Thứ Bảy, 28 tháng 2, 2015

MỘT NGÔI SAO ĐIỆN ẢNH NỔI TIẾNG ĐÃ RA ĐI


                       Leonard Nimoy, người ghi dấu ấn với nhiều thế hệ khán giả trong suốt 40 năm qua vai diễn Mr. Spock trong loạt phim Star Trek nổi tiếng vừa qua đời ở tuổi 83, trang News York Times ngày 27.2 đưa tin. 

Nhiều người tiếc thương Leonard Nimoy

(TNO) Ngay sau khi Leonard Nimoy qua đời, nhiều người đã bày tỏ sự tiếc thương và cầu chúc ngôi sao Star Trek yên nghỉ.

Nhiều người tiếc thương Leonard Nimoy - ảnh 1Hoa, ảnh và lời cảm ơn của người hâm mộ đặt tại ngôi sao của Nimoy trên Đại lộ Danh vọng ở Hollywood
Nhiều người tiếc thương Leonard Nimoy - ảnh 2Người hâm mộ khóc thương Nimoy
Nhiều người tiếc thương Leonard Nimoy - ảnh 3Bức ảnh kỷ niệm của NASA. Trong ảnh, Leonard Nimoy đứng thứ tư từ phải sang - Ảnh: Reuters
Theo Reuters ngày 27.2, Tổng thống Mỹ Barack Obama gọi Nimoy và nhân vật Mr. Spock do ông thủ vai là nhân vật trung tâm của Star Trek. “Tôi yêu Spock”, ông Obama nói trong một tuyên bố. Ông Obama từng được so sánh với nhân vật Mr. Spock vì đôi tai nổi bật của mình.
Nhiều bạn diễn của Nimoy trong loạt phim Star Trek cũng bày tỏ sự tiếc thương của mình. Tài tử William Shatner, người đóng vai Captain Kirk, viết trên Twitter: “Tôi yêu anh ấy như một người anh em. Tất cả chúng ta sẽ luôn tưởng nhớ sự hài hước, tài năng và tình yêu của anh ấy”. Còn nam diễn viên George Takie, người thủ vai Mr. Sulu, nói trên Facebook rằng: “Thế giới mất đi một người đàn ông tuyệt vời và tôi mất đi một người bạn tuyệt vời”.
Ngôi sao Patrick Stewart thì viết: “Tôi rất buồn khi nghe nói Leonard Nimoy mất. Thật may mắn khi tôi đã trải qua nhiều thời gian hạnh phúc và đầy cảm hứng với anh ấy. Anh ấy sẽ không bao giờ bị lãng quên”.
Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Mỹ (NASA) cũng đăng một bức ảnh của tiến sĩ James D. Fletcher thuộc NASA chụp cùng dàn diễn viên Star Trek bao gồm Nimoy vào ngày 17.9.1976 kèm theo dòng tweet: “Hãy yên nghỉ trong hòa bình, Leonard Nimoy. Rất nhiều người trong NASA được truyền cảm hứng bởi Star Trek”.
Nam diễn viên Wil Wheaton ca ngợi vai trò đi đầu của Nimoy trong Star Trek: “Chúng tôi đứng trên vai anh, và sẽ không có một thiên hà để khám phá nếu anh không là người đầu tiên ở đó. Cảm ơn Leonard”.
Diễn viên hài Seth MacFarlane thì cho rằng Nimoy đã tạo ra một nhân vật vĩ đại và cao quý nhất trong lịch sử phim ảnh Mỹ.
Theo New York Daily News, nhiều người nổi tiếng khác như mẹ đẻ của Harry Potter - nhà văn J.K. Rowling, ban nhạc One Republic, nam diễn viên Jason Alexander, các nữ diễn viên Kat Dennings, Alyssa Milano cũng bày tỏ sự tiếc thương và cầu mong Nimoy yên nghỉ.

CÁC BỘ PHIM TRUYỀN HÌNH AFVN
Trong cuối thập niên 60 rồi qua thập niên đầu 70. Ở thời chúng ta còn là học sinh trường Lê Quý Đôn, truyền hình Mỹ đã mang đến cho chúng ta những giờ giải trí thích thú. Đối với tôi, trong các bộ phim đã được trình chiếu thì bộ phim Star trek mang đến cho tôi nhiều ấn tượng nhất. Bộ phim này khán giả miền Nam đều gọi nó bằng cái tên trông rất ngây ngô là “Lổ tai lừa”. Bộ phim này được trình chiếu từ đầu thời gian thành lập đài truyền hình Mỹ đến giai đoạn cuối cùng trước khi chấm dứt hoạt động của đài vào ngày 22 Tháng Ba năm 1973. Ngày đó khi nghe tin đài đóng cửa, lòng tôi cảm thấy trống trãi, không biết có cơ hội mình còn xem lại bộ phim mình yêu thích không.Thế rồi thời đại Internet đến, sau 36 năm, tôi lại có cơ hội gặp lại bộ phim này trên mạng. Tôi bây giờ may mắn sở hữu toàn bộ số phim Star trek giai đoạn đầu gọi là season 1, season 2, season 3 tức là những phim mà đài truyền hình Mỹ khi xưa đã chiếu.Năm 2012 vừa rồi ngày 08 tháng 9, người ta đã kỷ niệm 46 năm của bộ phim Star trek, sự kiện này Google đã đưa lên mạng.




Star Trek  một loạt phim truyền hình khoa học giả tưởng Mỹ được Gene Roddenberry viết nói về cuộc phiêu lưu của tàu vũ trụ USS Enterprise (NCC-1701) phi hành đoàn, do thuyền trưởng James T. Kirk (William Shatner), nhân viên Spock, người Vulcan (Leonard Nimoy), và nhân viên y tế bác sĩ Leonard McCoy (DeForestKelley) trong thế kỷ 23. Đó là thế kỷ mà trái đất của chúng ta đã tiếp xúc với các nền văn minh ngoài vũ trụ khi các công nghệ tiên tiến phát triển như tàu vũ trụ đi với tốc độ của ánh sáng, vận chuyển vật chất qua khoảng cách xa. Về sau đến season 2 có thêm cá diễn viên James Doohan trong vai trưởng cơ khí, George Takei trong vai nhà vật lý kiêm lái tàu, Uhura trong vai vô tuyến viên.
Star Trek khởi đầu bằng một câu quen thuộc là: “biên giới cuối cùngĐây là những chuyến đi của tàu vũ trụ USS EnterpriseNhiệm vụ năm năm của con tàu: Để khám phá thế giới mới lạđể tìm kiếm cuộc sống mới và nền văn minh mớimạnh dạnđi tới những nơi mà không có con người nào trước đó đã đi đến”
Bộ phim được sản xuất từ 1966-67 bởi Desilu Productions  truyền hìnhParamount từ 1968-69Star Trek phát sóng trên kênh NBC từ 08 Tháng 9 1966 đến ngày 03 Tháng Sáu năm 1969. Về sau được đặt tên là Star trek: The original series.
Sau này bộ phim này có các serie tiếp theo nhưng dàn diễn viên ban đầu đã được thay thế bằng các diễn viên khác.
Danh sách các bộ phim Star trek từ lúc khởi đầu năm 1964 đến season 3 là season cuối cùng năm 1969:

Pilots (1964–1965)

Season 1 (1966–1967)

Season 2 (1967–1968)
      
Season 3 (1968–1969)
      
Out of the series' 79 episodes, 29 aired on a Thursday, 49 aired on a Friday and "Turnabout Intruder" aired on a Tuesday.

Cái điều tôi thích ở bộ phim này là tính triết lý của nó. Bộ phim đề cập đến những vấn đề tư tưởng nhân loại, nó không như các bộ phim khoa học giả tưởng khác chỉ đề cập đến vấn đề chiến tranh giữa các nền văn minh trong vũ trụ chỉ mang tính thuần túy giải trí. Bộ phim đã mang đến tôi cái nhìn mới về vũ trụ, về tình nhân loại; đã mang đến cho tôi sự tưởng tượng về vũ trụ mênh mông, sự nhỏ bé của con người, về cái lớn lao trong cái thế giới nhỏ bé đầy tham vọng và thù hận của con người.
Thời đó như tôi đã đề cập trong bài câu chuyện truyền hình, ở Sài Gòn thời đó không phải nhà nào cũng có truyền hình. Muốn đi coi phải sang nhà khác, rồi không phải nhà nào cũng mở đài truyền hình Mỹ. Ở xóm tôi, may mắn tôi có anh bạn người Ấn Độ tên là Đin, ảnh cũng thích phim Mỹ lắm nên tôi thường xuyên có mặt để xem. Nhiều khi ảnh không có ở nhà, tôi sang nhà kế bên, cũng thích phim Mỹ nhưng phải ở ngoài hàng hiên nhiều khi mưa ướt cả lưng vẫn đứng xem cho hết bộ phim. Đến khi đài truyền hình AFVN và đài FM chấm dứt hoạt động, tôi cảm thấy thiếu vắng một cái gì quan trọng trong đời, không còn coi được những bộ phim hay, không còn nghe sắp hạng Top hit 30 mỗi chiều thứ bảy.                                        

Thứ Sáu, 27 tháng 2, 2015

XA LỘ BIÊN HÒA


                       Từ xa lộ Biên Hòa là theo cách gọi của người dân Sài Gòn thời trước 1975 cho một đoạn đường cửa ngõ của Sài Gòn từ miền đông và miền trung vào, chứ thực tế nó cũng không có tên nào chính thức. Tôi còn nhớ là tôi được ba tôi dẫn đi coi vào khoảng năm 1962 tức là một năm sau khi hoàn thành. Tôi cảm thấy choáng ngộp với hàng đèn cao áp sáng rực một màu trắng, cảm giác này cũng như bao người lúc đó vì các đèn đường thời đó đều là bóng 100W của hãng Lumen phát ra ánh sáng màu vàng. Bây giờ tên xa lộ Biên Hòa chỉ còn trong ký ức hay trên cửa miệng của những người lớn tuổi mà thôi thay vào đó là tên xa lộ Hà Nội được cải tạo mở rộng ra rất nhiều so với thời trước và một điều ít có ai tin được đối với người xa xứ là nó luôn kẹt xe với một con đường rộng như thế.
Xa lộ Biên Hòa khởi công vào tháng Bảy năm 1957 thời Đệ nhất Cộng hòa đến ngày 28 tháng Tư năm 1961 thì hoàn tất. Kinh phí xây cất do Hoa Kỳ viện trợ và công ty CEC thiết kế, thi công. Trên xa lộ này có hai cây cầu lớn bắc ngang là cầu Sài Gòn(dài 982 m) bắc qua sông Sài Gòn và cầu Đồng Nai (dài 453 m) bắc qua sông Đồng Nai. 
                   Xa lộ được bắt đầu từ ngã ba đường Nguyễn Bỉnh Khiêm và Điện Biên Phủ bây giờ (trước 1975 mang tên Phan Thanh Giản), lên cầu bắt qua rạch Thị Nghè, băng ngang đường Thiên Lý bắc xưa (Hùng Vương, sau 1975 đổi là Xô Viết Nghệ Tĩnh), Văn Thánh rồi qua sông Sài Gòn … đến Biên Hòa. Tổng cộng chiều dài khoảng 31.650 mét. là đường cao tốc dành cho ô tô, với các khúc quanh có bán kính cao (trên 600 mét), khoảng cách bố trí giao với các lộ khác đủ xa để ô tô có thể đạt tốc độ từ 70km/giờ (lúc mới khánh thành – 1961) đến hơn 120km/giờ (khi nâng câp – 1971). Xa lộ có bề rộng 3 làn chính và 2 làn phụ (kỹ thuật) cho mỗi bên. Đoạn từ cầu Rạch Chiếc trở ra, bắt đầu có đường song hành là đường gom, có tác dụng lưu thông nội bộ của các khu kỹ nghệ tập trung và dân cư, gom và đưa các phương tiện ra xa lộ tại các giao lộ MK, Bình Thái, Thủ Đức …
                   Trên đây là sơ lược về xa lộ Biên Hòa, trong phạm vi bài này tôi chỉ đề cập tới những chi tiết đáng lưu ý thôi vì con đường này rất dài không thể nhớ hết và cũng không đủ chổ để chuyển tải hết.
                      Nói là bắt đầu từ ngã ba đường Nguyễn Bỉnh Khiêm và Phan Thanh Giản (Điện Biên Phủ) cũng không đúng nữa mà phải tại ngả tư Đinh Tiên Hoàng - Phan Thanh Giản (Điện Biên Phủ) vì được đưa đi coi lần đầu đã thấy dàn đèn cao áp thắp sáng tới ngả tư này rồi. Ở bên trái cầu là đường ống bê tông ngầm dưới sông dẫn nước từ nhà máy nước Thủ Đức về, qua cầu cũng về phúa bên trái là đài giảm áp cho đường nước. Chúng ta thấy hai bên đường là khoạng trống an toàn mỗi bên cả trăm thước rồi mới tới nhà dân. bên phải đường trong khu nhà dân có một lạch nước mà hồi đó hầu như bọn con nít chúng tôi ở cả quận 1, quận 3 và vùng Gia Định đều biết và đến đó tắm. Đó là một lạch nước từ sông Thị Nghè vào nhưng đặc biệt là đoạn lạch phình ra thì lại không có bùn mà chỉ cát trắng ở đáy cho nên nước trong veo; đây là hiện tượng hiếm thấy. 
                   Đi khoảng phân nửa đoạn cầu Phan Thanh Giản và ngả tư Hàng Xanh có một trạm kiểm soát của cảnh sát, qua trạm này tới gần ngả tư Hàng Xanh phía bên trái có patin Lướt Gió đây là khu vui trượt patin đầu tiên của Sài Gòn - Gia Định xuất hiện cùng thời gian với phong trào Hippy và tới chút là trại gà Thanh Tâm đây cũng là trại gà công nghiệp đầu tiên của Gia Định.



                      Đường Đinh Tiên Hoàng nhìn về hướng cầu Phan Thanh Giản



                            Ngã ba đường Nguyễn Bỉnh Khiêm và Phan Thanh Giản



                                                    Cầu Phan Thanh Giản



                                    Sông Thị Nghè đầu cầu Phan Thanh Giản



                                 Cầu Phan Thanh Giản nhìn về phía cầu Sắt Đa Kao






                                            Đài giảm áp nhà máy nước Thủ Đức



                                    Từ hướng xa lộ nhìn về cầu Phan Thanh Giản





xa cảng xa lộ nằm giữa cầu Phan Thanh Giản và ngả tư Hàng Xanh

                      Giờ là ngả tư Hàng Xanh, đây là ngả tư có hệ thống đèn giao thông phức tạp nhất thời bấy giờ. Nếu rẽ trái chúng ta đi vào trung tâm tỉnh Gia Định thới bấy giờ, còn rẽ phải chúng ta tới giáo xứ Nguyễn Duy Khang rồi vào trung tâm Sài Gòn. Góc ngả tư bên phải ta thấy chùa Phước Viên.















Chùa Phước Viên.




Cầu Văn Thánh

                       Bỏ qua cầu Văn Thánh chúng ta tới cầu Sài Gòn, đây là cây cầu quan trọng nhất của xa lộ Biên Hòa. Cầu được công ty Johnson Drake and Piper thi công từ tháng 11 năm 1958 đến ngày 28 tháng 6 năm 1961 thì hoàn thành. Cầu dài 986,12 m, gồm 32 nhịp, trong đó có 3 nhịp với chiều dài 267,45m. bên phải dưới chân cầu là Tân cảng. Đây là cảng hàng hóa do Mỹ xây dựng và khánh thành vào ngày 10 tháng 7 năm 1967 do hảng RMK - BRJ đảm nhiệm. Cảng thời đó là nơi vận chuyển khí tài của quân đội Mỹ.



Cầu Sài Gòn



Tân cảng



Gen. Hollis & Admiral Smith trong buổi lễ khánh thành Tân Cảng (New Port)


New Port bridge .








Tem thư ngày phát hành đầu tiên:




                                Đoạn video về khởi công xây dựng xa lộ Biên Hòa




Sau đây chúng ta xem đoạn video về trận chiến bảo vệ cầu Sài Gòn vào ngày 28/4/1975 và cũng là trận chiến cuối cùng.

              Trận chiến tại Cầu Tân Cảng ngày 28-4-1975




             Nhân dịp này chúng ta đọc bài "Tản mạn về xa lộ Biên Hòa" từ nguồn "http://minhduc7.blogspot.com/2012/05/xa-lo-bien-hoa-co-phai-la-phi-ao-cho.html" viết về xa lộ Biên Hòa để chúng ta được biết thêm một số thông tin.



Tản mạn về xa lộ Biên Hòa

Xa lộ Biên Hòa, ngày nay gọi là xa lộ Hà Nội, cho đến ngày nay vẫn còn có người cho rằng Mỹ đã làm xa lộ này để làm phi đạo cho máy bay đáp xuống trong trường hợp phi trường Tân Sơn Nhất bị quân đội Cộng Sản tấn công làm hư hỏng. Chuyện này thật hư ra sao? Xa lộ Biên Hòa có chiều dài 30 km chạy từ Sài Gòn lên đến Biên Hòa vì thế mà được gọi là xa lộ Biên Hòa. Xa lộ này được khởi công từ 1959 đến 1961 thì hoàn thành. Sự ra đời của xa lộ Biên Hòa gây ra nhiều bàn tán thời đó. Có nhiều điều mới lạ về xa lộ này khiến cho mọi người bàn tán. Điều thứ nhất là xa lộ làm rất phẳng phiu. Từ trước đến nay người dân miền Nam chưa bao giờ nhìn thấy con đường nào rộng và phẳng phiu như thế. Những người đầu đầu tiên chạy xe trên xa lộ Biên Hòa về kể lại xe chạy êm như ru, khiến cho người nghe náo nức muốn đi thử cho biết. Đó là vì xa lộ này được làm theo kỹ thuật mới. Xa lộ được trải nhựa bằng máy làm đường kiểu mới. Khác với cách làm đường kiểu cũ thời Pháp là đổ đá răm trên mặt đường rồi xe chở nhựa đường đổ nhựa đường xuống từng chỗ, sau đó, xe hủ lô cán cho đều ra. Vì đổ nhựa từng chỗ một nên mặt đường không thể nào bằng phẳng bằng mặt đường đổ bằng máy có chiều ngang rộng và đổ nhựa cùng một lúc. Điều thứ hai là lần đầu tiên dân miền Nam nhìn thấy đèn cao áp thủy ngân được gắn trên xa lộ Biên Hòa. Ban đêm chạy xe đèn chiếu sáng trưng nhìn rõ con đường chứ không tù mù như những ngọn đèn vàng trong thành phố gắn từ thời Pháp. Lại thêm không có ai bật đèn mà cứ chiều tối chạng vạng là đèn tự động bật lên. Có người hiểu biết giải thích rằng đó là vì các ngọn đèn có gắn bộ cảm ứng với ánh sáng. Khi ánh sáng xuống thấp đến một mức nào đó thì bộ cảm ứng ra lệnh cho đèn bật lên. Khi trời bắt đầu sáng thì đèn tự động tắt đi. Điều thứ ba là trên xa lộ này có một cầu thật dài. Chiều dài của cầu gần một kilometre 986,12 m. Chiếc cầu này được làm với kỹ thuật mới nên khác với các cầu bằng sắt, lót ván của thời đó mà mỗi khi xe đi qua phải đi chậm vì cầu hẹp và kêu lọc cọc. Với chiếc cầu mới mặt cầu cũng đổ bê tông như mặt xa lộ và xe chạy qua không phải giảm tốc độ. Trên mặt cầu, cách quãng lại có khoảng nối với đầu nối bằng sắt để khi khí hậu thay đổi thì các khoảng bê tông dãn nở và thu lại không làm cho nứt cầu. Nếu ai muốn biết một kilometre dài như thế nào thì nhìn vào cầu này.
Điều làm cho nhiều người thắc mắc nhất là tại sao lại làm con đường rộng như thế, dài như thế chạy ngang qua những khu hai bên toàn là ruộng lúa, không có bao nhiêu người ở rồi đến Biên Hòa thì đột ngột dừng lại. Để giải đáp thắc mắc đó có người đưa ra câu trả lời là Mỹ làm con đường rộng rãi phẳng phiu như thế để cho phi cơ đáp xuống, phòng khi phi trường Tân Sơn Nhất bị quân đội Cộng Sản phá hủy. Từ đó họ suy ra rằng Mỹ làm đường xa lộ Biên Hòa để phục vụ cho quân sự là Mỹ có ý chiếm đóng lâu dài tại miền Nam. Nhưng có người đã từng đi học ở bên Pháp thì giải thích rằng đây là con đường xa lộ để nối liền khu dân cư tại Sài Gòn và khu kỹ nghệ, hay là khu công nghiệp, tại Biên Hòa. Họ kể ở bên Pháp, khu công nghiệp và khu dân cư lúc đầu được qui hoạch cách xa nhau và nối với nhau bằng xa lộ. Với thời gian, thì người dân xây nhà cửa san sát hai bên xa lộ khiến cho hai khu vực biến thành một thành phố chung.
Theo kế hoạch thì chính phủ Việt Nam Cộng Hòa sẽ thành lập khu công nghiệp tại vùng Biên Hòa. Còn vùng Sài Gòn là trung tâm thương mại và khu dân cư sẽ tiêu thụ hàng hóa sản xuất từ khu công nghiệp Biên Hòa đồng thời những người sống tại Sài Gòn đi làm tại khu công nghiệp Biên Hòa sẽ có con đường cao tốc đi lại cho nhanh. Dự định đó ngày nay nhìn đã thấy rõ là nhiều người sống tại Sài Gòn đi làm tại khu công nghiệp Đồng Nai đã di chuyển trên xa lộ Hà Nội mỗi ngày và nhà cửa hai bên xa lộ Hà Nội ngày càng xây san sát. Theo cách thức phát triển mới thì làm hạ tầng cơ sở như đường xá, cầu cống trước rồi sau đó các nhà máy, hãng xưởng mới mở ra. Vì thế mà lúc đầu chỉ làm xa lộ thôi, còn các hãng xưởng sẽ được xây dựng tại khu công nghiệp Biên Hòa khi các chủ hãng thấy có đường xá lưu thông thuận lợi. Đến năm 1975 xa lộ Biên Hòa đang làm đúng chức năng mà những nhà qui hoạch trước đó đã dự định. Có nhiều hãng xưởng mở ở khu công nghiệp Biên Hòa. Hàng ngày, nhiều công nhân tại Sài Gòn đi làm tại khu công nghiệp Biên Hòa được xe buýt của công ty chở đi. Các công nhân tụ tập tại một số điểm ở Sài Gòn, xe buýt ghé đón và chở đi Biên Hòa . Chiều xe buýt lại chở công nhân về thả ở các điểm tụ tập. Như thế cùng một con đường, tùy theo kiến thức mà mỗi người nhìn nó với cặp mắt khác nhau.
Người không có kiến thức về cách thức phát triển của một quốc gia công nghiệp thì tưởng rằng Mỹ làm xa lộ Biên Hòa để chiếm đóng miền Nam lâu dài. Từ đó họ nhìn Mỹ như là kẻ xâm lăng và tìm cách đánh đuổi người Mỹ. Người có kiến thức về cách xây dựng một quốc gia công nghiệp thì xem người Mỹ là những người đang giúp cho miền Nam trở thành một nước công nghiệp hóa. Từ cách nhìn này, họ không xem Mỹ là kẻ thù mà xem Mỹ là người bạn giúp cho miền Nam phát triển mau chóng hơn. Người nhìn Mỹ như kẻ xâm lăng thì xem những người Việt Nam cộng tác với người Mỹ là những kẻ bán nước, đi tiếp tay với kẻ xâm lăng. Họ nào biết đâu những người Việt đó cũng nuôi mộng muốn miền Nam đuổi kịp Nhật và họ thấy Mỹ đã giúp Nhật và Tây Âu phục hồi nhanh chóng sau Thế Chiến Hai nên họ hy vọng rằng nhờ Mỹ mà miền Nam phát triển nhanh chóng hơn. Nếu nhìn vào thời điểm xa lộ Biên Hòa được xây dựng thì có thể thấy mục đích của xa lộ Biên Hòa không phải là để phục vụ cho chiến tranh. Xa lộ Biên Hòa được khởi công từ năm 1959. Vào thời điểm này, chính quyền Ngô Đình Diệm đã thành công trong việc tiêu diệt các cán bộ Cộng Sản được miền Bắc gài lại sau Hiệp Định Genève. Sau khi ký Hiệp Định Genève thì đáng lẽ ra các cán bộ Cộng Sản phải đi ra miền Bắc hết theo như Hiệp Định qui định. Nhưng đảng Cộng Sản Việt Nam đã ra lệnh một số lớn cán bộ không tập kết ra Bắc mà chôn dấu vũ khí, giả làm dân sống như bình thường. Khi chính quyền Ngô Đình Diệm từ chối Hiệp Thương với miền Bắc vào năm 1956 thì đảng Cộng Sản Việt Nam ra lệnh các cán bộ được gài lại lấy vũ khí ra, nổi dậy lật đổ chính quyền miền Nam. Đến năm 1958 thì việc nổi dậy thất bại. Lê Duẩn, là người chỉ huy lực lượng Cộng Sản tại miền Nam lúc đó, đã đi về Bắc qua ngả Căm Bốt để xin chỉ thị. Kết quả là đảng Cộng Sản Việt Nam ra nghị quyết dùng vũ lực giải phóng miền Nam vào năm 1960. Khi người Mỹ khởi công xây dựng xa lộ Biên Hòa vào năm 1959, là lúc các lực lượng Cộng Sản tại miền Nam bị tiêu diệt gần hết thì Mỹ đâu cần phải làm xa lộ để phục vụ cho quân sự. Trái lại, người Mỹ nghĩ rằng chính quyền Ngô Đình Diệm đã thành công trong việc đem lại ổn định tại miền Nam. Miền Nam đã có hòa bình rồi, thì đó là lúc bắt đầu bắt tay vào xây dựng kinh tế. Xa lộ Biên Hòa được làm là để làm hạ tầng cơ sở cho một nền kinh tế công nghiệp tại miền Nam. Khi đã có xa lộ và các cơ sở hạ tầng thì các công ty Mỹ và các nước khác sẽ đến miền Nam đầu tư, mở nhà máy. Các cố vấn quân sự Mỹ sẽ có thể rút về vì quân đội miền Nam đủ sức để giữ cho tình hình ổn định. Miền Nam có thể tự lực phát triển như Singapore, Mã Lai hay Thái Lan mà không cần Mỹ phải can thiệp vào. Không ngờ đến năm 1960, đảng Cộng Sản Việt Nam phát động chiến tranh để đánh chiếm miền Nam cho bằng được khiến cho Mỹ phải lún sâu vào quân sự tại miền Nam. Đến cuối thập niên 1960, đầu thập niên 1970 thì Xa Lộ Vòng Đai được xây dựng ở xung quanh Sài Gòn. Gọi là xa lộ vòng đai vì xa lộ này không nối liền hai thành phố mà chỉ chạy xung quanh thành phố Sài gòn. Xa Lộ Vòng Đai cũng được người dân gọi là xa lộ Đại Hàn vì xa lộ này do công binh của Nam Hàn xây dựng. Khi xa lộ này được hoàn thành thì có người lại cũng cho rằng xa lộ này để chuyển quân quanh Sài Gòn cho nhanh. Có người lại cho rằng Xa Lộ Vòng Đai làm để phòng thủ Sài Gòn chống lại sự tấn công của quân đội Cộng Sản từ phía Củ Chi và ngày nay vẫn có người nghĩ như thế. Còn những người từng đi Pháp, trước đây đã giải thích xa lộ Biên Hòa là để nối với khu công nghiệp thì không hiểu là Xa Lộ Vòng Đai này làm để làm gì vì chẳng nối với khu công nghiệp nào cả nên họ cũng thắc mắc. Có người lúc đó mới đi du học ở Mỹ về mới giải thích rằng đây là cách xây xa lộ vòng đai như các thành phố bên Mỹ. Ở bên Mỹ sau khi làm hệ thống xa lộ thì người ta thấy rằng các xa lộ đi xuyên qua thành phố sẽ có nhiều xe lưu thông làm kẹt xe. Nếu một người đi đường trường từ điểm này đến điểm kia phải đi qua nhiều thành phố mà mỗi lần đi xuyên qua thành phố thì lại bị kẹt xe sẽ làm cho tốc độ di chuyển chậm lại. Vì thế người Mỹ nghĩ ra cách làm xa lộ vòng đai để những ai đi đường xa, mỗi lần đi ngang qua một thành phố mà không có ý định dừng lại ở thành phố đó thì sẽ dùng xa lộ vòng đai để bỏ qua thành phố đó luôn thay vì phải dùng xa lộ đi xuyên qua thành phố, như thế sẽ tránh bị chậm lại một cách không cần thiết. Dĩ nhiên trong thời chiến thì Xa Lộ Vòng Đai sẽ giúp cho việc di chuyển của quân đội dễ dàng hơn vì không phải đi xuyên qua thành phố đông đúc, nhưng đến thời bình thì Xa Lộ Vòng Đai sẽ nằm trong toàn bộ hệ thống xa lộ nối liền các thành phố khi có nhiều xa lộ khác được tiếp tục làm thêm. Cùng là một con đường, mà với kiến thức khác nhau, người ta có thể gán cho con đường đó các mục đích khác nhau. Từ đó sinh ra các thái độ khác nhau với người làm ra con đường đó.


                          Qua bên kia chân cầu là vùng Thủ Đức, hồi đó từ cầu Văn Thánh trở đi khu vực này rất ít nhà cửa chỉ thấy toàn là bưng lác, dừa nước, hai bên đường còn trống trơn. Dân Sài Gòn nếu ai có thú câu cá đều qua vùng này chạy dài tới ngả ba Cát Lái - Giồng Ông Tố. Giờ đây đã lấp kín nhà cửa và các công trình khác biến một vùng hoang vắng ngày xưa thành nơi náo nhiệt ồn ào. 
                           Bên trái cầu chúng ta thấy đường rẽ vào hồ tắm Thảo Điền (tên cũ xa xưa là Thiên Nga), đi tiếp tới gần ngả ba Cát Lái là hồ tắm An Phú. Rất tiếc giờ không có tấm hình nào về hai hồ tắm này hết. Hồ tắm Thảo Điền là nơi họp mặt bạn bè Lê Quý Đôn các lớp 9, 10,11,12 sau 30/4/1975 và đây cũng là lần gặp gỡ cuối cùng của tôi với bạn bè Lê Quý Đôn.
                           Phía sau hồ tắm Thảo Điền là khu bán đảo Thanh Đa. Ngày xưa nơi này gọi là Lasan Mai Thôn độc đạo một con đường chạy dài theo bán đảo, hai bên là nhưng khu nhà nghỉ mát rất đẹp trong đó có nhà nghỉ mát của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Qua hồ tắm Thảo Điền và An Phú là khu làng báo chí. Làng báo chí là do công vận động của nhà văn nhà báo Hồ Anh Nguyễn Thanh Hoàng (Thanh Thương Hoàng) lập ra và lễ đặt viên đá đầu tiên ngày 3 tháng 2 năm 1971 với sự tham dự của phu nhân tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và phu nhân thủ tướng Trần Thiện Khiêm.
                                             (nguồn http://www.thanhthuonghoang.com/)



                      Nhà báo Hồ Anh Nguyễn Thanh Hoàng (Thanh Thương Hoàng)




                          Bây giờ đi tiếp chúng ta tới cầu Rạch Chiếc với nhà máy xi măng Hà Tiên I nằm bên tay trái.



                                                           Cầu Rạch Chiếc




                                                        Bãi rác cầu Rạch Chiếc

       






                                                                                                  (Còn tiếp)

  Tết Sài Gòn trăm năm trước ra sao?   Biết những gì xảy ra trong quá khứ xa xưa dường như là mơ ước muôn đời của con người. Bởi trong c...