Thứ Tư, 30 tháng 12, 2020

 Lịch sử cuộc viễn chinh Nam Kỳ năm 1861

(Histoire de L’EXPÉDITION DE COCHINCHINE en 1861)

(Tiếp Theo)


CHƯƠNG VI

Ðề cương:

 

Quân viễn chinh đánh chiếm các vị trí Tong kéou, Oc-moun, Rach-tra và tiến lên tận Tram-ban. Toàn vùng bị chiến hạm và các đạo quân lưu động của ta lục soát. Trinh sát sơ khởi về Bien-hoa và My-thô.

Tầm quan trọng của chiến thắng ngày 25 phải đến hôm sau mới biết hết. Ngày 26 khi vừa hừng đông, một đội pháo binh trang bị đại pháo nòng 4 yểm trợ một đoàn thám sát đi sâu vào thành Kì-hòa, suốt chiều dài của thành đến tận kinh Avalanche. Bốn khu công sự của Kì hòa vừa mới vừa cũ đều lọt vào tay ta cùng một lúc. Quân An nam bị đánh bật khỏi khu thành Quan liền theo các ngõ tắt chạy về đồn Avalanche của họ dưới hỏa lực đại pháo ta bắn ra từ các chùa. Vị trí của đồn Avalanche nằm sát Saĩgon, phía tây-bắc của thành phố; chung quanh là nước và sình lầy, có cắm chông bạo bọc; cách phòng thủ khá rắc rối. Nhưng từ đồn Avalanche quân An nam lại hối hả bỏ chạy, băng ngang vùng đầm lầy bằng hai lỗ trống trong bụi rậm giống như đường đi của thú dữ, quân Âu châu đưổi theo trong đầm lầy thật khó nhọc, vừa thương tích vừa lạc đường. Sau cùng quân An nam đến được con đường giám mục Adran, tại đây họ tổ chức lại, chuyển việc tháo chạy thành rút quân trong trật tự, tiến sâu vào vùng lãnh thổ của họ, qua các ngõ Tong-kéou, Oc-moun, Tay-theuye. Họ đem chôn hầu hết các cỗ súng chiến thuật trong các cánh rừng thưa, có ghi dấu hẳn hoi để sau này sẽ đào lên [1] Con đường Saĩgon được tự do lưu thông trở lại, ta cũng dẹp bỏ kho súng Caĩ-maĩ.

Trong những ngày 25, 26, và 27 tháng 2, quân ta dồn sức đắp một con đường di chuyển cho pháo binh trên vùng đất khô phía tây thành Kì hoà. Hầm chông tại đây dều được lấp đi; bàn chông, cọc nhọn, chà gai đều được tháo bỏ. Công việc không phải dễ; người An nam đào xới trong mùa mưa thì đất mềm, nay đất khô cứng dưới ánh nắng mặt trời, ta cuốc không nổi. Quân lính vừa làm vừa cố tìm cách nghỉ ngơi, họ vừa phải làm đường, làm trại, lại phải trinh sát Saĩgon và Tong-kéou (thành phố thuộc xứ triều cống cho An nam). Tong-kéou là thành phố đầu tiên trên đường đi sâu về vùng phía bắc (hướng bắc-tây-bắc). Theo lời khai của tù binh thì vùng này rất nhiều gạo và tiền đồng, có ba khu thành phòng ngự, rào tre thưa hơn so với thành Kì hòa, nhưng bảo trì tốt đủ sức kháng cự. Các thành này cũng là kho của quân An nam.

Giữa Tong-kéou và thành Kì hòa là một vùng đồng ruộng mênh mông, thỉnh thoảng mới thấy vài khu vườn trồng thuốc lá; cây thuốc lá nhỏ chỉ cao độ hai chân, khi ta lấy tay vò nát lá thì ngửi thấy một mùi thơm rất mạnh; lá khô rơi xuống thành những vệt nâu trên mặt đất. Vùng này có sông Tam léon chắn ngang đường đi: cây cầu bắc ngang sông đã bị phá xập; nhưng chếch về phía trái thì mặt đất lại cao lên, do đó chỉ cần đi xéo qua trái một chút là có thể vượt qua sông. Cánh đồng khô ráo, di chuyển dễ dàng trong mùa khô, nhưng qua mùa mưa thì ngập lụt, chỉ cần nhìn những hố do nước đào xới cũng biết; hố không sâu cũng không rộng lắm không làm cản trở cho người và ngựa. Ðịa thế đất đai được thám sát ngày 27 tháng hai cho thấy pháo binh có thể di chuyển dễ dàng; vì thế mà vị tổng tư lịnh đã phát lịnh trực chỉ Tong-kéou ngay ngày hôm sau, tức 28 tháng 2, trước khi trời sáng hẳn. Ðoàn quân viễn chinh tiếp tục chinh phạt xa hơn để giúp thủy sư đề đốc Page dễ dàng khống chế toàn vùng thượng lưu sông Don-naĩ. Ta có thể nghĩ rằng quân An nam rút về Tong-kéou, dựa vào sông Don-naĩ để tạm làm đường rút lui về mặt bắc đồng thời dựa vào các tỉnh miền nam để lập lại thế kháng cự giống như thành Kì hòa. Nhưng nhìn kỷ ai cũng thấy là họ vừa thua trận một cách nặng nề thảm thương và không còn tinh thần nữa.

Pháo binh xuất trại trước, vào lúc sáu giờ sáng, đã gặp ngay vài rủi ro ( một xe đạn lọt xuống hầm chông); pháo binh mang theo 4 đại pháo 12, 3 đại pháo nòng 4 có khía, 5 ổ súng cối miền núi và hỏa tiển, tất cả xếp thành đội ngũ ngay bên ngoài thành. Kế tiếp là bộ binh ra theo bằng một cửa nhỏ đục ở bờ tường thành. Xong xuôi tất cả đạo quân lên đường đúng sáu giờ ba mươi sáng. Pháo binh ở giữa; bên phải pháo binh là lính đánh bộ Pháp và lính đánh bộ người Tây ban nha; bên trái là lính thủy đánh bộ. Thủy quân làm trừ bị.

Toán xung kích An nam và lính đánh bộ Phi châu đi trước làm quân mở đường. Khi còn cách đồn quân An nam một ngàn năm trăm thước, thì ta thấy rõ ràng tường thành. Thành xây cất ở một nơi cao ráo nhìn xuống cánh đồng. Bên trong thành thấy có nhiều công sự lớn và một pháo đài trang bị đại pháo; tất cả tạo ra một vẻ đáng ngại. Quân ta dừng lại, pháo binh dàn trận và phân chia vị trí như sau: 3 súng cối di chuyển về phía bên phải, gần một đám cây có thể nhìn vào thành. Lính phóng hỏa tiển thì nhắm vào các công sự lớn trong thành; đại pháo 12 hướng vào khu pháo đài; đại pháo nòng 4 và hai súng cối thì bắn vào bất cứ lỗ châu mai nào có đạn đại pháo của địch bắn ra. Thủy sư đề đốc, vì muốn tránh bớt cho quân sĩ vai trò tiến công khó nhọc mà họ đã chịu đựng trong ngày 25, nên đã thay đổi chiến thuật dựa theo địa thế và kiến trúc của công sự mới này. Công sự ở vị trí cao lại có kho và pháo đài rất lớn, vì thế thủy sư đề đốc ra lịnh cho pháo binh giữ vai trò chính. Pháo binh tiến lên trước, từng khẩu một, ngựa kéo súng phóng nhanh theo nước kiệu: dừng lại từng trạm 800, 600 rồi 200 thước. Súng của pháo binh ta bắn ra rất chính xác và mãnh liệt, thế mạnh hơn quân địch thấy rõ, mỗi súng bắn đúng năm mươi quả rồi ngưng. Pháo binh địch bắn lấy lệ để che cho việc rút quân, họ có khoảng tám ngàn quân lính. Quân sĩ của họ tiến theo pháo binh từng đợt một và dừng lại tại một đồn khác, cạnh bên có một ngôi làng.

Tong-kéou bị ta lấy mà không có thiệt hại gì nhiều. Tuy vậy cũng có một số khá lớn quân sĩ bộ binh bị trúng đạn địch, bị thương hoặc bị trầy xứt. Ngay khi khởi đánh, trung tá Crouzat bị thương nặng ở đùi vì không may do tai nạn gây ra: ngựa ông đang cởi nghe tiếng rít của hỏa tiển hoảng sợ mà nhẩy dựng lên, hất ông ta ngã xuống đất.

Thành phố của xứ Triều cống là kho quan trọng của quân An nam. Ta chiếm được ba thành, thu được 1 400 tấn gạo, vô số thuốc súng, đạn pháo, lao, giáo, súng cở nhỏ, 20 đại pháo đúc bằng gang nòng 16, quân trang và tiền kẽm mà địch chưa kịp đốt giây buộc, tiền kẽm mất giây xỏ xâu thì cũng mất giá trị đi nhiều.

Quân An nam vẫn theo thói thường mang theo hết những người bị thương, phần lớn các thương binh là từ thành Kì hòa đưa về. Những căn nhà ta chiếm tường còn bê bết máu.

Xa hơn Tong-kéou là Oc-moun, một vùng trồng trầu và buôn bán trầu khá quan trọng, trầu là một loại dây leo lớn cho lá gọi là trầu. Kế tiếp Oc-moun là Rach-tra và Tay-theuye. Vào ba giờ chiều, quân vẫn tiếp tục đi. Ðường đi dẫn thẳng tới Tay-theuye; Tay-theye nằm lọt vào một vùng cây có tầm cao trung bình, lá cây không bóng lại úa, màu hung đỏ giống như tôn bị sét rĩ, chẳng thấy gì là vẻ xum xuê của cây cối miền nhiệt đới. Chỉ có sức nóng của mặt trời thì giống như ở Ấn độ; nóng như thiêu đốt. Con đường mòn, chỗ rộng chỗ hẹp, đầy cát thật mịn, thật nhiều và nóng bỏng. Quân lính mệt lã cứ đi bừa không thẳng hàng thẳng lối gì hết. Vào giờ này, mọi người đã kiệt lực, thân xác nặng như chì; ai cũng muốn dừng lại mà ngồi xuống nghỉ. Trong ngày hôm đó, một số quân sĩ của ta đờ đẩn, ngất ngư vì nóng bức, một số phát điên.

Hai bên vệ đường có vài căn nhà mà quân An nam đã phá xạch trên đường rút lui. Dân chúng ẩn nấp trong những cánh rừng thưa cách đó vài trăm thước. Thỉnh thoảng từ trong bụi rậm họ ló đầu ra nhìn rồi kinh sợ mà ù té chạy. Ở ngưỡng cửa mỗi nhà đều có một lu bằng đất nung màu đen đựng đầy nước. Vì khát chẳng ai nghỉ tới thuốc độc, đều tranh nhau mà uống. Ðến tối, có vài người nông dân bớt sợ đến gần và làm quen với ta, họ đề nghị giúp quân ta khiêng những người lính vì nóng ngã lăn ra bất tỉnh ở hai bên đường.

Vào khoảng năm giờ chiều, các toán quân dẫn đầu tràn vào thành Tay-theye đã bỏ trống. Trong thành có tiền bằng bạc, một số thật lớn tiền đồng và ba khẩu đại pháo. Thành này canh giữ con đường mà quân lính vừa đi qua, tiếp nối với con đường này là một đường đê dẫn tới ranh giới Cao miên. Một khẩu đại pháo đặt thẳng trước mặt biểu dương tầm quan trong của vị trí mà ta vừa chiếm. Nơi này cũng là ranh giới của khu rừng Oc-moun. Ở bìa rừng có một vùng đất cao và phẳng, có vài cây lớn. Quân ta quyết định đến cắm trại tại chỗ này. Xa xa là một vùng đầm lầy xa tít tới chân trời, những cánh đồng hoang vu của vùng Sologne[2] cũng không đến nỗi buồn và hiêu quạnh như nơi đây. Mười bốn thuyền chiến của địch nằm phơi khô trên mặt đất cạnh một bờ đê từ ngày ta đánh chiếm Saigon năm 1859 vẫn còn đó.Ðịch quân rút đi không để lại một dấu vết nào khác ngoài thi hài của sáu nông dân An nam bị chặt đầu vài giờ trước đó, xác vẫn còn mang gông. Sau này người ta mới biết rằng những kẻ bị khổ hình đó là những người theo thiên chúa giáo [3]. Ngày hôm sau người đầu thú kéo đến rất đông; các làng dọc theo hữu ngạn sông Don-naĩ và hai bờ sông Vaĩ-co xin ta bảo trợ. Tàu Dragonne, ngược sông Vaĩ-co đông đến thẳng Tay-ninh, sát với biên giới Cao miên. Tàu Dragonne kiểm soát vùng lãnh thổ An nam nằm giữa hai sông Don-naĩ và Vaĩ-co. Như thế là toàn tỉnh Gia-dinh đã thuộc vào tay ta rồi, ta chiếm hết thành quách, thu hết súng ống và lương nhu.

Quân đội An nam tan rã. Trong số bốn mươi ngàn người đã chống trả cam go để chận đường tiến quân của ta thì nghĩa quân đã bỏ áo lính và phù hiệu để trở về đời sống nông dân. Các tá điền gọi là Don-dien thì quay về các nông trại quân đội của họ ở Go-cung, My-thô và Saĩgon để ghi danh trở lại. Quân chính quy tản mát thành từng nhóm nhỏ, lội hoặc dùng thuyền vượt qua sông Don-naĩ hoặc cả hai sông Don-naĩ và sông Vaĩ-co; một số về Bien-hoa, một số đổ xuống các tỉnh miền nam là My-thô và Vinh-long. Vị tổng chỉ huy An nam [4] bị thương nặng ở tay trốn về Bien-hoa.

Có thể nói rằng quân An nam đã bỏ lọt vào tay ta tỉnh trù phú nhất của Nam kỳ miền dưới Ta lợi dụng tình thế này ngay tức khắc. Các cánh quân lưu động và tàu chiến đổ đi lục xét khắp nơi trong xứ, từ phía đông, phía tây đến phía bắc. Chỗ nào cũng thấy người Pháp tra xét. Nhờ thế mà ta biết thành Tay-theuye có hình tam giác, góc nhọn lớn nhất là ụ phong thủ hướng về phía bắc, góc tây nam có đầm lầy bao bọc kéo dài cho tới sông Vaĩ-co đông.

Ngày 3 tháng 3, có một bức thư đến tay vị chỉ huy trưởng cho biết người An nam tìm cách tập trung trở lại và dùng Tram-ban làm điểm kết hợp; năm 1859 họ đã từng dùng Tram-ban làm trung khu của họ khi đánh với ta. Tức thời tiểu đoàn trưởng Comte và một đội biệt phái rất hùng hậu được gởi đi ngay chiều hôm đó. Ông ngủ lại Rạch-tra (Tay-theuye) và sáng hôm sau thì đến Tram-ban, nơi này chỉ cách Cao miên có ba mươi dặm. Ông dẫn theo bộ binh, quân đánh bộ Tây ban nha, một nữa giàn pháo nòng 4, lính phóng hỏa tiển, và một đội công binh. Nhưng thật ra quân An nam đã hoàn toàn bại trận; ở Tram-ban không thấy voi trận, không thấy xe vận chuyển,chẳng có kho hàng và quân lính gì cả. Trước khi rời nơi này, vị chỉ huy Comte đã liên lạc với đại úy tàu Dragonne đang hoạt động trên sôngVaĩ-co đông.

Tàu bè lớn và chiến hạm của ta tấp nập trên ba con sông, rộng, chắc chắn và sâu, đổ từ phía bắc xuống; vùng lãnh thổ nằm giữa ba con sông này có nhiều rừng và ruộng là tỉnh Gia-dinh còn gọi là tỉnh Saĩgon. Chuẩn đề đốc Page giữ trọng trách kiểm soát sông Don-naĩ và phong tỏa Bien-hoa. Ðại úy hải quân Bourdais kiểm soát hai nhánh sông Vaĩ-co và canh chừng kinh

Bưu điện. Ðích thân ông thì hiện diện trên sông Vaĩ-co tây với các tàu Monge và Lily đặt dưới quyền xử dụng của ông. Trên sông Vaĩ-co đông đổ lên tới Cao-miên thì có pháo hạm Alarme, pháo hạm này và các tàu của đại úy Bourdais hai bên chỉ cách nhau bằng một dãi đất khá hẹp.

Phó đề đốc thủy sư Charner ra lịnh cho các vị chỉ huy thám sát trên bờ cũng như dưới nước phải tiếp xúc với các trưởng làng và chánh tổng để chính thức đưa cho họ bảng tuyên cáo mang theo, ông tiếp lời và huấn dụ như sau:

‘’Các ông nói với họ rằng: luật pháp và thông lệ của họ sẽ được tôn trọng; họ có thể canh tác và buôn bán tự do, mang sản phẩm về Saĩgon. Họ nên tin chắc rằng thời kỳ các quan chức trước kia đã chấm dứt và thay vào đó là quan chức người Pháp, chúng ta sẽ hoàn toàn che chở cho những ai công nhận uy quyền của chúng ta và phục vụ trung thành chúng ta.

‘’Ðể xóa bỏ hết tàng tích cũ, đi tới đâu nếu các ông thấy đồn lũy thì san bằng hềt, các ông phải huy động dân chúng sống trong vùng, đông chừng nào hay chừng đó, và bắt tự tay họ phải phá hủy các thành đồn. Các ông phải chống thẳng tay không thương tiếc bọn thổ phỉ trên bộ và quân cướp hăm dọa thuyền bè trên sông. Nhưng các ông để yên các thuyền bè đánh cá và buôn bán. Sau hết là các ông thu góp hết trên toàn xứ các tài liệu liên hệ đến thể chế, luật lệ, tình trạng phòng thủ, sức sản xuất và phương tiện thương mại của họ.’

Thành Tay-ninh gần biên giới Cao-miên được sửa chửa lại, mở rộng thêm và trang bị thật mạnh súng ống và chiến cụ. Mối liên hệ giữa ta và Cao-miên được vạch ra. Nước Cao-miên giáp với Nam kỳ miền dưới về phía bắc và phía tây. Nước Cao miên liên lạc thường xuyên với ba tỉnh An nam là My-thô, Vinh-long, An-gian nhờ vào con sông lớn mang tên là sông Cambodge. Người Cao miên vẫn còn cải vả, tranh chấp, và luyến tiếc xứ Nam kỳ miền duới. Vì lẽ đó mà vị chỉ huy trưởng không từ nan điều gì để biến xứ Cao miên thành một đồng minh. Ông nói với vị sĩ quan đầu nảo cầm quyền chính trị ở Tay-ninh do chính ông bổ nhiệm rằng:

‘’Ông giữ trọng trách về chỉ đạo chính trị trong mọi việc, nhất là những gì liên hệ với người Cao miên. Ông nên dùng lời hứa hẹn, giúp đỡ và bảo vệ tất cả những người dân Miên nào hiền hậu sống trên lãnh thổ của ta, ông nên hội ý với vị chỉ huy quân sự của ta ở Tây-ninh để thực thi các việc này. Ông nên tìm cách tái lập ban giao tốt với các quan chức Cao miên. Ông nói với họ rằng chúng ta đã giữ thế không gây chiến với họ và chúng ta vẫn muốn duy trì tình thế này. Tóm tắt là ông phải hết sức nỗ lực để tạo lập yên ổn và an ninh chung quanh ông, ông phải nhớ báo cáo thường xuyên với tôi về tình hình liên quan đến vùng thuộc địa mới thành hình của ta.

Vị chỉ huy trưởng đồng thời cũng sai một sĩ quan đem dâng quà biếu và chuyển những lời giao hảo của nước Pháp lên vua Cao miên (ngày 24 tháng 3 năm 1961) như sau:

‘’Các biến cố tại Nam kỳ mới đây có lẽ Hoàng thượng đã được thông báo. Hoàng thượng biết rằng các đạo quân Pháp-Tây ban nha đánh đuổi người An nam ra khỏi chiến lũy Kì hòa; Saĩgon đã được giải tỏa, quân thù An nam tan rã bỏ chạy kắp nơi. Dân chúng trong vùng cũng như những nơi xa đều kéo đến xin quy phục và chấp nhận sự bảo hộ mà chúng tôi ban ra cho họ.

‘’Ý đồ của nước Pháp là bảo toàn lâu dài đất đai đã xâm lược, tạo dựng ở Nam kỳ miền dưới một thuộc địa và mang tới đó những lợi ích của văn minh Âu-châu.

‘’Nước Cao miên vẫn giữ những mối liên lạc thân hữu với nước Pháp. Tôi hy vọng rằng những liên hệ giữa chúng ta càng ngày càng nhiều và càng trở nên thắm thiết hơn.

‘’Với danh nghĩa là chỉ huy trưởng của các lực lượng quân đội trên đất và trên mặt biển tại xứ Nam kỳ, và là đại diện của nước Pháp, tôi xin cam kết với Hoàng thượng hảo ý của chúng tôi về vương quốc Cao miên và tôi xin đáp lại những đề nghị hoà bình và hữu nghị mà Hoàng đế vua cha của Ngài từng đưa ra trước đây, thưa Ngài, cho vị đại diện của Hoàng đế cao cả của công dân Pháp tại Saĩgon.

‘’Tôi cũng hết sức vinh dự báo cho Hoàng thượng rõ tôi có ý định, trong một ngày gần đây, sẽ đem quân đánh My-thô và chiếm cứ vùng này, điểm phòng thủ cuối cùng của người An nam về phía Cao miên.

‘’Vị chỉ huy hộ tống hạm đưa tin của Hoàng đế và Hoàng tộc quốc gia chúng tôi là tàu Norzagaray, sẵn sàng liên lạc với Hoàng thượng, nếu Hoàng thượng chuẩn y.

‘’Xin kính dâng Hoàng thượng...

Sự vận động này đã thành công mỹ mãn. Từ đây về sau, nước Cao miên không bao giờ làm việc gì gây bối rối cho sự xâm lược của Pháp. Nhà vua đáp lại bằng các lễ vật và bằng cách gởi sang một ban sứ thần đáng kể (gồm tám mươi người), đi từ Kom-pot đến Saĩgon bằng đường bộ. Sau hết cũng nên nói rõ là các tin tình báo trước đây chuyển cho chính phủ Pháp hoàn toàn sai, tại Cao miên người ta không nghe nói gì hết về đạo quân Xiêm 60000 người, đạo quân này nếu có thật sẽ là một lực lượng tiếp tay giúp ta chống lại người An nam. Vài tháng sau, có một kẻ ngấp nghé cướp ngôi đã dấy quân chống lại nhà vua đang trị vì tại Cao miên[5]. Ðường lối chính trị của thủy sư đề đốc Pháp, trong tình thế này cũng dễ hiểu; trừ một vài người vụ lợi ra còn phần đông, ngay cả đến hôm nay, vẫn coi giải pháp của ông là hoàn hảo nhất: tức là khi nào những người lãnh đạo Cao miên còn muốn giải quyết những tranh chấp giữa họ về chủ quyền lãnh thổ mà ta chiếm được thì ông sẽ ngăn chận họ, bằng một cách giản dị là đưa họ vào cảnh đánh đấm lẫn nhau ở một nơi khác [6]

Ngày 10 tháng ba 1861, các đạo quân viễn chinh quay về Saĩgon. Một toán quân lưu động và hai ổ súng cối miền núi được giữ lại ở Tong-kéou; thêm một đại đội thủy quân đánh bộ và một đại đội lính người An nam tại Tay-theuye, phần khí giới thì cấp thêm cho họ một khẩu đại pháo 30 của hải quân. Một đại đội thủy quân bộ chiến đóng tại Kì hòa. Pháo binh trở lại đóng giữ chùa Ao. Thủy quân đổ bộ thì lại trở về đóng ở thành phố Tàu như trước. Các toán bộ binh khác đóng rải rác dọc theo các chùa bỏ hoang[7] dài cho đến đồn Avalanche. Nhà cửa ở đây san sát nhau, gần như liên tục từ Saĩgon đến Cho-leun, nối liền hai thành phố, không khí vui nhộn và thân thiết như ở thôn quê. Những ngôi nhà nhỏ lụp xụp của thành Kì hòa, đủ để hai mươi ngàn quân An nam trú ngụ, không còn thích nghi để phân phát cho quân lính đã có thói quen với đời sống Âu châu. Các căn nhà này đã bị sập trước khi các tuyến phòng thủ bị san bằng. Nhà cửa hư nát, vô số quần áo rách còn bê bết máu, xác người rải rác trong các hầm chông làm phát sinh cả một thế hệ ruồi nhặng tủa bay dầy đặc trong không khí; hàng triệu con ruồi khát máu, tàn khốc bao phủ hết thành Kì hòa như bâu quanh một vết thương mới bị lở loét, biến Kì hòa thành một hầm chôn người không thể nào ở nổi. Phải chờ cho đến khi nào đây để những xác chết hóa thành bụi, đám mây ruồi nhặng nhơ nhớp sẽ lắng xuống, và những bầy quạ bay đi xa? Vì thế mà thành Kì hòa bị san bằng trừ một đồn duy nhất nằm trên đường về Saĩgon, đồn có tên mới là đồn Testard, tên của trung tá Testard bị giết ngày 25 tháng hai. Vòng thành Kì hòa mênh mông trước đây, người ta tưởng là do một vị hoàng đế Ai cập nào đó đã huy động vô số tay người xây lên, nay chỉ còn lại một đồn lẻ loi, tên đồn dùng để nhắc lại cái chết vinh quang của một con người hào hùng và cao đẹp.

Chợ búa của Saĩgon và thành phố Tàu thật dồi dào sản phẩm. Tất cả các nơi trong tỉnh đổ về; nhờ quyết định của vị chỉ huy trưởng, lương hướng từ Paris cấp cho quân lính gia tăng, đem đến cho họ một sự vui thích vô ngần; thật là một điều quí giá khi người lính có một ít tiền trong túi. Tiền phụ trội giúp từng nhóm quân cải thiện bữa ăn hằng ngày: vả lại những người bán hàng An nam kéo đến vì người mua sẵn có tiền để trả. Người lính bộ nào, người lính thủy nào, khi về Pháp lãnh đồng lương chết đói, lại không nhớ tới cái lúc mà những ghim thịt nướng bốc khói thơm lừng trở đều liên tục trên bếp than hồng dưới bóng mát của những hàng cau ở Cho-quan và Cho-leun; họ nhớ tới để vừa thích thú lại vừa tiếc rẻ.

Ðạo quân viễn chinh, trong vòng mười lăm ngày, đã đánh năm trận, thực hiện mười hai cuộc trinh sát, hành quân dưới bấu trời gay gắt, phải chịu hiểm nguy, ăn lương khô uống nước bẩn; đêm thường thức suốt vì đám muỗi độc địa và đàn kiến lửa [8] đâm chích. Quân sĩ thật sự cần được nghỉ ngơi. Nhưng không thể nói là họ đã hoàn toàn kiệt quệ không thể nào không cho họ nghỉ.

Ngay ngày hôm sau khi thủy sư đề đốc cho thượng cờ hiệu của ông trở lại trên chiến hạm Impératrice-Eugénie đang thả neo trên sông Saĩgon, tức là ngày 12 tháng 3 năm 1861, liền tức thời ông ra lịnh phải thám sát các vùng chung quanh Biên-hoa và My-thô. Fou-yen-mot là một đầu cầu chắc chắn của ta trên một trong hai con đường dẫn đến Bien-hoa. Chỉ huy tiểu đoàn Comte và quân đánh bộ đi dọ thám vùng ven biên của Bien-hoa bằng cách mượn đường băng ngang Fou-yen-mot. Ðồng thời, một ủy ban khác gồm có đại úy hải quân du Quilio, vị chỉ huy đại đội tổng hành dinh de Cools và vị chỉ huy đại đội công binh Allizé de Matignicourt, giữ trọng trách thám sát sông Vaĩ-co tây tại cửa kinh Bưu điện. Cuộc trinh sát không tiến xa hơn được vì kinh bị chận, con đường Bưu điện đi về My-thô phải băng ngang nhiều sông rạch mà cầu lại bị phá hết. Ðường xá trên ruộng là các đường rất hẹp, chỉ đủ cho một người đi. Ủy ban trinh sát đều nhất trí cho rằng phải mất ít nhất là mười lăm ngày để đắp lại con đường Bưu điện để cho pháo binh xử dụng.

Mọi người đều biết giá trị của các vị chỉ huy trong quân ngũ và những thử thách mà họ đã trải qua; vị thủy sư đề đốc quí mến họ, từng hãnh diện và công khai đề cao họ; tất cả các điều này đã giúp tiếng nói của họ không bị bỏ ngoài tai, họ đã chính thức đệ lên vị tổng tư lịnh chỉ huy ý kiến của họ, đại khái nói lên rằng ‘’quân sĩ đã mệt mỏi, sức người thì có hạn; cuộc chiến của ta không giống với một cuộc chiến nào khác, ngay cả so với cuộc chiến trải qua bênTàu mà khí hậu nơi đó vừa mới tha chết cho họ. Rằng hai lần di tản liên tiếp mà chưa mang đi hết ngưòi bị thương tại các bịnh viện Saĩgon và Cho-quan.’

Nhiều vị khác cũng nói lên rằng ‘’ta vừa thắng một trận lớn, đừng nên làm gì lu mờ uy danh của ta. Rằng việc đánh hạ thành Kì hòa là một chiến thắng vẻ vang cho quân đội, ta phải giữ lấy uy thế. Ta đi đánh ở đâu bây giờ? Ðánh My-thô thì mùa mưa sắp tới rồi. Ði đánh Bien-hoa thì ta đừng quên là còn phải chỉnh đốn phần lãnh thỗ đã xâm lược, cai trị một đám dân đang lâm vào một tình trạng hổn loạn vì những người cai quản họ trước đây đã bỏ chạy hết.

Những ai có chủ trương như vừa nói rồi đây sẽ đổi giọng cho xem. Chuyện thật rõ ràng là trong vòng tháng 3, tình báo của ta về Bien-hoa cũng như khi ta phân tích các thông tư của vị quan chỉ huy thị trấn này đều cho thấy nếu tiến đánh Bien-hoa thì thị trấn này cũng sẽ lọt vào tay ta dễ dàng như Tong-kéou và Tay-theuye mà thôi.

Nhưng thủy sư đề đốc cho rằng không nên đánh chiếm Biên-hòa, ông quyết định chiếm My-thô. Vì thế, ông hối hả vì mùa mưa sắp đến, ông sai dọ thám các cửa biển đổ vào sông Cambodge, đồng thời cũng cho người tìm kiếm trên đất xem có đường nào nằm giữa sông Vaĩ-co tây và con Sông Lớn Cambodge khả dĩ pháo binh có thể dùng được, đồng thời cũng xem có con kinh nào giúp các pháo hạm có thể di chuyển được để tiến về My-thô. Ông chỉ thị cho trung úy hải quân Lespès, tức đại úy hạm trưởng tàu Norzagaray, phải dọ thám sông Cambodge, ông đưa ra những huấn dụ như sau:’’trung úy Lespès đã từng dọ thám sông này và biết nơi nào nguy hiểm, vậy hãy lợi dụng khi trời tốt đo chiều sâu các đường sông, tìm các điểm chuẩn trên bờ để hướng dẫn các tàu di chuyển về sau. Nếu gặp dân chài lưới, thì phải cố gắng hỏi và thu thập tất cả các sự kiện cần thiết. Không những chỉ biết chiều sâu và tính chất của đáy kinh mà còn phải cố gắng biết trước những loại chướng ngại nào địch dựng lên mà ta phải phá để vượt qua khi tiến gần đến My-thô. Vì vậy, phải biết bắt đầu từ khoảng cách nào thì địch lập các đập cản, đập làm bằng loại vật liệu gì._Ðường kinh rộng hay hẹp? Ngòng ngoèo hay thẳng? Kinh nằm vào hướng nào so với các đồn địch trên bờ? Ðồn trang bị súng ống như thế nào và cách thành địch bao xa? Bờ sông có dễ đổ bộ hay không? Sau hết là tình trạng My-thô ra sao? Trại quân có đông không? Quân lính có sẵn sàng chiến đấu hay không? Chắc gì đã tìm được người trả lời cho ta hết các câu hỏi này, nhưng điều hệ trọng là thu thập tối đa tin tức tình báo cần thiết nếu có thể được.

Ðại úy chiến hạm Norzagaray, là một sĩ quan gan dạ và là một nhà thủy học lanh lợi, nhưng ông quay về mà không tìm ra cửa kinh để vào sông Cambodge [9]. Một vài tin tình báo, vừa không chính xác lại vừa có vẻ bịa đặt, cho biết vào mùa mưa có một cửa rạch về phía tây của con kinh hiện nay, theo đó các tàu của hạm đội trang bị súng lớn cũng có thể xử dụng được. Dù sao, nếu như không thể nào dùng tàu để tiến vào sông Cambodge vì kinh rạch không đủ sâu, và nếu sau khi phá xập các cừ cọc ở đáy sông cũng vẫn không thể đưa tàu lọt vào mặt nam của thành My-thô, thì ta đành đổ bộ lên một hòn đảo nằm giữa các kinh rạch để đánh thành My-thô ở mặt bắc vậy. Nhưng quyết định sau cùng là thám sát một lần nữa hệ thống kinh rạch đổ vào sông Cambodge. Hai hộ tống hạm của ta là tàu Lily và tàu Sham-Roch tiến vào những nơi mà tàu Norzagaray đã trinh sát tám ngày trước. Hai đại úy thuyền trưởng của hai hộ tống hạm là các trung úy hải quân Franquet và Rieunier, đã từng ở Nam kỳ từ bốn năm nay. Kỹ sư thủy học Manen vẫn tiếp tục được phép cho tháp tùng trong công tác trinh sát này. _Thêm một lần nữa cũng không tìm thấy đường rạch nào có thể đưa vào sông Cambodge. Còn nơi đổ bộ thì không có gì thuận lợi lắm; các đồn địch chia nhau canh phòng một vùng rất rộng lớn.

[1] Sáng ngày 25 tháng hai, trong khi quân ta phá được thành địch một cách vẽ vang, thì một đạo kỵ binh phóng theo rượt quân An nam trên đường tháo chạy, không cho họ rút về khu thành của xứ Triều cống (tức là thành Tong-kéou). Nhưng đoàn kỵ binh không bắt được quân An nam nào làm tù binh. Họ không bao giờ để bị dồn vào đường cùng. Ta cứ mượn lời sau đây từ chính miệng của một trong những người tướng chỉ huy của họ đã công khai trách họ: ‘’Quân sĩ chạy như chuột’’. Họ nhờ có vùng đầm lầy Avalanche để tránh  quân Âu châu không đưổi theo được. Nhưng đoàn kỵ binh viễn chinh thật ra chỉ gồm có vài bộ binh Phi châu và vài kỵ binh người Tagal; có người đổ thừa rằng số kỵ binh mà trước kia ta đòi vị đại úy toàn quyền Phi luật tân phải cung cấp cho đoàn viễn chinh đã không được thực hiện như ý muốn. Tác dụng của một đoàn kỵ binh không thể thay bằng vài cỗ súng miền núi: vì lý do ta đã xử dụng toàn thể quân sĩ vào việc tấn công thành địch, nên không còn người để đuổi theo quân địch rút lui

[2] Sologne là một vùng đầm lầy rộng lớn ở cửa sông Loire, thuộc miền trung nước Pháp. Biết đâu tác giả chẳng phải là người của vùng này, ông có tả một người lính bị thương ngồi hút píp, ăn nói bộc trực và tự nhiên, ông nhận ra ngay cái cung cách của một người bình dân thường gặp nơi miền trung nước Pháp ? (ghi chú của người dịch)

[3] Ngày hôm sau, người ta lại đào được bẩy xác chết khác vùi dưới một lớp đất mỏng, xác bị chặt đầu, ta nhận ra trong số này hình như có xác của một trung sĩ thủy quân đánh bộ, đã bị quân An nam bắt làm tù binh từ sáu tháng nay, (ghi chú của tác giả)

[4] Ông Nguyễn tri Phương là vị quan trấn giữ thành Kì hòa, em của Ông là Nguyễn Duy tử trận,(ghi chú của người dịch)

[5] Vua Cao miên là Norodom bị chính người em là Si-Vattha cướp ngôi, phải bỏ trốn sang Xiêm la, (ghi chú của người dịch).

[6] Câu này trong nguyên văn cũng hết sức lắc léo, ta thấy tác giả muốn ám chỉ bàn tay của vị phó thủy sư đề đốc đã lợi dụng sự bất đồng chính kiến trong hoàng gia Cao miên về sự chiếm đóng Nam ky của Pháp để đưa họ vào cảnh tự diệt lẫn nhau. Người Cao miên vẫn còn mong mỏi sau này sẽ chiếm lại Nam kỳ, không muốn người Pháp phổng tay trên. Về sau người Pháp lại giao cho một người truyền giáo sang Xiêm la thuyết phục Norodom đưa ông về cướp lại ngôi, nhưng phải chấp nhận sự bảo hộ của Pháp, (ghi chú của người dịch).

[7] Bị chiếm đóng đúng hơn là ‘’bỏ hoang’’, (ghi chú của người dịch).

[8] Trong nguyên bản là fourmis de feu viết theo lối chữ nghiêng, có lẽ là dịch thẳng từ tiếng An nam là kiến lửa mà ra, (ghi chú của người dịch).

[9] Ngày 24 tháng ba, ông này đã được phái đi Kam-pot trong công tác liên hệ với vua Cao miên.


                                                         (Tiếp Theo)


Thứ Ba, 22 tháng 12, 2020

Lịch sử cuộc viễn chinh Nam Kỳ năm 1861

(Histoire de L’EXPÉDITION DE COCHINCHINE en 1861)

(Tiếp Theo)


CHƯƠNG V

Ðề cương:

 

Quân Pháp-Tây ban nha tiến thẳng vào quân thù, chạm trán bên phải, ở giữa và bên trái hậu tuyến địch.Các tuyến phòng thủ An nam bị gãy sau một trận đánh sắt máu kéo dài một tiếng rưỡi đồng hồ qua nhiều giai đoạn khác nhau.

Suốt đêm thật yên lặng: kể cả hai bên không có một tiếng súng nào. Năm giờ sáng, pháo binh lên ngựa, mỗi người đều vào hàng ngũ của mình. Các toán quân di động chung quanh căn nhà dùng làm tổng hành dinh, một số quân đứng sẵn  gần ngay chỗ được xắp xếp, một số phải đi quanh để tìm đúng vào vị trí của mình. Mười giờ tất cả đạo quân đã vào vị trí, ngay hàng thẳng lối, cách xa mặt bắc của thành Kì hoà khoảng hai cây số. Hai cánh quân đánh bộ hai bên, giữa là pháo binh. Cánh quân bên trái gồm có công binh đi đầu mang thang, kế là thủy quân bộ chiến và bộ binh; 4 đại pháo nòng 12, 5 đại pháo nòng 4 có khía, 2 súng cối miền núi thuộc hải quân tất cả dàn theo hàng ngang chiến đấu, tiến lên phía địch để yểm trợ cánh quân bên trái; cánh quân này cũng dựa theo đoàn pháo binh tiến lên. Cánh quân bên phải gồm có lính đánh bộ Tây ban nha, thủy quân đổ bộ: thủy quân xung kích thì đi đầu và giữ trách vụ như hôm qua tức là mở đường. Ba ổ súng cối miền núi kéo theo cánh quân bên phải; ba ổ súng này, nếu có thể, sẽ tập trung bắn phá ngay giữa mặt thành, giúp quân xung phong dễ dàng hơn._Kể cả hai cánh quân bên mặt và bên trái, toán quân nào và đại đội nào hôm qua đi hàng đầu thì hôm nay làm quân trừ bị đi sau.

Mặt đất cỏ dầy chằng chịt, úa vàng vì sức nóng mặt trời, không gây ra tiếng động nào; lính thổi kèn đã ngưng, không phóng ra những âm thanh man rợ nữa. Ta ngưng đánh trống, về phía địch cũng thế, thôi đánh chiêng và cũng ngưng đánh trống. Các đại pháo trong thành Kì hoà bắn ra, vang rền, tiếng nổ của súng địch có cường độ giống nhau nên rất dễ nhận, tiếng các quả đạn xé gió rít lên rồi im bặt, không có một tiếng động nào khác. Lúc này, trong đầu quân lính, ý nghĩ cũng chỉ xoay quanh hai chữ xung phong, và cách tiến lên thế nào cho chắc chắn, họ đã từng để lại phía sau xác chết và những người bị thương, họ không bao giờ lo sợ hiểm nguy. Họ không mặc áo thêu, không màu mè loè loẹt: quần áo chỉ có màu trắng với màu đen, may bằng vải len hay vải th3] tiến lên xung kích; gồm tám mươi người tinh nhuệ xông lên mở đường. Có một mô đất duy nhất trong cáng đồng, cách tuyến địch độ một trăm năm mươi thước. Ðại úy hải quân de Lapelin hướng dẫn cánh quân bên phải tiến lên vị trí mô đất này một cách can trường. Tại vị trí mô đất quân lính bắt đầu nhận ra các hầm chông đầu tiên cách đó năm mươi thước, tức là cách bờ thành một trăm thước. Các chướng ngại phòng thủ thứ yếu như hầm chông được phân bố hết sức là tinh xảo. Sáu hàng hầm chông có các rào cản ngăn cách, tức là có bẩy hàng cọc nhọn tất cả; tiếp theo là hai hào sâu sát tường thành có đóng chông tre vạt nhọn, nước và bùn ngập khoảng ba chân[4], sau hai lớp hào là bờ đất nghiêng dựa vào tường thành cắm chông nhọn tua tủa, trên đầu tường thành lại xếp một hàng bàn chông rất chắc chắn; chà gai cắm trên đất phủ lên các bàn chông: tay chân mà đổ máu rồi thì hết leo qua tường. Bờ tường thành cũng cao đến mười lăm chân. Hầm chông sâu năm chân: nghi trang bằng phên đan mỏng có trồng cỏ bên trên. Ðáy hầm cắm giáo hoặc cọc vót thật nhọn. Các chướng ngại này dùng để chận thú dữ thì đúng hơn là chận người, nhưng quân sĩ ta phải vượt qua. Trong lúc quân tấn công mò mẩm, chậm chạp, cẩn thận lần theo các miệng hầm chông thì súng hỏa mai và pháo binh địch gia tăng bắn gắt thêm. Trên khoảng đất một trăm thước trước bờ thành, tiếng khô khan của các cành cây bị gẫy vang lên liên tục, đạn rơi rào rào như đang rung cành để nhặt quả hồ đào[5] Nếu ai tưởng tượng nổi, thì cứ tưởng tượng xem những người mang thang, câu liêm, sào móc phải cực khổ như thế nào, và lính cầm súng phải vướng víu như thế nào, giữa nơi đầy cạm bẩy chướng ngại như thế, để vuợt tới đích mà không chết, không thương tích. Phần lớn quân sĩ mang thang, vì chậm chạp hơn các người khác, nên hoặc lọt hầm chông hoặc bị thương. Thang dùng để bắc ngang miệng hào làm cầu. Thang nhẹ làm bằng tre, không nặng quá ba mươi cân[6] Hầu hết thang bị gãy khi quân lính bước lên. Tuy nhiên còn ba chiếc thang nguyên vẹn đem đến được vòng hào sau cùng. Nhưng khi đến được bờ đất dựa tường thành thì hai bên lại đánh nhau kịch liệt nhất, chưa từng thấy giữa người An nam và người Âu châu. Quân sĩ nào mà leo lên được tường thành, thì hoặc dùng thang, hoặc trèo lên vai các đồng đội, hoặc níu vào các cọc thấp của các bàn chông, họ bị bắn ngay trước mặt, hoặc bị nồi lửa của địch ném phỏng mặt mày, hoặc bị giáo đâm lọt ra ngoài. Những người trèo lên trước nhất trên tường thành, và trước khi bị đánh bật trở xuống, đều thấy một cảnh tượng khác hẳn khi trèo lên tường ngày hôm trước: bên trong trên bệ đứng bắn đầy lính phòng ngự, kẻ thì mang súng dài, kẻ thì mang giáo hay súng ngắn, rình quân ta bên ngoài trèo vào.

Ngay vào lúc ấy, tình thế trở nên nghiêm trọng, thì có lịnh ném lựu đạn. Hai mươi quả được ném ra, may mắn đều tới đích vì tầm ném gần như là thẳng đứng và thật nguy hiểm. Ba lính thủy ném được móc câu dính cứng phía bên trong của tường thành. Bọn quân An nam tháo gỡ không được vì vướng chà gai, bên ngoài ta thấy giáo mác của họ tua tủa nơi này thì biết; chà gai làm chướng ngại cho ta thì bây giờ lại gây trở ngại cho họ. Móc câu lại có tác dụng như cái bừa, phá ra được ba lỗ hổng. Nhưng các lỗ xa nhau quá, từ mười đến hai mươi chân, mỗi lỗ chỉ đủ cho một quân lính chui qua. Ba quân lính chui qua trước, một thuộc tàu Renommée, bị giết ngay; hai người kia thì bị thương. Cả ba bị xô ngược ra phía sau và rớt xuống hào. Quân lính khác theo sau, trèo lên tường rồi nhẩy xuống thềm đứng bắn bên trong, thềm thì trơn trợt vì máu me linh láng. Dọc chân tường la liệt xác quân An nam bị giết vì mảnh đạn bộc phá hay bị bắn.

Quân An nam ngưng đánh vì thấy rào gai bị phá thủng, rút xa vài phút trước khi quân Pháp ập vào, họ rút lui rất trật tự, thật chậm dọc theo bờ tường thành. Một nhóm quân lính của ta rượt theo, nhưng không ăn thua gì; vì địch quân rút hết vào một lớp thành khác trước khi quân Pháp đuổi tới. Quân chiến thắng liền vây quanh các vị chỉ huy của họ xem phải làm gì. Thật là đúng lúc; vì ta đang lọt vào một khu chung quanh đều có tường đất chắc chắn; trận chiến chưa ngã ngủ, còn phải tấn công một đợt nữa, mà ta thì không có chỗ nào để che núp trước một tuyến phòng thủ thật phi thường. Ðịch quân ngưng bắn một lúc, để quân lính của họ vào hết trong lớp thành mới, rồi lại tiếp tục bắn hết sức là mãnh liệt. Giống như ở Dettingue, ở Fontenoy [7], ta phải đánh nhau trên một mặt trận có tường kín mít chung quanh.

Ðể giúp theo dõi các giai đoạn của trận đánh ngày 25 tháng 2 năm 1861, ta cần hiểu sơ lược cách tổ chức phòng thủ trong thành Kì hòa. Cho đến giờ này, quân viễn chinh mới chạm trán với quân địch ở một giới tuyến nhỏ của thành Kì hòa chỉ dài một ngàn thước, tức là đồn Redoute. Thành Kì hòa thật rông lớn xây đắp theo hình vuông,(xem hình số 2). Mặt hậu tuyến

của thành Kì hòa có xây ụ phòng thủ nhô ra ở hai góc: mặt hậu tuyến là một thành hẳn hoi, xây kín, gọi là thành Giữa, dùng làm cổng sau cho cả doanh trại Kì hòa; thành Giữa nằm trên đường ranh hậu tuyến. Hai ụ phòng thủ hai bên và thành Giữa bảo vệ lẫn nhau. Tầm súng của địch trong thành có thể quét quân tấn công khi đến gần vùng ven biên, nơi mà quân ta phải xông vào. Hơn nữa, như ta thấy, vùng ven biên được bảo vệ bằng hầm chông, hào và bàn chông trong khoảng rộng một trăm thước kể từ chân tường thành. Nhìn từ xa, ta thấy các ụ phòng thủ và thành Giữa đều thẳng băng, không có góc nào nhô ra hay thụt vào. Nhưng bên trong lại có một lớp tường thẳng góc với lớp tường bên ngoài và ngăn thành Giữa ra làm hai khu; tường ngăn có bệ đứng và có lỗ châu mai để bắn; lại có hào và một khoảng đất cắm cọc nhọn chéo nhau để bảo vệ thêm. Tường thành bên trong có hai ụ bắn nhô ra để làm ổ phòng ngự: trong các phúc trình của ta, vòng thành này ta đặt tên là đường tuyến thứ hai để dễ gọi. Ngay ở góc nơi hai bờ tường nối với nhau, có một cửa lớn đầy cạm bẩy, cửa giúp hai khu thông thương với nhau khi bình thường. Khu bên trái gọi là thành Quan, danh xưng ta đặt ra vì tại đây có một đồn cố thủ với thật nhiều chiến cụ, đến mười lần nhiều hơn nơi khác. Khu bên phải bố trí để chống trả tấn công nếu có từ khu bên trái sang, tức là có tường chắn và ụ nhọn lồi ra để phòng thủ, ngoài ra còn có một đồn cố thủ nằm trong góc.

Quân viễn chinh đụng độ phía bên phải, ở giữa rồi kế tiếp là phía trái của mặt phòng tuyến địch,một phần quân trừ bị ( thủy quân bộ chiến) giữ trọng trách tấn công vị trí ụ phòng thủ phía trái, như vậy là ta có tất cả ba mũi tấn công. Nếu cả ba mũi tấn công đều đạt kết quả, và quân thù cũng bị đánh gãy tại ba nơi cùng một lượt, và cũng kể như họ rải đều lực lượng, thì địch sẽ bị thua toàn bộ trong một lúc, thay vì tháo lui từng chặn một, bên phải rồi bên trái. Nhưng sức đụng độ của cánh quân bên phải quá mạnh làm cho tuyến địch bị thủng sau mười lăm phút. Hai mũi tấn công kia phải mất ba lần lâu hơn [8] Thủy quân đổ bộ và lính Tây ban nha, cùng đánh bên cạnh nhau ngày hôm đó, đánh song sớm hơn đươc nữa giờ, họ lọt vào một vòng đai kín như lọt vào trong một cái bẫy vậy. Thái độ vững vàng của họ thật anh hùng, đã làm chuyển hướng một phần đáng kể lực lượng địch và gián tiếp tăng cường đắc lực cho sức tấn công của hai cánh quân ở giữa và bên trái.

Thủy sư đề đốc cởi ngựa, tư thế rất lộ liễu, ngay trước dãy hầm chông đầu tiên. Ðoàn lính bộ hộ tống gần như ai cũng bị thương. Cạnh bên ông là vị chỉ huy tổng hành dinh, đại úy hải quân Laffon de Ladébat, chỉ huy tư linh đại đội kỵ binh de Cools. Quân trừ bị vừa đến tăng cường cho cánh giữa, và nhất là cho cánh phải, vì địch gia tăng bắn riết tại đây [9] Chỉ còn một nữa đại đội ở lại coi chừng các túi quân trang; ba ổ súng cối miền núi đáng lý ra phải đâm thủng mặt trước của thành An nam, thì lại không có đủ người xử dụng. Lúc này trận chiến trở nên ác liệt vì cả hai bên đều cố gắng ra sức, một bên thì tấn công, một bên thì phòng thủ; tình thế thật nguy ngập. Cái vô tình và thản nhiên của tạo hóa chung quanh càng làm nổi bật sự hăng hái cực độ của con người, trận chiến cứ lộng hành như một trận cuồng phong dữ dội dưới thái độ bình thản của bầu trời trong xanh [10] Những tiếng thét ‘’Hoàng đế muôn năm!’’ [11] đã ngưng bặt từ lâu. Tiếng nổ lộp bộp của súng nhỏ bắn nhau, tiếng rít của đại pháo, thỉnh thoảng lại có tiếng rên siết của một người sắp chết tất cả là những nhân chứng duy nhất cho cái hăng hái cực độ của hai muơi lăm ngàn người mà một vách tường đất mỏng manh đã chia làm hai phe, cái vách tường với khoảng cách nhỏ nhoi mà ngưởi ta có thể đưa tay cho nhau, nhưng một bên thì muốn trèo qua, một bên thì cản lại. Biết bao nhiêu bảng tuyên ngôn, bao nhiêu sức huy động con người và tàu chiến, một khoảng đường cách xa sáu ngàn dậm, vàng bạc tiêu pha vô kể, để đi đến cái cảnh trước mắt này. Bốn mươi lăm phút tấn công không kết quả: sau những phút đầu hăng hái, phản ứng của quân lính trở nên yếu kém rõ rệt. Cường độ tấn công suy giảm mà cường độ phòng thủ thì tăng.

Trong khi ấy, khu bên trong thành nơi thủy quân và lính Tây ban nha lọt vào, tình trạng được quyết định như sau: tất cả nỗ lực của đám quân này dồn vào hai vị trí chính: vị trí thứ nhất là cổng thành Quan, nơi thông thương giữa hai khu, vị trí thứ hai là khu ở giữa của bức tường chắn ngang, đầu tường bên trong là ụ phòng thủ, đầu tường bên ngoài là cửa thành Quan. Nhưng hai chỗ dồn quân này hoàn toàn trống trải, không có chỗ núp; vị trí và tầm đạn của địch tại đây đã nghiên cứu trước, vì thế trong cái khoảng trống thảm thương này ngập tràn xác chết và bị thương. Một trong những cố đạo tuyên úy của quân đoàn chạy tới chạy lui, hết người hấp hối này đến người hấp hối khác, cuối xuống họ và cầu kinh lẹ lẹ bằng tiếng la tinh. Chỗ này có kẻ bị thương còn đứng vững, hoặc đã ngã xuống rồi nhưng cố đứng lên, như trung úy hải quân de Foucault, trung úy hải quân Berger, các chuẩn úy Noẽl và Frostin; hạ sỉ hải quân Rolland bị mắt cá chân bể nát tự băng bó lấy rồi vừa lết vừa chiến đấu; người lính thổi kèn Pazier, lúc mới khởi sự tấn công đã bị trúng thương ngay trán, vẫn đứng dậy và thúc kèn tấn công. Cạnh đó trung úy hải quân Jouhaneau-Laregnère té xuống, cả phần hông bên trái bị văng mất; những người chạy đến cứu đều bị ông xua đi đánh tiếp và bảo cứ để mặc ông. Trong cái khoảng kín của khu này những người Tây ban nha như Jean Laviseruz và Bernabe Fovella đã ngã xuống và sau này ai cũng biết đến, nhưng cũng có những người khác nữa mà hành động cao đẹp của họ chẳng ai biết đến, kể cả đồng đội lẫn người chỉ huy của họ!

Cái thảm kịch kể trên đến giờ phút này cũng chưa ngã ngủ, nhưng rồi cũng chấm dứt. Mỗi người chỉ huy dẫn theo vài người tiến thẳng về phía tường chắn, băng qua hào, đến tận chân tường; đồng thời tại vị trí thứ hai, tức cửa thành Quan, ta cũng khởi sự tấn công cùng một lúc với nhóm ở giữa bức tường. Trung úy hải quân Jaurès, đệ nhị sĩ quan tùy tùng của thủy sư đề đốc, tập hợp vài người gan dạ lấy búa phá cửa nơi góc tường chắn; đồng thời thành giữa cũng bị công binh chiếm; thủy quân đánh bộ, bộ binh, đại đội quân địa phương [12] do vị chỉ huy tiểu đoàn là Deleveau huấn luyện, hăng hái tràn vào phía bên trái. Tất cả quân An nam người nào chạy không kịp đều bị giết sạch; trận chiến chấm dứt bằng một cảnh tượng tàn sát cuối cùng.

Trong trận chiến này, ta có ba trăm người bị loại khỏi vòng chiến. Mười hai bị giết tại trận. Nhiều người bị thương không cứu được. Trung úy hải quân Jouhaneau-Laregnère thở hơi cuối cùng trong ngày hôm đó, sau năm tiếng đồng hồ quằn quại đau đớn vô cùng. Trung tá Testard thuộc thủy binh bộ chiến bị thương và ngày hôm sau mới chết. Những người bị thương không ai kêu la, hay thỉnh thoảng mới có vài người rên siết. Họ là những kẻ thật giản dị và đáng ngợi khen; vài người mà sự sống sắp từ giả họ mà họ không thốt ra một lời nào ta thán hay hối tiếc đã chết ở một nơi xa xôi, xa quê hương của họ là nước Pháp. Sự can trường tột bực đã cho thấy cái giá trị tinh thần của đạo quân viễn chinh Nam kỳ [13].

Một trăm năm mươi đại pháo, hai ngàn súng nhỏ Saint-Etienne [14] tình trạng bảo trì hoàn hảo; đầu đạn tròn,đầu đạn súng cối chưa cho thuốc súng, hai ngàn ký thuốc súng; giáo, chỉa, kích cùng một số lớn tiền đồng được tìm thấy trong thành. Súng tay thì bắn bằng đá lửa [15]; đó là súng từ thời đệ nhất đế chế. Các quả đạn thuộc loại láng, bằng gang, đúc cũng khá tròn; thuốc súng cũng mịn, cán khá đều hạt. Trong thành Kì hòa không thấy có súng bắn bằng bùi nhùi lửa, cũng không có cung, không có nỏ. Ta còn tìm thấy một số bản đồ An nam; các bản đồ khá đúng giúp ta làm bản đồ trinh sát.

Danh sách quân lính trong đồn được cha Croc dịch ra; cha Croc thuộc Giòng truyền giáo xứ nước ngoài, và là thông dịch viên của vị tổng tư lịnh; danh sách cho thấy có 21 000 quân sĩ chính quy. Ngoài ra ta còn biết có một ngàn tá điền của quân đội, gọi là Don-dien. Trong thành còn có thêm 10 000 nghĩa quân. Trong trận tấn công chính thì đám nghĩa quân này đóng giữ ở mặt giữa và hai cánh của thành Kì hòa. Nếu kể luôn quân số đóng giữ tại các đồn trên thượng lưu sông Don-naĩ khoảng mười lăm ngàn người, về phía quân Pháp và quân Tây ban nha hợp lại là tám ngàn quân lính, thì ta có thể nói rằng trong ngày 25 tháng hai, năm mươi ngàn người đã xáp chiến trong một khoảnh đất mà tiếng đại pháo có thể nghe thấy từ đầu này đến đầu kia. Quân thù để lại ba trăm xác chết trong khu phía mặt và khu phía trái. Xác chết phần lớn là người Bắc kỳ, khoẻ mạnh và to lớn hơn những người Nam kỳ miền dưới; ngay khi đã chết, nét mặt họ vẫn hết sức là rắn rỏi.

Trận đánh ngày 25 khác hẳn với trận đánh ngày 24, về mặt chiến thuật và sức kháng cự của quân địch. Pháo binh bắn 204 quả súng cối và 36 thùng đạn: ‘’Ðây chỉ là một nữa số đạn đã được dùng so với ngày hôm trước, nhưng trận đánh lại gay go hơn và hăng say hơn’’ [1].Vì tánh cách mãnh liệt và sáng chói của trận đánh này nên ta sẽ phân tích và nói đến nó nhiều hơn các trận đánh khác; ta nhận thấy trong trận này pháo binh can thiệp quá ít trong một thời gian cũng quá ngắn, phần tình báo cũng không đầy đủ. Bên địch có khả năng chận đứng các mưu toan tấn công của ta.

Trong trận ngày 25 pháo binh bị nắng rọi vào mắt vì thế phải xoay trở trong điều kiện bất lợi. Trận đánh ngày 24 cho thấy quân địch chịu đựng dễ dàng sức tấn công của ta ở khoảng cách xa nhờ vào công sự của họ làm bằng đất và cành cây, không cao lắm nên không bị xập, đạn đại pháo không gây hề hấn gì, đạn súng cối cũng chẳng công hiệu gì hơn. Vì vậy trong trận ngày 25 quân lính bắt buộc phải tiến gần để yểm trợ pháo binh và phải chịu thật nhiều gay go. Ðịa thế không có một chỗ nào để núp. Tình thế thật nguy hại: để tránh kéo dài tình trạng bất lợi vị tổng tư lịnh đã thu ngắn tác động pháo binh và xua quân tấn công, vì ông hoàn toàn tin tưởng ở quân sĩ. Nếu áp dụng cùng một chiến thuật như ngày 24 biết đâu thương vong còn cao hơn nữa, vì ta không phá được các lỗ hở để tấn công.

Nhiều sĩ quan đã thám sát địa thế từ chiều ngày 24 tháng hai đến sáng ngày 25. Tuy sự thám sát còn thiếu sót nhưng thật bổ ích. Thành An Nam thấp và màu thì tiệp với màu đất, nên không thấy rõ các bố trí bên ngoài bờ thành của hậu tuyến địch. Ðể quan sát cách bố trí bên trong thành Kì hòa rộng lớn thì phải có chỗ cao để nhìn vào, ta chỉ có thể trông vào một bụi cây lớn duy nhất để trèo lên nhìn, bụi cây nằm lọt hẳn trong tầm bắn của địch vì gần ụ phòng thủ phía trái của thành. Xạ thủ địch đã núp trong đám rừng nhỏ này để phục kích ta chiều hôm trước, và ta đã phải khó nhọc lắm mới làm yên được tiếng súng của họ. Vì các lý do trinh sát không đầy đủ, không biết rõ cách phòng thủ bên trong thành địch, nên ngày hôm sau ta phải chậm tiến quân. Quyết định sau cùng là đưa quân đến thật gần bên phía trái vì ta biết rõ phía này hơn. Quân lính đều thấy tầm quan trọng đó khi có lịnh tạm thời đừng lại để dốc toàn lực vào phía này. Từ vị trí trinh sát trên cây ta thấy có một lớp tường phòng thủ bên trong thẳng góc với tường thành phòng thủ bên ngoài, tường chia bên trong làm hai khu khác nhau; nhưng còn một chuyện nữa không đoán được là bức tường dùng để phòng thủ chống lại sức tấn công từ khu bên trái sang khu bên phải hay từ khu bên phải sang khu bên trái? Dựa vào trại Quan ở khu bên trái để đoán là khu này quan trọng hơn thế thôi. Chắc chắn là nếu ta biết trước tầm quan trong của khu bên phải, thì bắt buộc phải tránh khu này mà chỉ đưa quân vào đánh ở giữa và ụ phòng thủ bên trái mà thôi,và trước đó thì phải chiếm đóng khu làng dựa vào khu rừng có cây cao trước đã. Nhưng chiến thuật này chỉ đưa ra sau khi trận chiến đã kết thúc, làm sao biết trước để thực hiện như vậy.

Chống lại ý kiến này, ta cũng có thể cho rằng, ngay như việc trinh sát được thực hiện đầy đủ và chiến thuật vừa kể đem ra áp dụng, quân địch không bị lừa và phân tâm do thủy quân đổ bộ của ta và lính Tây ban nha đánh lạc hướng trong suốt ba mươi phút, mà lại dồn hết sức kháng cự vào phía trái thì biết đâu sẽ đẩy lui được quân ta[17] _và cũng phải hiểu rằng ngay cả việc trinh sát được thực hiện đầy đủ và chính xác giúp quân lính hăng say vượt qua tường thành nhưng biết đâu họ không còn đủ sức và bình tỉnh để tiếp tục chiến đấu như họ đã làm? Ai mà chẳng thấy những người lính bộ hay lính thủy vừa vấp ngã vừa lần mò từng bước trên miệng hầm chông quanh co để tìm đường tiến lên dưới lằn đạn địch. Nếu trinh sát thực hiện được và biết hết con số hầm chông thì bất cứ ai cũng sẽ kết luận rằng cuộc tấn công không thể nào thực hiện nổi. Nhưng sau cùng, trận chiến ngày 25 đã đem đến kết quả; mặc dù ta đã phải trả một cái giá tương xứng cho sự thành công này, đó là cái giá của sự may mắn trong chiến tranh. Thật vậy may mắn hay rủi ro có thể xảy ra trong bất cứ trận chiến nào, chỉ cần một chút xíu biến cố cũng có thể đem đến chiến thắng hay chuyển thành thất bại dễ dàng, chẳng hạn một cơn mưa rào bất thần, một bờ dốc bị máu hoặc nước mưa làm trơn trợt, một người lính nào đó nhào lên để hy sinh và bị giết.

Vị chuẩn đề đốc Page, theo kế hoạch dự trù từ trước, đã đánh chiếm nội trong ngày 25 tháng 2 tất cả các đồn trên thượng lưu sông Don-naĩ và nhất là trên sông Yen-lock. Sư đoàn đặt dưới quyền của ông gồm có các tàu Renommée, Forbin, Monge, Avalanche, pháo hạm số 31, tàu Sham-Rock, và tàu Lily. Tất cả các tàu này đều bị trúng đạn của địch, có nhiều người chết và bị thương.

Vị tổng tư lịnh đóng bản doanh trong khu trú ngụ của Quan trấn thành [18] Quân sĩ sau khi thu lượm các túi đeo lưng liền được đưa vào trú ngụ trong các nhà của quân An nam trước kia, dọc theo một con đường kéo dài cho đến phía bắc thành Kì hòa. Một nữa số bị thương được đồn Caĩ-maĩ chuyển về nhà thương Cho-quan. Số còn lại đưa vào một trạm cứu thương ngay trong thành Kì hòa. Chiều hôm ấy, các đoàn chuyên chở lấy đạn ở đồn Caĩ-maĩ thay vào số đã bắn khi đánh nhau buổi sáng và lấy thêm ba ngàn viên đạn nữa để thiết lập kho dự trữ trong thành Kì hòa. Trong vài ngày mà quân viễn chinh đã tiến sâu vào vùng đất địch, vì thế một kho đạn dược trung gian thật cần thiết.

Thái độ của người An nam trong ngày 25 thật là lạ, ta nhìn thấy được sự yếu kém về nghị lực của họ qua nét mặt không tỏ lộ của người Á châu. Cứ chỗ nào phải đánh nhau mặt giáp mặt thì họ sợ hãi cho đến nổi chỉ nghĩ đến chịu chết mà không chịu tiếp tục chống trả [19] Làm sao giải thích được việc này, nếu không công nhận đó là bản chất yếu kém về nghị lực của những giống dân phương Ðông. Chỉ có vài trăm người Âu châu mà cứ mỗi lần tiến đánh đều thắng hàng ngàn quân địch mặc dù rất dũng cảm, lần nào cũng vậy. Sự thua thiệt về khí giới không đủ để giải thích điều này: vì rõ ràng là họ đã chấp nhận đánh cận chiến, mà đánh cận chiến thì ưu thế của khí giới tối tân bị giảm đi; giết nhau sát ngay trước mặt thì một khẩu súng cổ xưa loại loe nòng hay một khẩu súng trường loại cac-bin cũng không khác xa bao nhiêu. Ngày 25 tháng 2, chuyện quân An nam không thối lui và hầu hết bị giết ngay trên thềm bắn là một chuyện gần như ngoại lệ. Chỉ vì họ nghĩ rằng, thứ nhất là quân Pháp và quân Tây ban nha không sao tràn qua được các hầm chông, kế tiếp là quân ta phải lui vì bị mâu và kích của họ đâm, hoặc bị bắn, hoặc bị pháo lửa và nồi lửa của họ ném ra.

Các đội quân viễn chinh tỏ ra hăng hái và đoàn kết. Những ai đã dẫn họ tiến lên đều có thể tự nhủ như Montluc [20]:’’Tôi quay lại ba lần, đều thấy họ vẫn còn theo tôi’’. Lòng tin của họ lúc nào cũng nguyên vẹn, hiểm nguy làm cho kỷ luật thêm chặt chẻ. Tiếc thay, giữa vô số chướng ngại vật và khói mù mịt từ súng hỏa mai của địch, các vị chỉ huy chỉ thấy và công nhận thành tích của một số nhỏ những người chiến đấu bên cạnh mình mà thôi. Quần áo của họ đâu có chứng tỏ gì là những người lính thủy và lính bộ khác thường: cũng chỉ mặc áo len và đeo lon đã cũ nát [21] Người chỉ huy không thấy hết các thành tích của quân sĩ là một điều thật bi thảm mà tất cả mọi người đều phải gánh chịu, nhất là hàng binh sĩ cấp dưới. Nhưng rồi người ta cũng quên đi và không nghĩ tới nữa.

Thủy sư đề đốc cám ơn từ cấp bực cao nhất đến cấp bực khiêm nhường nhất trong quân đội về sự hào hùng và hy sinh của họ, cho đến cả tánh mạng của họ. Trong cùng một gian phòng, tất cả các cấp bậc đều họp chung với nhau, thủy sư đề đốc ngỏ lời công khai ngợi khen và tuyên dương công trạng một vài người. Tuyên dương công trạng là phần thưởng coi như cao quý nhất từ thời kỳ đệ nhất đế chế. Không có huân chương nào sánh bằng tuyên dương công trạng. Dù ta có ca ngợi quá lố đi nữa thì cũng không làm mất cái giá trị vĩnh viễn của sự tuyên dương, nó làm xúc động con tim mỗi người và làm sống dậy những kỷ niệm của một trận chiến máu lữa mà họ đã dấn thân. Trên cái mảnh đất xa xôi này, huân chương nào mà lại không xứng đáng để được thêm lời tuyên dương! Ai được tuyên dương đều nghĩ đến rồi đây cha mẹ mình và bạn bè mình sẽ biết đến công trạng của mình. Họ sẽ quên hết hiểm nguy và gian khổ đã trải qua; rồi bỗng nhiên cái khoảng không gian cách trở giữa người lính thủy, người lính bộ nơi cái xứ Nam kỳ xa xôi này và quê hương họ hình như đã vụt biến mất. Cái nhìn trìu mến của nước Pháp bên cạnh họ đã an ủi họ [22].

 [1] Không thấy tác giả tả đồng phục của quân viễn chinh, áo len và áo vải thô ở đây có thể chỉ là cách nói tâng bốc, của tác giả, tuy có hơi rẽ tiền, (ghi chú của người dịch).

[2] Có lẽ tác giả thuộc cánh quân này? (ghi chú của người dịch).

[3] Thủy quân đổ bộ, đại úy là Proubet.

[4] Mỗi chân bằng 0.3248 m (ghi chú của người dịch).

[5] Quả noix (tiếng pháp), quả walnut (tiếng anh), (ghi chú của người dịch).

[6] 1 cân Pháp = 0.5 Kg (ghi chú của người dịch)

[7] Các trận chiến trong lịch sử Pháp, trận Fontenoy xảy ra ngày 11 tháng 5 năm 1745, quân Pháp đánh thắng liên quân Anh - Hoà lan và mở đầu chiến dịch chiếm nước Bỉ, (ghi chú của người dịch).

[8] Khi tiến đến chân của bờ đất dựa vào chân tường, thì sự chống cự bên trong trở nên càng lúc càng mãnh liệt; thang của ta bắc lên liền bị quân lính bên trong dùng kích mà hất ra, sức bắn của địch tăng gấp đôi; ta bắt đầu thất vọng vì không dựng thang lên được, công binh thì mới bắt đầu đào lỗ ở tường thành, ngang với tầm bệ đứng bên trong; vị chỉ huy công binh vì thấy sức tấn công kéo dài suốt bốn mươi lăm phút đã bắt đầu suy yếu liền cho người đi xin thêm hai đại đội tăng viện (người này là trung úy hải quân Rouvier), vừa lúc đó thì vài người đã trèo qua được đầu tường. Khu có tường bao quanh này chính là hậu tuyến của cả hệ thống nội thành bên trong, và cũng là nơi trú ngụ của quan trấn thủ; ta đánh chiếm khu này. Nhưng trong khi đó ta lại mù tịt về số phận của cánh quân bên trái; cánh quân này sau khi phá được đường tuyến bên ngoài của địch, thì lọt vào vòng thành bên trong vừa ngay tầm bắn của quân An nam đứng trên bệ dọc theo vách thành Quan xây thẳng góc với tường thành bên ngoài, họ bị quân An nam bắn thẳng ngay mặt.

(Trích phúc trình của chỉ huy đại đội công binh Allizé de Matignicourt báo cáo liên hệ tới cánh quân đánh vào giữa trong ngày 25 tháng hai 1861).

[9] Ðại đội 6 và 7 quân đánh bộ tăng cường cho cánh quân bên trái; đại đội 8 phụ trách ba ổ súng miền núi bên cánh phải.

[10] Giữa cảnh hiểm nguy và sắt máu mà tác giả vẫn thấy được cái vô tình và thản nhiên của Tạo hóa và vẫn còn trầm tĩnh đẻ mượn cái tương phản đó để mô tả ý mình. Hay lắm, xin phép được ngợi khen tác giả, (ghi chú của người dịch).

[11] Ðây là tiếng thét của quân Pháp, Hoàng đế của họ là Nả phá luân đệ tam ,(ghi chú của người dịch).

[12] Ðại đội quân địa phương gồm 80 người An nam, cho theo đánh chung với thủy quân bộ chiến, tỏ ra rât hữu hiệu.

[13] Trung úy hải quân Laregnère bị bắn văng mất hông bên trái. Khi đem đến ban cứu thương, người ta ném một tấm ra trải giường lên người ông để ruột gan khỏi lộ ra ngoài. Ông này đau đớn quá chừng, thật tội nghiệp! Ông há hốc miệng; không nói gì cả, nhưng mặt đầy nét lo âu, nhăn lại như cố kềm hãm những tiếng kêu thảm khốc chỉ chực vọt từ trong miệng ra.

Ðại tá Testard khi đem đến trạm cứu thương thì vùng dậy, đứng lên mà đi, trần truồng như nhộng, miệng thốt ra những lời bực bội’’ Coi nè! Cái gì thế này? Tao thấy cái đầu nặng chịch, có cái gì trong đầu tao vậy?’’Rồi ông ta lấy tay ôm đầu một cách tuyệt vọng. Một viên đạn chui vào thái dương bên trái của ông ta, sâu cở nữa ngón tay (ngón = đơn vị đo chiều dài độ 27 mm, ghi chú thêm của người dịch). Người lính hầu của ông kéo ông ta về giường nằm; và cứ mỗi lần về giường, ông ta lại đứng lên. Một bác sĩ giải phẩu, đứng ở góc phòng, chỉ biết nhìn con người nữa sống nữa chết đó đang nói lảm nhảm, vài giờ nữa thì sẽ hết nói. Không làm thế nào mà băng bó cho ông ta được, dù có băng bó cũng chẳng ích lợi gì. Hôm sau thì ông ta chết, đúng ngày 26 tháng hai, khoảng ba giờ sáng ở nhà thương Cho-quan. Cho đến phút cuối cùng, ông ta vẫn khoẻ, mặc dù viên đạn trong đầu và thêm một vết thương ở vai.

Một thương binh khác, bị một viên đạn vào bụng, vẫn ngậm ống píp thản nhiên. Khi ông gặp ông cố đạo tuyên úy đi ngang, ông liền nói với ông này rằng:’’Ô! Tôi hả, này ông linh mục, tôi không còn lâu nữa đâu.Vậy thì anh bạn ơi, anh bạn có muốn chuẩn bị không?_Sẵn sàng.’’Ông này liền xưng tội và một giờ sau thì chết. Ðó là một người thuộc giới bình dân, ăn nói bộc trực và tự nhiên, một kẻ mà ta thường gặp nơi miền trung nước Pháp.

[14] Một tỉnh ở miền trung nước Pháp nổi tiếng về kỷ nghệ làm súng (ghi chú của người dịch).

[15] Súng hỏa mai (ghi chú của người dịch).

[16] Báo cáo của trung tá pháo binh đánh bộ Crouzat.

[17] Vị chỉ huy công binh, khi thấy sức tấn công kéo dài trong gần bốn mươi lăm phút đã giảm... (Xem báo cáo của pháo binh ngày 25 tháng hai 1861)

[18] Giữa khu này có một cái hồ, trong hồ có một con cá sấu khá lớn nuôi làm kiểng.

[19] Dù sao tất cả đã đi vào lịch sử, tôi cũng không muốn tranh luận với một người đã nằm xuống với lịch sử, chỉ tiếc rằng tác giả cho thấy quá nhiều mâu thuẩn trong sự xét đoán và quá vội vã trong những kết luận của mình ? Tác giả vừa cho biết xác quân lính trong thành Kì hòa nét mặt vẫn còn rắn rỏi, (ghi chú của người dịch).

[20] Montluc: là thống chế Pháp ở thế kỷ 16, trong quân ngũ của hai đời hoàng đế: François đệ nhất và sau đó hoàng đế Henri II, (ghi chú của người dịch).

[21] Tác giả ca ngợi hơi nhiều một chút,có thể hoá ra quá lố chăng: xứ Nam kỳ trời nóng lắm có lẽ quân Pháp không mặc áo len đâu, (ghi chú của người dịch).

 [22] Khi thấy tác giả dài dòng về vinh dự của người lính được tuyên dương, tôi cũng nghĩ tới công trạng của tác giả. Trong một phần ghi chú trước đây, tác giả tả những người bị thương ở Chợ Quán: trung úy Laregnère bị đổ ruột người ta dùng một tấm trải giường để che , đại tá Testard ôm đầu trần truồng như nhộng, một người lính bị một viên đạn trong bụng nhưng vẫn ngồi hút thuốc..., đọc đoạn ghi chú này tôi đã lo cho tác giả, có lẽ chính ông cũng bị thương? Khi tìm trong bảng tuyên dương công trạng, quả đúng tôi thấy có một người tên Pallu, bị thương. Có lẽ chính là tác giả quyển sách này.

Bảng tuyên dương công trạng xếp ông trong danh sách quân đoàn thủy binh đổ bộ. Như vậy ông có thể thuộc toán thủy quân đánh bộ được đưa lên Chiến hạm Impératrice-Eugénie của đề đốc Charner trước khi tàu rời Thượng hải đi Nam kỳ, nhưng tôi nghĩ ông cũng có thể thuộc thủy thủ đoàn thường trực của tàu Impératrice-Eugénie ? Ông là một sĩ quan còn trẻ lắm, tội nghiệp, nước Tàu rất buồn ‘’chẳng có gì làm rung động con tim của người trai trẻ mới hai mươi lăm tuổi đời’’ (xem chương I), (ghi chú của người dịch).


                                      (Tiếp Theo)


Thứ Tư, 16 tháng 12, 2020


 Lịch sử cuộc viễn chinh Nam Kỳ năm 1861

(Histoire de L’EXPÉDITION DE COCHINCHINE en 1861)

(Tiếp Theo)



CHƯƠNG III

Ðề cương:


Kế hoạch chiến dịch đánh chiếm Saĩgon _Hạm đội chế ngự sông Don-naĩ_Giới tuyến các chùa cầm chân quân địch; quân viễn chinh dàn quân hình cung, phong tỏa thành Kì hòa, đặt quân An nam trong thế phải lựa chọn, hoặc phải chống trả, hoặc phải chịu nghiền nát và phân tán trong một trân đánh úp duy nhất.

Ngay hôm thủy sư đề đốc tổng tư lịnh viễn chinh đến Saĩgon, quân ta vẫn không lơi tay chuẩn bị trận chiến Nam kỳ. Tại Woo-sung, quân viễn chinh qui trước đây được phân phát khí giới, hành trang và đưa lên tàu. Tại Saĩgon, quân sĩ đã đến từ trước cũng ở thế sẵn sàng tiến quân và chiến đấu. Cách bố trí và địa điểm chiến lược đã được quyết định xong, tình báo các nơi cũng đã thu thập và bổ xung. Trọng trách được phân phối, các vấn đề cá nhân trong quân ngũ cũng được giải quyết xong. Thành phần quân đoàn thủy binh đổ bộ được lệnh tập họp; tiểu đoàn này gồm 900 người, chia thành 9 đại đội, trong số có một đại đội mệnh danh là thủy binh đột kích giữ vai trò của công binh, đánh mở đường; đại đội đặt dưới sự chỉ huy của đại úy hải quân de Lapelin.

Thủy sư đề đốc nghe Ðại tá Tây ban nha, cựu chỉ huy trưởng Saĩgon, phúc trình về các công tác của mình; vị đại tá này vừa chấm dứt nhiệm vụ phòng thủ Saĩgon suốt trong một năm qua. Thủy sư đề đốc cùng với các vị chỉ huy công binh và pháo binh đi xem xét cánh đồng Kì hòa và sau đó ông cũng đi quan sát đường giới tuyến phòng thủ do chuẩn đề đốc Page vạch ra từ kinh Avalanche cho đến đồn Caĩ-maĩ; ông muốn biết chắc đường giới tuyến này đất phải khô, khả dĩ có thể dùng cho pháo binh, mặc dù trên cánh đồng mênh mông của đường giới tuyến có nhiều ụ đất và hố nhân tạo. Sau khi quan sát, và thấy rằng với phương tiện hết sức dồi dào của đạo quân viễn chinh hiện nay, ông có thể đánh bọc hậu bất ngờ quân An nam trong khi họ đang bận lo phòng thủ ở mặt trước và hai bên cánh. Do đó, ông quyết định kế hoạch hành quân như sau mà các vị chỉ huy công binh và pháo binh phải nghe theo. Một mặt, hạm đội ngược sông Don-naĩ, phá xập các chướng ngại do địch dựng lên, phá các đập chắn, san bằng đồn lũy và kiểm soát toàn bộ thượng lưu sông. Tiếp đó là đường tuyến các chùa của ta phải đối đầu và kềm giữ cánh mặt của địch quân; đường tuyến này sẽ xử dụng pháo binh mạnh mẽ, dựa vào các công sự mới và vòng đai chiến thuyền neo trên sông Saĩgon, mục đích để cầm chân và dồn địch vào thế bất lực. Sau đó, từ đồn Caĩ-maĩ dùng làm căn cứ hành quân, toàn thể đạo quân viễn chinh sẽ tiến lên đánh gãy tuyến phòng thủ An nam tại một điểm thứ nhất, tiếp tục dùng điểm tựa này tiến lên, tránh tầm đạn của địch bọc ra phía sau để vây hậu tuyến thành Kì hòa. Từ vị trí này rất gần sông Don-naĩ, quân viễn chinh sẽ phối hợp với hoạt động của hạm đội trên sông khép kín gọng kềm mà nghiền nát địch quân. Trong khi ấy quân An nam khi bị cắt rời với kho Tong-kéou, bị vây hãm trong vòng đai sắt, không còn giải pháp nào khác, họ buộc phải đánh hoặc bị tấn công và nghiền nát. Tuy nhiên địch vẫn còn một đường tháo thân, nếu trong khi kịch chiến ta không đặt một đội quân canh chừng tại đây. Ðó là đường giám mục Adran; nhưng muốn đến được đường này thì địch phải vượt qua vùng đầm lầy thuộc kinh Avalanche.

Ðây chỉ là đường tháo chạy chớ không phải là đường rút lui trong trật t4]. Tình trạng đặc biệt như vừa kể cho thấy cái hãi hùng không tả nổi trong tiếng kêu cứu của những người lính canh.

Quân sĩ nôn nóng hăng say chờ đối đầu với kẻ thù. Cho đến giờ phút này các giới tuyến vẫn im lìm; từ chùa Clochetons ta thấy thoang thoáng các chướng ngại vật của người An nam, chẳng hạn như các cành lá úa vàng, rậm rạp và chằng chịt trên đầu tường thành. Những chòi canh có mặt bằng phẳng để đứng, một bóng người thấp thoáng, thế thôi. Chiến tuyến địch trải rộng mười sáu cây số; tổng số địch quân theo tin đồn lên đến 30000 người, ta và họ chỉ cách nhau có vài trăm thước nhưng ta thì không trông thấy họ; ta còn nghe nói họ có những chỗ cố thủ hiểm hóc trong thành; cũng nên kể thêm tính cương ngạnh của giống dân này, sức chống cự của họ và ta thì đã đánh suốt một năm chẳng được gì hết, tất cả cho thấy tầm quan trọng của địch và trận chiến sắp xảy ra. Nhưng ngày nay không còn ai nhớ tới sức mạnh đó của địch. Về sau này, khi tường thành Kì hòa bị san bằng, các bàn chông và chà gai bao phủ trở thành một lớp tro đen, khi kẻ thù bại trận, lang thang và khốn khổ, thì những người từ Pháp đến, cứ lấy hôm nay để đoán ngày xưa, rồi chế nhạo khi dễ giá trị quân sự của người An nam, không chịu phân biệt gì hết mà coi quân An nam chỉ là bọn giặc cướp.

Trong khi chờ đợi những cuộc dấn thân sắp đến, quân sĩ tìm thấy trong đời sống trước mặt một nguồn sinh lực mới, một sự vui nhộn tràn trề, mà sau này không ai tìm thấy trong các cuộc hành quân viễn chinh khác. Những người đã trải qua giai đoạn này đều coi đó là một giai đoạn lý thú và độc đáo trong cuộc đời mình. Cái mới lạ và vẻ đẹp của quang cảnh Saĩgon thật dịu dàng và duyên dáng, tạo ra một bối cảnh hết sức quyến luyến khi chợt nghĩ rồi đây sẽ phải rời xa nơi này[5] Kinh Tàu và đường cái nối tiếp với kinh này trên đất thật đông người và nhộn nhịp, đầy thực phẩm, súng ống và đạn dược chiến tranh. Trên mặt kinh các tàu sa-lúp màu xám, trước kia chuyên chở quân lính đưa lên tàu tại Peh-tang, nay thì chuyên chở các khẩu đại pháo nòng có khía và các ổ súng cối, bàn đặt súng và những quả đạn dài đầu nhọn[6].

Kinh Tàu, mà ta vẫn thường nghe nhắc tới khi nói đến Saĩgon, rất có thể là một con kinh do người đào, hoặc ít ra cũng do tay người sửa và vét giúp cho tàu bè thông thương. Kinh tách ra theo một hướng thẳng góc với sông Saĩgon, ăn sâu vào vùng đồng bằng, mặt nước phẳng và đều, rộng độ 100 thước. Kinh Tàu nối liền với kinh Thương mại[7], kết hợp với các kinh khác rồi đổ vào sông Cambodge [8] tạo ra đường lưu thông huyết mạch cho việc buôn bán trong toàn vùng Nam kỳ miền dưới. Khi rời khỏi Saĩgon, dọc hai bên bờ kinh vương lên nhiều chòm cây mảng cầu[9], cây mít, cây bông lài rất thơm, dứa gai và lau sậy. Cây cối trên bờ bên trái [10] che khuất những ruộng lúa mênh mông xa tít tới chân trời. Dẫy cây bờ bên phải, thỉnh thoảng có chổ trống để lộ ra một cái miếu [11] nhỏ, miếu dựng lên để thờ một vị thần quen thuộc của địa phương; trên bờ có nhiều căn nhà xinh xắn của người An nam, lợp ngói, nhà có trồng xương rồng bao kín chung quanh không cách gì chui qua lọt.

Một con đường cái tình trạng bảo trì khá tốt, rộng như một tỉnh lộ của ta ở Pháp, có cây xinh xắn che mát, đường chạy dài song song với kinh Tàu chỉ cách khoảng 200 thước. Ðó là một đoạn trên con đường từ Saĩgon đi My-thô. Từ Saĩgon xuống, bên phía mặt là các chùa đã biến thành đồn của ta như đồn Barbet, đồn Ao, đồn Clochetons, đồn Caĩ-maĩ. Cũng về bên phía tay mặt, xa xa sau mặt đường, đất đai có vẻ cao hơn một chút trải rộng tới chân trời. Các chòm cau và cây cối xanh tươi không còn nữa, chỉ thấy cây cỏ cằn cọc, vàng úa, thấp lè tèTất cả đều cằn cỗi và buồn thảm dưới bầu trời nung đốt; vài mô đất, vài nấm mồ sơn sáng chói trang trí tranh vẽ trên vách mộ là tất cả những gì đập vào mắt ngưòi nhìn. Cánh đồng mênh mông đó chính là cánh đồng Kì hòa. Xa hơn nữa là tuyến phòng thủ An nam, vách thành thấp, tiệp với màu đất, nếu không có bóng vài kỵ mã và chòi canh thì khó mà nhận ra thành Kì hòa.

Thành phố Tàu, dân địa phương gọi là Cho-luen, tên có gốc tiếng tàu[12], trải dài hai cây số dọc hai bên bờ kinh. Quang cảnh nhộn nhịp, cu-li Tàu và An nam tấp nập khuân vác gạo, tiền bằng đồng, dê nhỏ và cá khô. Các mái ngói màu đỏ nổi bật giữa các chòm cau giống như nơi thôn dã; thân cau thẳng băng và có khía tưởng chừng như đã từng làm mẫu cho các cột của thành quách Hy lạp. Viễn cảnh trông thấy ở khúc quanh đầu tiên của kinh tràn đầy vẻ dịu dàng, mềm mại và thanh lịch. Thật nhiều cầu nối liền hai bờ sông. Càng ra xa Saĩgon hơn, vườn tược rộng hơn, nhà cửa dần dần thưa thớt và riêng biệt hơn. Cho-luen không giống thành phố Âu châu chút nào, mà cũng chẳng giống với một thành phố Tàu hay An nam nào cả. Người ta có thể nói đây chỉ là một nơi gom tụ của một số nông trại giàu có. Sân nhà không có tường che khuất như bên Tàu, nên người ta có thể trông thấy vào giờ cơm, trong sân có kê ba cái bàn theo hình tam giác. Bàn trong cùng, kê cao hơn hết, dành cho chủ nhân, con cái, bạn hữu và người quản gia ngồi; cu-li thì ăn ở hai bàn còn lại kê thấp hơn. Lối sống giữa trời như thế cho thấy cái vẻ oai vệ của chủ nhân. Trên mặt kinh luôn luôn tấp nập, thuyền bè kẹp sát nhau, chỉ còn một lối nhỏ ở giữa. Khi nước ròng, mực nước rút xuống thật thấp, chỉ còn một dòng nước nhỏ như một con suối, đủ cho thuyền thật mỏng lưu thông; ghe thuyền khác thản nhiên cạn sình hai bên bờ mà không hư hại gì cả.Các ghe tàu này chỉ xử dụng ở nước ngọt, sơn bóng loáng bằng một thứ dầu nội hóa, trông có vẻ nhàn hạ phong lưu.

Thành phố Tàu là chìa khóa của tất cả thương nghiệp tại Nam kỳ miền dưới. Ai kiểm soát được thành phố này là nắm hết khả năng sinh hoạt của dân chúng trong phần đất An nam này. Các đồn Clochetons và Caĩ-maĩ sẽ giữ nhiệm vụ đánh chiếm thành phố Tàu; một tàu chiến loại lorcha[13] kiểm soát con kinh mà hai bên bờ là Cho-luen, tàu mang tên Jajaréo thả neo ngay cửa vào thành phố Cho-luen; do một đại úy hải quân chỉ huy, phụ tá lại là một trung úy thủy quân đánh bộ, đây là một trong những việc trớ trêu ngược đời trong trận chiến kỳ lạ này. Thành phố Tàu xây cất theo lối xưa, người Tàu sống ở đây chia ra thành từng bang hay hội đoàn, có thiết lập hẳn hoi quy uớc và xác định những ngoại lệ khỏi đóng góp. Nhiều người thật giàu có; một số người thuê trực tiếp các tàu Âu châu để gởi đi Ấn độ, đảo Réunions hoặc đi Tàu. Cũng phải xác nhận rằng ngày nay tình thế khó khăn vì sự chiếm đóng của Pháp, thương gia tại Saĩgon dựa vào giá cả của thị trường Hong-kong và Shang-haĩ, nhưng có khi biết có khi không, vì thế người Tàu lập hẳn một hệ thống chuyển thư riêng của họ giữa Saĩgon và Canton.

Trong suốt vùng Cho-leun thuộc tỉnh Gia-dinh, chùa và miếu (bàn thờ nhỏ để chuộc tội) thật là nhiều. Các miếu thờ xây cất rất trang nhã và giống hệt nhau, tương tự như các đền miếu bên Tàu. Ðền miếu xây cất có lẽ do tiền quyên góp của dân buôn bán người Tàu. Dân Tàu cũng dững dưng với tôn giáo như dân An nam, nhưng họ giàu hơn và muốn khoe khoang của cải[14]

Bốn cảnh chùa mà chuẩn đề đốc Page, một năm trước đây, đã biến thành đồn để phong tỏa Saĩgon thì nhìn từ xa cũng thấy rõ nhờ trên mái có các con rồng thật đặc biệt, những con cá đứng dựng trên đuôi và tượng chó có mắt người ta[15] theo mẫu gốc đặt ở lâu đài Yuen-minh-yuen; chắc chắn các hình tượng này không phải là các sáng tạo tùy hứng do trí tưởng tượng của người Tàu mà ra. Cảnh sân trước chùa đều có trồng loại cây dương Ấn độ có lá lớn gọi là cây Mahâ-phot, dưới một trong các cây này ông Phật đã được vua các thiên thần là Indra phong làm thầy tu.

Cảnh chùa Barbet mang tên một đại úy thủy binh bộ chiến trước kia đã từng cai quản chùa này, ông bị ám sát và bị cắt đầu nơi khúc quanh thứ nhất trên con đường dẫn đến chùa Ao. Buổi chiều hôm đó, ông cởi ngựa đi tuần tra như thường lệ. Bọn sát nhân rình rập trong một bụi cây, sau này người đi ngang đây còn chỉ chỏ cho nhau biết. Ông ta bị đột kích bằng giáo té ngay xuống ngựa. Bọn An nam liền cắt đầu, bò qua các bụi rậm và cỏ cao trở về giới tuyến cũ của thành Kì hòa. Sáng hôm sau, người ta thấy phần thân thể còn lại bị kéo bỏ bên vệ đường; con ngựa bị thương nằm bất động kế bên. Người ta kể lại rằng khi cái đầu ông đại úy đem đến đặt kế bên khay trầu của vị tướng An nam thì ông này liền đếm tiền thưởng mà không nói gì, rồi sau đó mới thốt ra một lời tiếc thương. Ðại úy Barbet có thân hình và một sức mạnh lực sĩ, tất cả người An nam đều biết mặt ông.

Chùa Ao trước kia rất nổi tiếng vì là nơi hành hương cho những người đi buôn bán từ My-thô trở về. Chùa có hai ao nên gọi là chùa Ao, một lớn một nhỏ, nước dơ bẩn, thường thấy thỉnh thoảng có xuất hiện loại cá sấu caĩman.

Chùa Clochetons hơi xa hơn các chùa kể trên nhưng cũng trên đường từ Saĩgon đi My-thô. Chùa xây cất giữa một cánh đồng mồ mả. Các tượng thần [16] sơn vàng, chất đầy chung quanh các gian phòng trong chùa, vẻ mặt tượng trưng một trạng thái gần hoàn toàn thoát tục. Một đàn gà bươi móc khắp nơi, lính thủy và bộ binh nhìn thấy mà thèm. Trên bàn của các sĩ quan có để vài chai rượu vermouth và absinthe; trước mặt đồn súng 30 ly nòng dài có khía xếp thành hàng trên các bệ bắn, lớp sơn đen trầy trụa vì súng phải khiêng lên khiêng xuống. Các chùa hay đồn binh của ta vừa kể giữ nhiều vai trò: vừa là nông trại, đồn canh gác và pháo đội.

Các vị thần phật giáo hình như đang lạc vào một thế giới khác; nụ cười mỉm của tượng, tuy nhân bản hơn là chế nhạo, nhưng hình như cũng đồng lõa với những nỗ lực của ta đang xảy ra trước mặt. Cảnh các tượng thần trước sự nhộn nhịp của đám người phục dịch bận rộn tíu tít và sức mạnh xâm chiếm của một giống dân tuy lo âu nhưng mạnh mẽ đã tạo ra một sự tương phản lạ lùng[17]

Chùa Caĩ-maĩ là điểm chốt xa nhất trên tuyến phòng thủ của quân viễn chinh, cánh mặt của đường tuyến bắt đầu từ kinh Avalanche. Chùa là vị trí tiền tuyến nhất mà trước đây ta đã chiếm được của người An nam. Chùa xây trên một gò đất cao do người đắp. Bên trong chùa các chi tiết trang trí cũng giống như các chùa khác. Phía trước mặt đồn Caĩ-maĩ là đồn An nam ta gọi là Redoute, đồn này là tiền đồn của cả hệ thống phòng thủ của địch quân, cạnh bên là một vùng đầm lầy làm chướng ngại thiên nhiên. Chùa Caĩ-maĩ của ta mấy ngày sau bất ngờ được xử dụng làm kho tồn trữ đạn dược cho pháo binh và lính bộ.

Công việc nâng các giàn trọng pháo 30 và các ổ súng cối 80 lên bàn bắn rất là nặng nhọc, các người cai thủy thủ đảm trách việc này. Trung tá pháo binh đánh bộ là Crouzat chỉ huy một đội pháo binh phá thành và một đội pháo binh chiến thuật phải huy động hết mọi người trong tay ông. Chỉ trong bẩy ngày các bệ bắn được xây đắp xong, súng từ tàu chuyển đến được nâng lên bệ bắn cùng với một trăm quả đạn cho mỗi súng. Chùa Barbet nhận được 3 ổ súng cối 80 và hai dàn phóng hỏa tiển tấn công 125 ly; chùa Clochetons nhận 4 khẩu đại bác của hải quân nòng 30 có khía; chùa Caĩ-maĩ một khẩu 30 nòng có khía và một ổ súng cối 80. Các thủy thủ trước đây trách nhiệm về các khẩu súng này trên tàu được phân phối gởi theo để tiếp tục đảm trách việc xử dụng.

Ngày 16 tháng hai, vị tổng tư lịnh rời tàu Impératrice-Eugénie, tàu bèn hạ cờ hiệu của tổng tư lịnh xuống rồi chở toàn bộ tổng hành dinh đến trụ sở mới tại một công sự gần phía sau đồn Barbet. Vị tổng tư lịnh giao cho đại úy hải quân de Surville[18] điều khiển các chiến hạm neo dọc trên sông Saĩgon. Vị sĩ quan cao cấp liền gom tất cả thủy thủ đoàn của các chiến hạm trong tay ông để thành lập các đại đội chuyên chở tiếp liệu, đồng thời cũng cung cấp pháo thủ cho các đại bác nòng có khía đã chuyển đến các chùa; suốt hai mươi ngày, họ phải cong lưng chèo chống, từ sáng đến tối dưới bầu trời thiêu đốt, vận chuyển một số lớn các thiết bị lưu động cho cả đạo quân, dù chỉ là một đạo quân nhỏ. Rồi đây họ lại được nghe các dàn đại pháo lẫn tiếng súng nhỏ từ các trận đánh vọng lại. Họ chỉ biết chiến đấu qua việc tải thương, cứu cấp và an ủi quân sĩ bị thương. Vai trò đòi hỏi một tinh thần hy sinh cao độ. Vị chỉ huy hải quân de Surville khuyến khích để giúp họ đủ sức kiên nhẫn chịu đựng những khắc nghiệt trong công tác khó khăn của họ.

Trung tá Crouzat bố trí và hướng dẫn toán dọ thám cho biết chắc chắn chỉ có phía trước và bên trái đồn Caĩ-maĩ mới có đường di chuyển cho pháo binh để tiến đến một vị trí đất cứng cách tuyến địch độ một ngàn thước. Ðường dùng cho pháo binh cần phải san bằng, công tác giao cho một đội công binh biệt phái và một đại đội trên chiến hạm Impératrice-Eugénie đảm trách; quân sĩ làm đường phải chịu hỏa lực của địch rất khó chịu nhưng không ai bị trúng đạn._Ngày 19 tháng hai, 20 hỏa tiển phóng hỏa 125 ly của hải quân và 32 hỏa tiển của bộ binh đầu 90 ly sơn đỏ được phóng đi từ chùa Barbet đến một địa điểm cách xa chừng 5 cây số nằm trong phần doanh trại của địch, mục đích làm cho địch bối rối và lo âu. Ngày 21 và 22 tháng 2, ta tiếp tế thêm cho chùa Caĩ-maĩ, nơi làm điểm tựa để chuyển quân đánh bọc hậu, gấp đôi số đạn dược cho pháo binh và thêm 50 000 viên đạn cho lính đánh bộ.

Trên bộ các đội quân viễn chinh tiếp tục bố trí, trên sông Don-naĩ các hoạt động cầm chân địch cũng được phối hợp và phân bố. Vị phó thủy sư đề đốc chỉ huy trưởng vạch ra chương trình hành quân cho chuẩn đề đốc Page như sau:

‘’Tôi thật vinh dự cho ông biết các chiến hạm Avalanche, Sham-Rock và pháo hạm số 31 phối hợp với chiến hạm Renommée để lập ra một sư đoàn dành cho ông hành quân phía thượng lưu sông, chiến hạm Renommée sẽ mang cờ lệnh của ông.

‘’Khi tới ngang địa phận Go-viap, và sau khi đã vượt được hết các chướng ngại có thể cản trở hạm đội của ông xong, thì ông biệt phái pháo hạm số 31 ở lại kinh này. Pháo hạm phải hoạt động thật cẩn thận đừng để bị thiệt hại. Tại vị trí đó, pháo hạm tận dụng tất cả những phương tiện sẵn  có để canh chừng và chận đứng mọi di chuyển của địch quân, cấm bất cứ ai có vẻ nghi ngờ vượt từ bờ sông bên này sang bờ sông bên kia.

 ‘’Phần ông thì đem các chiến hạm Renommée, Avalanche và Sham-Rock tiếp tục tiến lên đến ngang địa phận Thu-yen-mot, cương quyết gây khó khăn cho địch trong việc di chuyển giữa hai bờ sông, nếu có thể thì cắt đưt hẳn sự di chuyển của họ.

‘’          Ông có thể vượt xa hơn Thu-yen-mot trong nhất thời nếu ông thấy có lợi thế cho ông, cứ tùy cơ xử trí để đạt mục đích tôi vừa chỉ định.

‘’Tôi giao cho ông trọng trách đối xử với dân chúng khi họ không gây hấn gì. Tạo cho họ tin tưởng là điều quan trọng, đồng thời cũng nên phô trương cho họ thấy các phương tiện mạnh mẻ của ta.’’

‘’Nếu trong vòng ngày mai bố trí xong thì ông lên đường ngay khi thấy thủy triều lên.’’

Trong mục đích kềm giữ hoàn toàn quân địch trong vòng thành của họ (xem bảng hình 1 và 2), pháo hạm số 18, sau khi chuẩn đề đốc Page xuất quân, sẽ lên đường đến một vị trí trên kinh Avalanche, giữ cách xa tàu lorcha Espérance một quảng ngắn. Pháo hạm 18 giữ trọng trách cắt đứt liên lạc của địch qua lại giữa hai bờ sông và phá xập cây cầu thứ hai bắc qua kinh. Tàu được cấp thêm đạn đại pháo và súng trường._ Về phía mặt trận tuyến, pháo hạm số 31 vì nằm ở một vị trí lẽ loi tại Go-viap nên nhận được lịnh phải hành động thật thận trọng, luôn luôn giữ chổ nước sâu, sông rộng để xoay trở dễ dàng._Sau hết là pháo hạm số 16, tàu lorcha Jajaréo, pháo hạm số 27 và tàu lorcha Saint-Joseph giữ vị trí bên cánh trái của quân ta; hai chiếc trước tiến vào kinh Tàu, hai chiếc sau tiến vào kinh Rach-cat tại cửa sông Rach-baoum, tức chỉ cách thành phố Tàu khoảng năm dặm. Pháo hạm số 27 nhận quân biệt phái từ tiểu đoàn 2 bộ binh, nhóm quân này trước đây đã từng tăng cường cho thủy thủ đoàn Saint-Joseph. Ngày 17 tháng 2, pháo hạm số 27 kéo tàu lorcha về hướng ngã ba sông Don-naĩ và Soi-rap, đổ theo sông Soi-rap đến một phụ lưu là sông Rach-cat; pháo hạm tiếp tục kéo theo tàu Saint-Joseph ngược sông Rach-cat rồi dừng lại giữ vị trí ở cửa sông Rach-baoum. Tất cả bốn tàu hợp sức kềm giữ địch quân bên cánh trái của ta và tạo ra hai đường tuyến phòng thủ riêng biệt nằm phía sau giới tuyến các chùa, mục đích là vừa làm hậu thuẩn cho giới tuyến này vừa làm cho bọn An nam không còn trông cậy gì được vào các trục giao thông trên sông ngòi. Liên lạc giữa pháo hạm số 27 và tổng hành dinh sẽ do pháo hạm số 16 và đồn Caĩ-maĩ đảm trách.

Vị chỉ huy trưởng liền cho quân sĩ hay là thời cơ sắp đến. Ông nói với quân sĩ rằng người Pháp gây chiến với hoàng đế của dân An nam, chớ không phải với dân An nam; quân đội viễn chinh Nam kỳ phải bảo vệ người dân vô tội, của cải và việc buôn bán của họ.

Với các dân tộc An nam, ông thông báo sự hiện diện của ông tại đây và mục tiêu của cuộc chiến; ông vạch cho họ cách xử trí bằng những lời lẽ như sau:

‘’Charner, đề đốc thủy sư Pháp, chỉ huy trưởng toàn thể lực lượng viễn đông, đại diện toàn quyền trong việc bình định đế quốc An nam,

Nhắc cho dân chúng tỉnh Saĩgon và tất cả các quận lỵ tùy thuộc tỉnh này biết rằng đế quốc Pháp và vương quốc Tây ban nha đồng tình trong cùng một ý chí, kết hợp sức mạnh chung đến đây để hạch hỏi chính quyền An nam phải giải thích lý do về tất cả các hành động bội ước và vô ơn mà họ phải nhận tội. Vì lẽ đó, chúng tôi tuân lịnh tôn nghiêm của đại hoàng đế chúng tôi để đến đây cùng quân sĩ tra hỏi ngọn nguồn về tất cả những gì đã xảy ra từ trước.

‘’Chắc chắn không phải chúng tôi đến đây để gây khổ sở cho dân chúng. Trái lại, điều thiết tha lớn nhất của chúng tôi là che chở và mở đường thương mại cho họ để càng ngày càng làm cho họ giàu có thêm. Chúng tôi hứa sẽ đem tới hòa bình và bảo vệ hoàn toàn của cải của họ, tính mạng và nhà cửa của họ, không làm gì thiệt hại đến tất cả quan chức dân sự nào, quân sĩ nào, người dân nào chấp nhận mọi sự việc với một tấm lòng lượng thiện. Sự che chở này cũng sẽ mở rộng cho tất cả, không phân biệt những người đã quy phục chúng tôi cũng như những người chưa có cơ hội để làm._Nơi nào quân sĩ chúng tôi không đi ngang thì cứ thản nhiên buôn bán như thường lệ, không rối loạn và không lo sợ gì cả. Còn những ai, trước kia vì nhất thời khiếp sợ uy quyền của chúng tôi mà trốn chạy, và những ai, cho đến bây giờ vẫn chưa kết hợp với dân tộc chúng tôi, nếu có ý chí thật sự muốn quy phục thì chúng tôi vì lòng nhân từ sẽ đón rước và che chở không nệ gì về quá khứ.

‘’Những lời hứa hẹn hòa bình vừa ban ra, xuất phát từ lòng thực tâm của ngưòi tổng tư lịnh, không phải là những hứa hẹn chốc lát có hiệu quả ngắn hạn, mà là những lời hứa khẳng định và vĩnh viễn’’

Tất cả các cánh quân đã bố trí xong, quân sĩ sẵn sàng tiến lên và chiến đấu. Vị tổng tư lịnh chỉ thị các hàng tiền tuyến sẽ tấn công ngày 24 tháng hai--

            [1] Phúc trình do vị chỉ huy của một trong các lực lượng đặc biệt cho biết như sau:

‘’Ðể đánh bật địch quân ra khỏi trại của họ, thì phải đánh trước mặt hoặc bên cánh trái, hoặc bên cánh phải. Tấn công trước mặt thẳng về hướng Saĩgon, sẽ gay go và thương vong nhiều, địch dồn về mặt này đông nhất, phương tiện phòng thủ cũng tốt nhất. Vững tâm trong vòng đai cố thủ, địch sẽ chống cự đến cùng. Còn như tấn công bên trái của địch quả là khó khăn, vì lý do phải vượt qua đầm lầy để xáp đến gần địch. Vậy chỉ còn cách là tấn công bên cánh phải của địch mà thôi.’’

Vì những lý do vừa kể, ta chỉ cho lịnh tấn công bên trái khi nào tấn công trước mặt gây tổn thất thương vong quá nhiều và khi tấn công bên phải sẽ gần như không thực hiện nổi vì các chướng ngại thiên nhiên. Nhưng thật ra cũng không đúng như vậy vì ta chưa kể đến sức mạnh của cả hạm đội trên thượng lưu sông Don-naĩ, và địch thì không thể di động được ở bất cứ điểm nào dọc theo tuyến các chùa của ta. Nhưng nếu kể như quân viễn chinh tiến lên từ cánh trái của mình đánh bật được quân địch ở tiền tuyến của họ mà ta gọi là Redoute để gây thêm càng lúc càng khó khăn cho địch, thì chương trình hành quân sẽ không thiết lập dựa vào phương pháp loại dần các giải pháp; mà nó là hậu quả hợp lý và đúng theo sự bố trí của ta trên các mặt sông và dọc theo đường giới tuyến các chùa.Tấn công thẳng vào mặt trước của địch chẳng những tự gây tổn thương hết sức nặng, mà điều sai lầm là ta không chú ý tới hai tác dụng cực mạnh khác là hạm đội và vòng đai đại pháo kéo dài từ kinh Avalanche đến đồn Caĩ-maĩ mà ta sẵn có. Vả lại, chắc chắn quân địch, khi yên trí trong vòng thành phòng thủ, sẽ chống trả đến cùng; và còn có thể dựa vào cách tổ chức từng khu công sự riêng trong doanh trại của họ mà tăng sức kháng cự lên thành bốn. Còn tấn công phía bên phải thì điều này không thể đặt ra được.

Hậu tuyến của Kì hòa cũng mạnh như tiền tuyến vậy. Cũng phải nghỉ đến chuyện bố trí chiến thuật mà ta ta đặt ra không lọt qua khỏi sự tiên đoán của vị nguyên soái An nam.

[2] Nòng súng có khía bên trong gọi là đường khương tuyến giúp viên đạn khi bắn ra sẽ xoáy trong không khí, đi xa hơn và sức xuyên phá mạnh hơn, (ghi chú của người dịch).

[3] Mỗi chân dài khoảng hơn ba tấc (0,3248m) (ghi chú của người dịch).

[4] Trong nguyên bản là : comme une bête fauve : (ghi chú của người dịch).

[5] Tác giả vừa tả Saigon buồn thảm chẳng có gì xem ở chương II. Hóa ra :’’Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ’’ ( Kiều-Nguyễn Du), (ghi chú của người dịch).

[6] Trong khi đó các cỗ đại pháo An nam vẫn còn dùng đạn tròn đúc bằng sắt, (ghi chú của người dịch).

[7] Arroyo Commercial: tạm dịch là kinh Thương mại, người dịch không biết kinh này ngày nay gọi là gì, (ghi chú của người dịch).

[8] Sông Cữu long ngày nay, (ghi chú của người dịch).

[9] Rất có thể đây là các cây bình bát, cùng một giống với mảng cầu, mọc hoang ở mép kinh, (ghi chú của người dịch).

[10] Các kinh đều nối liền với hai con sông khác nhau, vì thế đổ ra biển cũng bằng hai cửa khác nhau, mặt và trái dùng ở đây luôn luôn chỉ bên mặt và bên trái thuận theo danh xưng dùng trong chiến lược và hành quân, (ghi chú của tác giả).

[11] Tác giả viết là miao trong nguyên bản, (ghi chú của người dịch).

[12] Chợ lớn là tiếng An nam, (ghi chú của người dịch).

[13] Lorcha là chiến thuyền gốc Bồ đào nha, nhưng vì nhu cầu phải kiểm soát một số quá lớn sông ngòi, nên được đem xáp nhập vào lực lượng hải quân của ta. Các tàu lorcha có trang bị một khẩu đại bác lớn trên mỗi tàu và phải mang cờ quốc gia của ta.

[14] Tôi trộm nghĩ xây cất chùa miếu có lẽ không phải là một cách khoe khoang của cải. Còn việc dững dưng với tôn giáo thì có lẽ chùa chiền khang trang rộng rãi đã bị chiếm để làm đồn cho quân viễn chinh hết rồi. Viễn chinh không phải chỉ có những viên đạn đồng phập vào thân xác họ mà còn có những viên đạn bọc nhung đâm vào tâm hồn họ nữa. Biết bao nhiêu người đã ngã xuống không phải chỉ để bảo vệ mảnh đất quê hương của mình mà còn để gìn giữ truyền thống, tín ngưỡng và văn hóa của họ nữa đấy, (ghi chú của người dịch).

[15] Có thể đây là hình tượng cá hóa long và các con lân, (ghi chú của người dịch).

[16] Trong nguyên bản, tác giả viết là dieux hoặc là dieux boudhiques, (ghi chú của người dịch).

[17] Hay lắm ! Nhận xét và mô tả rất khéo,( ghi chú của người dịch).

[18] Ðại úy hải quân d’Aries được chỉ định làm chỉ huy trưởng các lực lượng đóng tại Saĩgon.

 

CHƯƠNG IV

Ðề cương:

 

   Sáng ngày 24 tháng hai, quân viễn chinh đánh gẫy đường tuyến phòng thủ An nam tại địa điểm gọi là Redoute. Phó thủy sư đề đốc Charner trực tiếp nắm quyền điều khiển quân lính. Ðạo quân Pháp-Tây ban nha di chuyển vòng theo bên cánh rồi dàn ra ở hậu tuyến của địch quân, chiều 24 tháng 2 đóng quân ngay trên đường tháo lui của địch.

Vào bốn giờ sáng, kèn báo hiệu tập họp chào cờ. Trời còn tối; cũng như các nước nhiệt đới khác, trời chỉ bắt đầu sáng vào khoảng sáu giờ. Trong đêm tối các toán quân mò mẩm đứng vào vị trí của mình. Trước khi lên đường, quân sĩ được uống cà phê và nhận một khẩu phần rượu mạnh. Túi đeo lưng đã chuẩn bị xong từ chiều tối hôm qua. Trong túi có tám ngày lương khô và hai khẩu phần thịt nấu sẵn .

Năm giờ sáng, tất cả các toán quân đều đến vị trí dọc theo đường các chùa. Ðề đốc và đại tướng de Vassoigne dẫn đầu đứng gần cổng đồn Caĩ-maĩ, một nhóm nhỏ lính bộ người Phi châu được phái làm lính bảo vệ. Kế đó là lính bộ Tây ban nha, tiếp theo là hai đại đội lính bộ nữa. Pháo binh cắm trại tại Caĩ-maĩ tập họp thành hàng dọc theo thứ tự như sau: 6 ổ súng cối miền núi, hỏa tiển, 3 đại pháo 4 phân nòng có khía, 4 đại pháo 12 phân nòng có khía. Bộ binh bố trí trên đường cái theo thứ tự như sau: lính đánh bộ, công binh vác thang; thủy quân xung kích vác thang và chiến cụ linh tinh; thủy quân đổ bộ; thủy quân bộ chiến. Tiếp theo nữa là tùy tùng và ban cứu thương. Một đoàn gồm 600 cu li người Tàu khuân vác, 100 thú vật chuyên chở giữ vị trí dài dọc theo đường Jajareo, đường này nằm chắn ngang và thẳng góc với đường các chùa. Cách xắp xếp như thế tránh cho quân lính khỏi gặp trở ngại khi di chuyển.

Năm giờ rưỡi, đoàn quân bắt đầu chuyển động lên đường. Trời bắt đầu sáng, khí trời còn mát; bụi bặm, nhờ hơi ẩm ban đêm lắng xuống, lại dấy lên mù mịt. Các toán quân dẫn đầu đổ xuống ruộng và tiến về hướng đồn Redoute, đồn nằm ở cuối tuyến phòng thủ phía tây của quân địch. Phía trước đoàn pháo binh thì có một đại đội lính bộ phân tán mỏng làm quân biệt kích; pháo binh nhờ đường đã được phan bằng phẳng từ chiều hôm trước nên bố trí không gặp khó khăn gì. Các chùa Barbet, Clochetons, Caĩ-maĩ đã bắt đầu bắn suốt một giờ rồi. Tiếng gầm thét của các khẩu đại pháo át hết các tiếng động khác và bao trùm toàn vùng mặt trận Quân địch cũng kéo nhau giàn ra các đường phòng ngự, ồn ào chuẩn bị chiến đấu. Từ vị trí cao trên đồn, ta có thể quan sát địch quân bố trí. Tiếng chiêng và tiếng rít đặc biệt rất dễ nhận phát ra từ súng của họ chỉ nghe thấy ở khoảng trống giữa những tiếng nổ do các cổ đại pháo nòng 30 có khía của ta; súng của họ có nòng nhỏ và làm bằng sắt. Các sĩ quan từ Saĩgon lên, tập họp ở đồn Caĩ-maĩ, tiến nhanh trên đường cái, họ chỉ kịp chào và bắt tay vội vả những đồng đội đi ngang.

Ðoàn quân dàn trận đã gần xong: đại pháo do ngựa kéo trải rộng ra để bố trí trong ruộng và tiếp tục tiến lên, khi chỉ còn cách địch độ một ngàn thước liền tản ra thành từng đội, kéo chếch qua phía trái, bất thần ngừng lại và bắt đầu nhả đạn. Sức rung chuyển sắt thép, kéo dài, rít lên làm điếc tai và vang rền cả cánh đồng. Các cổ pháo nòng 12 chỉa thẳng vào đồn Redoute, các cổ pháo nòng 4 và súng cối vùng núi cũng như hỏa tiển hướng vào hai góc đồn hai bên. Ðường bắn được điều chỉnh nhanh chóng và trở nên thật chính xác. Mặc dù tuyến phòng thủ An nam yếu kém vì súng nhỏ và các điều kiện quân sự thua thiệt, họ vẫn đốt khói để che và gia tăng sức kháng cự. Súng bắn rát, nhưng nói đúng ra là phía địch đã tận lực chiến đấu, chớ không phải về phía ta.

Pháo binh lâm trận giúp cho bộ binh nghỉ tay lấy lại sức: quân tiến lên từng đại đội xếp theo hình dọc. Lịnh ra phải dàn quân khép lại khoảng cách còn một nữa. Các cổ đại pháo miền núi nhẩy chồm lên và tiến tới, bất chấp chướng ngại như gò và mồ mả, các cỗ đại pháo dàn ra chỉ cách địch quân có 500 thước. Các cỗ pháo nòng 4, hỏa tiển, đại pháo nòng 12, tiếp tục luân phiên điều động tiến lên từng chặn một. Bộ binh tiến lên thêm một chặn nữa. Dọ thám tối hôm trước cho biết có một vùng đầm lầy nằm phía bên trái gần đồn Redoute. Vì thế bộ binh tiến lệch về phía mặt để tránh, nhưng lại tránh quá xa. Lớp sau lại tiến theo nên gây ra chậm trể. Sau khi pháo binh bắt đầu khai pháo trở lại thì một lúc sau bộ binh mới giàn xong vị trí. Hai mũi tiến quân được thành lập, bên mặt là công binh, lính đánh bộ, lính đánh bộ người Tây ban nha, thủy quân đánh bộ; mũi tiến quân này do đại đội trưởng Allizé de Matignicourt chỉ huy. Mũi tiến quân bên trái gồm có thủy quân đổ bộ do đại úy hải quân Desvaux và đại úy công binh Gallimard chỉ huy.

Trong khoảng cách năm trăm thước, đạn của đối phương rơi tới tấp vào quân Pháp và Tây ban nha. Ðường bắn của quân An nam chính xác, đúng cả hướng và cả chiều cao. Trong đồn, các cổ pháo, súng nhỏ cầm tay, súng trường bắn ra xối xả. Mỗi khi phó đề đốc, bộ tham mưu và quân hộ vệ của ông dừng lại chỗ nào thì trong thành nhắm vào chỗ đó bắn ra rất rát và mảnh liệt. Pháo binh chịu trận trước tiên; chỉ trong vài phút, nhiều pháo thủ và ngựa bị trúng đạn. Khoảng cách quá ngắn trước mặt địch làm giảm ưu thế của khí giới có tầm bắn xa và chính xác của ta; mặc dù tầm đạn của ta chính xác, liên tục và ưu thế hơn, nhưng sức kháng cự của bọn An nam không bị đánh tan cũng không nao núng chút nào. Thương vong của ta tăng lên; đại tướng de Vassoigne, đại tá Tây ban nha Palanca Gutierrez, chuẩn úy Lesèble và thượng sĩ Joly bị thương nặng. Thủy sư đề đốc bèn trực tiếp cầm quân và ra hiệu lịnh. Các hàng quân chuyển động. Các cổ súng cối miền núi bắn yểm trợ hai bên cánh. Một đại đội lính đánh bộ xung kích tiến lên bắn loạn xạ để dẫn đầu cánh quân bên phải; một đại đội thủy quân đánh bộ dùng súng nhẹ dẫn đầu cánh quân bên trái. Lính công binh lên trước, tiếp theo sau là quân Tây ban nha, bộ binh, thủy quân đánh bộ. Vì phải để dành sức cho phút chót nên tất cả chỉ chẩm rải dấn lên, địch bắn xối xả, quân tấn công tiến xéo qua bên phải để khỏi rơi vào vùng đầm lầy. Còn khoảng chừng ba mươi thước, một tiếng thét vang ‘’Hoàng đế muôn năm!’’ vụt nổi lên át hết tiếng súng; quân lính ở hàng đầu nhào lên; tuy bị tầm đạn của súng hỏa mai ngay trước ngực nhưng họ vẫn cố vạch chà tre chằng chịt để bước từng bước trên miệng các hầm chông, nhảy qua bàn chông, nhào xuống hố, phá chà gai để tiến tới, tay và mặt đầy máu, quần áo rách tả tơi nhưng vẫn tiến đến bờ thành của địch một cách vinh quang.

Cánh quân bên trái cũng can trường phá gẩy tuyến phòng thủ phía ngoài của địch. Dẫn đầu là thủy binh đột kích. Họ tự mang lấy thang, câu liêm có cán, sào móc, lựu đạn: bọn cu li mang thang đều được thay ở trạm tiến quân thứ hai; việc mang thang kể như là một công tác danh dự. Không có chỗ nào phải chạm trán xáp lá cà, khi các quân lính Pháp đầu tiên nhẩy được vào bên trong, trên các các bệ bắn phía sau tường, thì họ thấy bọn An nam thối lui mang theo giáo mác, súng lớn và súng tay của họ. Quân An nam lùi lại một bước thế thôi, gần như thản nhiên, giống như những người thợ đang làm việc rồi ngưng tay; thật quả là lạ lùng, mặc dù tình thế cấp bách vì cả một đạo quân đang trèo lên tường để tràn vào; chỉ có một số thật ít bỏ chạy mà thôi. Trong mấy phút sau là họ rút về phía đại quân có cờ đuôi nheo phấp phới bên trong thành Kì hòa. Trong trận đánh ngày 24 tháng 2 này, quân An nam chấp nhận đối đầu bằng đại pháo với ta tuy họ yếu kém nhưng không thấy lòng can trường của họ bị sứt mẻ hay nao núng một chút nào cả: nhiều xác chết rải rác dọc theo tường phòng thủ cho thấy hiệu quả của súng nòng có khía của ta. Nhưng khi quân ta xung phong, tiến thẳng vào họ, thì họ thối lui nhưng không chạy, khoảng cách vẫn còn nhìn thấy nhau[1] Chuyện này cũng thấy ghi trong các phúc trinh về những trận đánh trước đây ở Saĩgon và Touranne.

Thiếu úy Thénard của công binh và trung úy hải quân Berger là hai người trèo lên tường thành trưóc nhất tại hai điểm phòng thủ bị đánh gẫy: một do đạo quân bên phải và một do đạo quân bên trái.

Trận này làm ta thiệt hại 6 người chết và 30 bị thương, trong số này có một đại tướng, một đại tá, một chuẩn úy và một thượng sĩ. Một người cu li công binh bị giết và một bị thương. Sau cùng cu li công binh cũng tiến tới chướng ngại chót, theo đúng với giao ước thường ký như vậy ở bên Tàu, mục đích là dành cho quân đánh thuê một chút danh dự. Pháo binh có nhiều ngựa và la chết hoặc bị thương. Pháo binh hành quân trên một địa thế rất khó khăn, lầy lội, giếng, hố, tường chắn rải rác, chướng ngại nhân tạo đủ loại; địa thế như vậy cực kỳ thuận lợi cho quân đánh bộ, nhưng lại bất tiện cho đại pháo dùng ngựa kéo, nhất là khi thụt lùi không phải
 Vào ba giờ chiều thì cho thổi kèn báo thức và thúc quân lên đường. Một đại đội thủy binh bộ chiến đặt ở lại với một ổ súng cối miền núi để giữ đồn Redoute ta vừa chiếm: làm hậu quân và giúp quân ta vẫn tiếp tục dựa vào chùa Caĩ-maĩ. Quân sĩ lên đường: pháo binh ở giữa xếp theo hàng dọc thứ tự từng giàn pháo một; bộ binh chia ra thành từng phân đội ngắn, xếp thành hai hàng dọc, bên phải một hàng, bên trái một hàng. Mặt đất dẽ cứng, phẳng, phủ một lớp rêu thật mỏng, xe chở đạn và xe quân nhu lăn bánh trên mặt rêu không gặp khó khăn gì cả, chân bước trên rêu cũng thấy thích thú [3] Quân ta tiến lên theo bên hông, bọc hậu phía sau quân địch, giữ cách xa, lọt ra ngoài tầm bắn của họ. Ðoàn quân đang đạt mục tiêu dự trù từ trước: tức tối nay phải cắm quân ở mặt tây thành An nam, chắn ngang đường rút lui của họ.

Khoảng bốn giờ, một toán quân địch, tầm quan trọng thật khó đoán, bất thần xuất hiện từ khu rừng chồi phía bên phải của ta; quân địch có nhiều voi trận, trương cờ đuôi nheo rầm rộ. Quân An nam muốn thử chận đường tiến của ta hay chỉ muốn di tản đem dấu bớt voi trận, xe quân nhu và quân trang cồng kềnh? Trong suốt trận chiến, biến cố này vẫn còn là một bí ẩn hoàn toàn, không ai biết được chủ đích của quân An nam. Họ tiến đến gần, nổ súng với bộ binh ta. Chỉ huy trưởng liền cho 3 ổ súng cối miền núi, ba trọng pháo nòng 4 tiến lên: sức bắn trả có hiệu lực ngay. Ðịch quân dừng lại, một phần rút vào trong thành, một phần đóng quân bên ngoài dựa vào tường thành của họ.

Quân ta buộc phải tạm dừng quân vì trận đụng độ nhỏ này, nhưng lại tiếp tục tiến lên. Khoảng sáu giờ chiều thì đến địa điểm cắm quân, tức là ngay sau thành Kì hòa. Nơi đây đồng ruộng không còn hoàn toàn trống trải nữa: có vài chòm cây rải rác, rừng chồi cũng rải rác một vài nơi. Một ngôi làng gồm vài căn nhà đổ nát dựa vào một đám cây cách thành địch chừng hai cây số. Thủy sư đề đốc đặt đại bản doanh tại một trong những căn nhà bỏ hoang trong ngôi làng này. Ngay lúc đó thì đại pháo trong thành Kì hòa cũng bắn ra vài phát hướng về phía làng. Một viên đạn xuyên ngang mái nhà đại bản doanh, đồng thời súng nhỏ cũng bất thần bắn tới tấp từ khu rừng chồi vào các lều cắm quân của ta. Bộ binh hướng về phía bìa rừng để chống trả loạt tấn công bất ngờ này. Lính Tây ban nha, tiếp theo là đại đội thuộc tàu Renommée và hai đại đội khác nữa tiến lên đánh xung kích. Ngựa kéo đại pháo đã tháo cương, vì thế phải dùng tay kéo hai khẩu pháo nòng 4 đặt vào vị trí. Quân địch thì không thấy đâu hết mà súng cứ xối xả thật can trường, suốt nữa tiếng đồng hồ. Phải mất một lúc lâu mới di tản hết bộ binh đến một vị trí xa khu rừng để khỏi bị đánh bất ngờ. Pháo binh trở nên quá lộ liễu, liền đưa vài pháo thủ giữ vị trí xung kích: công binh cũng dàn ra. Trong khi đó ta cũng đã càn quyét xong khu rừng và cuộc nổ súng cũng im. Lính Tây ban nha, thủy quân, quân đánh bộ và các đạo công binh trở về đóng bên trong trại. Vài nhóm nhỏ lo nấu ăn. Phần còn lại thì quá mệt vì vừa phải chạy tới chạy lui đánh nhau, dọn trại, chẳng còn hơi sức đâu mà thổi lửa nấu ăn; họ đành ăn lương khô và uống nước lã, cũng may là cạnh trại có nhiều chỗ lấy nước. Thế cũng xong buổi ăn tối. Ăn xong mạnh người nào người nấy nằm dài ra đất._Rồi ngày mai đây, các khẩu thần công từ các hạm đội, các cỗ súng nòng có khía từ các chùa sẽ nhả đạn và ta sẽ nghe những tiếng nổ long trời. Phần chúng ta thì sẽ xông thẳng vào quân thù, hai đạo quân xáp trận, quân lính hai bên đánh xáp lá cà.

[1] Tuy thua nhưng tức không chịu chạy, (ghi chú của người dịch).

[2] Một bàn nâng của cổ trọng pháo 12 bị gảy, hai đầu ốc bu-loong bị bung mất, vít điều chỉnh hướng bắn bị hư. Bàn nâng của cổ trọng pháo được thay ngay, bu-loong được xiết trở lại, nhưng vít điều chỉnh đường nhắm phải khó khăn lắm mới sửa được. Chỉ còn biết cầu khẩn cho cổ trọng pháo 12 này sẽ gặp địa thế khá hơn ,vì trận chiến ngày mai sẽ hứa hẹn thật nhiều gay go. (Trích phúc trình của trung tá pháo binh đánh bộ Cruzat).

[3] Ði đánh nhau nhưng vẫn thấy thích thú khi bước trên rêu, hoá ra con người cũng giống nhau và thường gặp nhau ở những chỗ nhỏ nhoi như vậy, (ghi chú của người dịch).


                                  (Tiếp theo)


  Tết Sài Gòn trăm năm trước ra sao?   Biết những gì xảy ra trong quá khứ xa xưa dường như là mơ ước muôn đời của con người. Bởi trong c...