sơ
Như vậy diện tích thành phố mà người
Pháp ưu tiên để xây dựng một “Hòn ngọc viễn đông” đầu tiên chỉ vỏn vẹn có 3km2
và về sau được nâng lên bao gồm một phần quận 3. Tại đây các công trình quan
trọng được xây dựng cùng với hệ thống thoát nước cùng đường xá cây xanh như
dinh toàn quyền (Norodom), dinh phó soái (Gia Long), Tòa án, Dinh xã Tây, nhà
thờ Đức Bà, thảo cầm viên, cercle sportif, Vườn Mauric Long, trường Chasseloup
Laubat, trường primaire supérieure des filles françaises (Marie Curie), Nhà hát
thành phố, bưu điện cùng một số liến trúc khác nằm theo trục đường Norodom.
Catinat, Paul Blanchy, Mac Mahon,La Grandière….Nhất là đường Catinat từ con
đường đất đỏ nối liền sông Sài Gòn đến vùng giồng cao (Haut plateau) và cuối
cùng thắt lại tại một ngôi chùa và một túp lều tranh cũ kỹ (vị trí về sau là
nhà thờ Đức Bà), người Pháp cố xây dựng nơi đây thành khu phố thương mại sầm
uất tương tự như một Paris thu nhỏ.
Đường Catinat mang dáng dấp một Paris thu nhỏ
Người Pháp cũng ra sức trồng cây xanh và
xẻ những con đường lát nhựa và đá pa vê với hàng đèn chiếu sáng có chổ bằng
điện và có chổ thắp bằng dầu. Họ cũng xây dựng một hệ thống cấp nước đủ cho
thành phố lúc bấy giờ. Các du khách châu Âu củng như các nơi khác khi đến Sài Gòn
đều khen ngợi bởi vẻ tráng lệ của nó và ban tặng cho Sài Gòn là thành phố nhiều
cây xanh nhất châu Á hay tham quan vùng ngoại ô, săn thú bằng các Tour de
l’inspection.
Hình ảnh này cho thấy Sài Gòn thời bấy giờ rất nhiều cây xanh
Hình chụp từ nóc nhà thờ Đức Bà nhìn về tháp nước về sau là quảng trường Joffre
Con đường Garcerie là đường Duy Tân/ Phạm Ngọc Thạch về sau
cho thấy số lượng cây xanh hai bên đường.
Như vậy thời điểm Sài Gòn đẹp nhất và
xứng đáng là “Hòn ngọc viễn đông” chỉ tồn tại trên 30 năm từ khi bắt đầu xây
dựng. Vì sao? Từ những năm 1936 trở đi tình hình bất ổn tại châu Âu càng lúc
càng lớn dần rồi đưa đến chiến tranh thế
giới lần thứ hai bộc phát đã ảnh hưởng rất nhiều đến các quốc gia thuộc địa
trong đó có Việt Nam. Chính quyền thuộc địa cũng dồn sức để chi viện cho chính
quốc, không còn nghỉ đến chuyện phát triển Sài Gòn như xưa. Sau chiến tranh thế
giới, người Pháp trở lại Việt Nam nói chung và Sài Gòn nói riêng nhưng tình thế
lịch sử tại đây đã đổi thay; kế hoạch phát triễn coi như ngưng trệ, chỉ có xây
dựng mới trên những cái đã có từ trước như khu Passage Eden chẳng hạn. Ngoài ra
Sài Gòn còn là một điểm hấp dẫn, “đổi đời” cho những người dân các tỉnh; họ ồ ạt
đến và xây dựng cơ ngơi đủ kiểu theo cách của họ. Điều này khiến cho Sài Gòn dần
mất đi vẻ đẹp của nó.
Những công trình mới mọc lên đã phá vở kết cấu cổ điển ban đầu
Thời VNCH vì lý do chiến tranh, Sài Gòn
còn phải tự gánh vào nó những người chạy tránh giặc giã, các cơ quan mà người
Pháp đã xây dựng thì vẫn tiếp tực sử dụng nhưng không tu bổ gì thêm. Sài Gòn từ
một số ít quận thời Pháp đã tăng lên 8 quận và về sau là 11 quận. Các quận 1 và
3 mà người Pháp từ “o bế” giờ cũng nhếch nhác. Sau 1975 tình hình lại càng trầm
trọng khi các công trình xây dựng của người Pháp để lại biến thành nơi vừa làm
việc vừa là chốn ở đã khiến những công trình này xuống cấp và vô phương tu bổ
phải dở bỏ xây dựng. Sau những năm cuối thập niên 1990 về sau, việc phát triễn
càng ngày càng tăng tốc, không có quy hoạch kỷ càng, hàng quán thi nhau mọc lên ở
tất cả các con đường đã làm xấu xí hình ảnh một thời của Sài Gòn “Hòn Ngọc viễn
Đông”.
Như vậy để kết luận cái “Hòn Ngọc viễn Đông”
là chỉ cái khu vực quận 1 và quận 3 một
thời pháp thuộc mà thôi chứ không phải nguyên cả một Sài Gòn rộng lớn nhưng nó đã
kết thúc vào giữa thập niên 1930 rồi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét