Thứ Hai, 18 tháng 12, 2017

CITÉ –  CƯ XÁ - CHUNG CƯ


Từ Cité tồn tại từ thập niên 1930 và rơi rớt mãi cho tới giữa thập niên 1975. Nào là Cité Laréngère, Cité Richaud, Cité Heyraud, Cité Aristide Briand, Cité Hérault,…Nhưng Cité là gì? Có lẽ giờ chỉ cỏn những người từ U80 trở lên mới hiểu thôi.
Cité là từ của Pháp dùng để chỉ một khu nhà ở dành cho thành phần nào đó trong xã hội và từ tương ứng trong tiếng Việt vào những thập niên 1960 là cư xá.
Trong thời thuộc địa, mảnh đất Sài Gòn luôn thu hút những người từ khắp xứ tụ tập về đây sinh sống, từ đó làm gia tăng dân số cơ học. Chính vì lý do này, chính quyền Pháp đã có chinh sách xây dựng các cụm dân cư để trước mắt giải quyết cho các thành phần này và tập hợp những người làm việc cho Pháp vào những khu dể quản lý bao gồm cả người bản xứ và Pháp.
Nhịp độ xây dựng được tiến hành thì chiến tranh thế giới lần thứ 2 nổ ra, đã làm giảm đi rất nhiều và đã ngưng lại vì xứ thuộc địa phải dồn sức chi viện cho chính quốc, rồi đến quân Nhật chiếm đóng Đông Dương.
Chúng ta xem thử số liệu của C.A.O.M. - fond ministériel - agence française d’outre-mer - carton 236 - dossier 294:
Tháng 7 năm 1953, hồ sơ về nhà ở do chính quyền thành phố Sài Gòn xây dựng được tóm tắt như sau:
Cité Lacaze (24 căn nhà, 124 căn hộ) được mở rộng bởi 16 căn nhà và 30 căn hộ, 450 ngôi nhà được dự báo;
Cité Nguyễn Tri Phương (1012 căn hộ) có 120 căn hộ và kế hoạch xây dựng thêm 108 căn hộ;
Cité Eyriaud de Vergues cần có 120 căn nhà trước cuối năm;
Cité Pavie Ducas khánh thành vào mùa hè 293 nhà ở;
Cité mới dành cho dân chúng ở Phú Thọ đã khởi công xây dựng 232 căn nhà.
Phải kể thêm bảng cân đối kế hoạch xây dựng và tái thiết dành cho các nhân viên phục vụ chính quyền thuộc địa bao gồm các gian nhà nhỏ và tòa nhà 4 tầng như: cité Larényère, cité des transmissions, cité Audouit, cité Galliéni, cùng các dãy nhà liên kế tại các mảnh đất có sẳn. P. Machefaux - ingénieur en chef des T.P. de Cochinchine - travaux N° 184 - février 1950 [C.A.O.M. - fond ministériel - agence française d’outre-mer - carton 223 - dossier 258].


Building dành cho nhân viên hảng xăng dầu Shell về sau phủ thủ tước trước năm 1975



Cité Galliéni trước năm 1975 là bệnh viện hải quân Mỹ đường Trần Hưng Đạo


Cité Laréngère đường Bà Huyện Thanh Quan nhìn từ trên cao 



Cité des transmissions về sau là cư xá điện lực đường Hồng Thập Tự cũ


Building Richaud đường Phan Đình Phùng cũ


Một building thời Pháp về sau là trục sở MACV số 137 Pasteur



Một building dành cho người Pháp trước 1975 tại đường Trương Minh Giảng

Trong một tài liệu năm 1939 đề cập các hình thức kiểm soát nhà ổ chuột được dự tính tại Sài Gòn [C.A.O.M. - fond ministériel - agence française d’outre-mer - carton 236 - dossier 294]. Cité Aristide Briand (về sau là cư xá Đô Thành) xây dựng 125 căn nhà với 2 phòng, khánh thành năm 1939 để di chuyển cư dân cư ngụ tạm bợ trong các túp lều. Trong đó có 64 căn dành cho thợ thuyền và viên chức thành phố.


Cư xá Đô Thành xưa gọi là Cité Aristide Briand

Hơn nữa, thái độ của chính quyền Pháp là rất rõ ràng trong kết luận về cuộc chiến chống khu ổ chuột: "Trong một vùng lãnh thổ nơi dân số 260.000 dân (Số liệu năm 1936 và bùng phát dân số năm 1937) thì sự hiện diện của các khu ổ chuột là điều không tránh khỏi. Tuy nhiên vẫn còn những nhà cây, túp lều của tầng lớp nghèo nhất, với mức sống thấp. Đó là lực lượng lao động cung cấp cho các nhà máy và dịch vụ. Do đó sự cần thiết phải duy trì và dung túng các khu vực đặc biệt này.
Trong thời chính phủ quốc gia Việt Nam, Quốc gia kiến ốc cục được thành lập nhằm mục đích giải quyết vấn đề nhà tạm bợ trong các thành phố, thị trấn miền Nam Việt Nam. Năm 1958, Thời Ngô Đình Diệm, cơ quan này đổi tên lại là Ban doanh lý kiến thiết. Vào năm 1965 thì cơ quan này này một lần nữa nhập chung vô Tổng nha kiến thiết và thiết kế đô thị ở đường Phan Đình Phùng.


Tổng nha kiến thiết và thiết kế đô thị ở đường Phan Đình Phùng.

Chính sách giải quyết tình trạng thiếu nhà ở là, trước tiên, xây dựng nhà ở và các thành phố phổ biến cho viên chức trà góp dài hạn (8 đến 12 năm); và thứ hai, để hỗ trợ các nhà phát triển tư nhân hoặc các tổ chức vay dài hạn (5 đến 10 năm). Nguồn tài chính của ban Khai thác và Xây dựng đến từ khoản lãi suất phát sinh trong Xổ số kiến thiết, tiền thuê tài sản thuộc sở hữu của ban này và khoản lời cho vay. Ngoài phần này, cần phải đề cập đến một cơ quan khác ở cấp thành phố, đó là Văn phòng quy định về Giá Nhà ở (Gia cư Liêm giá cuộc).
Từ năm 1952 đến năm 1963, 13.250 ngôi nhà được xây dựng bởi Quốc gia kiến ốc cục và ban Khai thác và Xây dựng (tiến độ là 1.100 ngôi nhà năm). 103.846.000 đồng được cho tư nhân vay để phát triển và 207.234.000 đồng cho các khoản nợ nhà ở. Tuy nhiên, những sáng kiến ​​này không đáp ứng được nhu cầu nhà ở của người dân. Trong 1955-1958 năm, khi hoạt động xây dựng do Quốc gia kiến ốc cục là nhiều nhất, hầu hết các cư xá được xây dựng để phù hợp với những người nhập cư mới tại các khu vực đô thị hoá mới của Sài Gòn, thí dụ Bình Thới (quận 11) Xóm Cũi (quận 8), Chánh Hưng, Vĩnh Hội - Lý Nhân (quận 4), Trương Minh Giảng (nay là Lê Văn Sỹ), Phú Thọ Hòa, Tân Quy Đông. Các công trình xây dựng mới tại trung tâm vẫn còn hạn chế. Có thể đề cập tới một số cư xá phổ biến như vậy trong Thị Nghè được xây dựng vào năm 1956, tại Trương Minh Ký - bây giờ đường Nguyễn Thị Thiên Chúa và Phật Ân - một con hẻm trên đại lộ Trần Hưng Đạo. Ngoài ra, và ban Khai thác và Xây dựng còn xây dựng những cư xá hạng sang như cư xá Nguyễn Tri Phương đã có từ năm 1958 hay những cư xá “nhà ống” như cư xá Dân Dinh, cư xá Kiến Thiết.

Cư xá dành cho nhân viên hàng không đường Công Lý cũ

Năm 1968, cuộc tổng công kích tết Mậu Thân đã tiêu hủy nhiều ngôi nhà trong Sài Gòn – Chợ Lớn. Vì thế chính quyền buộc phải quy hoạch và xây dựng lại những khu dân cư. Tháng 3 năm 1968, các công trình chung cư được tiến hành bao gồm: chung cư Ấn Quang (900 hộ), chung cư Bàn Cờ còn gọi là chung cư Nguyễn Thiện Thuật (1396 hộ). Hai chung cư tiếp tục xây dựng là chung cư Minh Mạng (3000 hộ), chung cư Nguyễn Kim – Nguyễn văn Thoại (200 hộ bằng vật liệu tiền chế). Ngoài ra còn các chung cư khác như chung cư Cô Bắc, chung cư Cô Giang,v.v..


Chung cư Bàn Cờ còn gọi là chung cư Nguyễn Thiện Thuật


Chung cư Minh Mạng

Như vậy từ Cité tồn tại tên cửa miệng người dân Sài Gòn cho tới thập niên đầu 1960 đã biến thành từ Cư xá. Sài Gòn tồn tại rất nhiều cư xá theo hình thức dãy nhà trệt  liền kề hoặc hai ba tầng thành khối. Đời sống cư dân ở đây đa số là những công chức, nhà giáo hay quân nhân có cuộc sống khép kín cho nên ở đây không khí luôn luôn yên ắng không xô bồ như những xóm lao động. Vì thế nhạc sĩ Phạm Duy mới viết: “Trả lại em yêu nỗi buồn cư xá” trong bài Trả lại em yêu là như vậy.
Trái lại không khí của các chung cư thì lại khác vì nó là nơi cư ngụ của đủ thành phần xã hội và cái từ chung cư chỉ xuất hiện sau giữa thập niên 1960 trong xu thế quy hoạch chung của các đô thị trên thế giới.
Còn rất nhiều cư xá và chung cư nữa: Cư xá Lữ Gia, Cư xá sĩ Quan Chí Hòa, Cư xá ngân hàng, Cư xá Yên Đổ, Cư xá Chu Mạnh Trinh, Cư xá nữ sinh Thanh Quan, Làng đại học, làng báo chí, chung cư Thanh Đa,.......

Tham khảo:
-     OUTILS D’URBANISME ET INVESTISSEMENTS IMMOBILIERS PRIVES
FABRICATION DE L’ESPACE CENTRAL DE HO CHI MINH-VILLE
NGUYỄN CẨM DƯƠNG
-   3.1 les premiers programmes de logements sociaux

http://theses.univ-lyon2.fr/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Tết Sài Gòn trăm năm trước ra sao?   Biết những gì xảy ra trong quá khứ xa xưa dường như là mơ ước muôn đời của con người. Bởi trong c...