Thứ Tư, 16 tháng 3, 2022

 

Những nhà sách xưa

 

Nhà sách ở Sài Gòn cách nay hơn nửa thế kỷ tập trung nhiều ở khu trung tâm Sài Gòn. Ở các vùng ngoại vi như Phú Nhuận, Ông Tạ, Bà Chiểu... cư dân cũ kể rằng ban đầu không có mấy nhà sách, trừ vài tiệm bán sách giáo khoa cùng đồ văn phòng.

“Tây in sách, Việt Nam chứa sách, Tàu phổ biến sách”, có câu nói trong giới viết lách thời xưa, mà nhà văn Thế Phong nhắc lại trong cuốn "Nhà văn tác phẩm cuộc đời" (NXB Đại Ngã, 1970).

Câu này ắt được nói đến từ thời Pháp thuộc, khi công nghệ in ấn ban đầu trong tay người Pháp. Các nhà xuất bản người Việt in sách xong đưa vào kho nhưng phát hành ra công chúng phải theo hệ thống của người Hoa trong Chợ Lớn, có mạng lưới buôn bán rộng khắp và giỏi kinh doanh.

Ở câu chuyện này, khi bán sách in ronéo cho một ông chủ nhà thầu sách người Hoa, nhà văn Thế Phong nhận xét: “Ông này rất khôn ngoan, biết sách hay. Những cuốn như "Nhà văn hậu chiến" hay "Nhà văn tiền chiến" ông bán rất đắt. Cuốn sách ba chục, ông bán gấp đôi. Ông còn bán sách Tây hiếm với giá rất cao”.


Nhà sách Tinh Hoa trên đường Trần Hưng Đạo, quận 1, của nhạc sĩ Lê Mộng Bảo. Tư liệu gia đình của HS. Lê Mộng Lâm


Chuyện người Hoa Chợ Lớn bán sách tiếng Việt còn được được nhắc lại trong cuốn sách khá thú vị của nhà văn Nguyễn Công Hoan, hồi ký "Nhớ và ghi về Hà Nội". Thời Pháp thuộc, ông Vũ Đình Long, chủ nhà xuất bản Tân Dân thường xuyên gửi sách của nhà xuất bản vô Nam để bán, và bán rất chạy. Ông Hoan kể, một lần vào Nam, buổi sáng ông đến nhà Đỗ Phương Quế là tổng đại lý sách Bắc ở Chợ Lớn để xem bán sách.

Ở đó, ông thấy một người vào nhà sách hỏi hôm nay có sách ngoài Bắc vào chưa? Chủ hiệu đáp có. Khách bảo chủ tiệm bán. Chủ tiệm lấy tất cả các sách mới nhận được, gói vào một gói rồi đưa khách. Khách hỏi giá rồi xỉa tiền ra trả, không cần biết trong gói có những sách gì tác giả nào. Nguyễn Công Hoan than: “Thấy kiểu mua sách ấy, mình ngán quá!”.

Đọc đoạn văn này, ta thông cảm với sự nhạy cảm của nhà văn, nhưng mặt khác có thể nghĩ rằng người mua sách có thể là một đại lý con của tổng đại lý bán sách từ Bắc vào, họ mua về để tiếp tục bán lẻ cho khách chuộng sách của các nhà văn miền Bắc nên không nhất thiết phải xem sách trước. Hoặc có khi khách chỉ là người đi giao nhận cho chủ tiệm sách nào đó ở Sài Gòn.

Nhà sách Đỗ Phương Quế không chỉ bán mà còn xuất bản sách, có những cuốn có giá trị như cuốn "Việt Nam Tây thuộc sử" của Đào Trinh Nhất (xuất bản 1937 ở Chợ Lớn), "Nỗi lòng Đồ Chiểu" của Phan Văn Hùm (xuất bản 1938) và "Biện chứng pháp phổ thông" cũng của Phan Văn Hùm.

Nguyễn Công Hoan kể sau đó nhà sách này và ông Vũ Đình Long có mâu thuẫn với nhau: “Nhà này (Đỗ Phương Quế), trước thì rất sòng phẳng, nhưng sau, thì mỗi số Tiểu thuyết thứ bảy, dù bán hết, cũng nói là chưa bán hết, còn đọng một ít. Nhà xuất bản không muốn lấy báo ế vì sợ tốn tiền đài tải. Và những số báo ế, cứ gửi ở đại lý, có khi dần dần vẫn bán được.

Nhà Đỗ Phương Quế cho là nhà Tân Dân ở xa, không thể kiểm soát được, nên làm lối ấy mấy năm trời, để được món tiền khá lớn.

Nhưng đến khi nhà Tân Dân biết, nên không cho Đỗ Phương Quế làm tổng phát hành nữa. Người anh em rể của Vũ Đình Long là Nguyễn Khắc Đàm mới vào Sài Gòn, mở hiệu bán sách, làm tổng phát hành cho nhà xuất bản Tân Dân”.

Câu chuyện nhận sách bán, khai thấp hơn số lượng bán ra để trả tiền ít hơn, chiếm dụng vốn cho đến giờ vẫn còn tồn tại.

Trong cuốn "Sài Gòn, chuyện đời của phố" tập 1, được sự giúp đỡ của gia đình ông Nguyễn Khánh Đàm ở Hà Nội, tôi có bài viết về nhà sách của ông trên đường Sabourain (Lưu Văn Lang ngày nay) ở trung tâm thành phố. Nhà sách chỉ tồn tại trong sáu năm (1939-1945), nhưng có ý nghĩa trong đời sống văn hóa Sài Gòn cho đến giờ vì góp phần quan trọng giúp độc giả miền Nam đọc được văn chương miền Bắc xa xôi đang phát triển mạnh.

Nhà sách đã tổ chức cuộc triển lãm Báo chí Việt Nam lần đầu tiên vào năm 1943, giúp người đọc cả nước biết đến nền báo chí non trẻ của nước Việt. Ở thời đó, nhà sách đã được trưng bày rất hiện đại, chuyên nghiệp, có nhiều tủ kệ ngăn nắp và có tủ kính đặt giữa nhà sách bày những ấn phẩm đặc biệt.

Năm 1944, ông Nguyễn Khánh Đàm lên Đà Lạt mở thêm hiệu sách thứ hai. Nhà sách Nguyễn Khánh Đàm ở Sài Gòn tồn tại đến năm 1945 thì ngưng hoạt động và có lẽ nhà sách trên Đà Lạt cũng chịu chung số phận.

Cùng khoảng thời gian này, có tiệm sách Thanh Thanh khá có tiếng ở số 120 de la Somme (Hàm Nghi), cũng chuyên bày bán các loại sách từ miền Trung và miền Bắc đưa vào, thiên về sách học thuật bên cạnh các tiểu thuyết.



Quảng cáo nhà sách Vĩnh Bảo. Tư liệu: PCL


Trên báo Tân Văn ra năm 1935, tiệm quảng cáo: “Không hề lên giá như các hàng sách khác mà lại lựa ròng những sách quốc văn có giá trị để cống hiến cho các bạn thanh niên muốn khảo cứu và luyện tập quốc văn”. Ở đây có bán các cuốn sách có giá trị như Hán Việt thành ngữ (Dictionnaire Sino Annamite) của Bửu Cân, Hán Việt tự điển của Đào Duy Anh với mỗi từ vựng hay giải thích trong các cuốn tự điển này đều có chú thích Pháp văn, giá 3,2 đ.

Ngoài ra là các cuốn khác như Chữ Tàu tiếng Nam, Diễm Dương Trang, Hồng Lâu Mộng, Cậu Tám Lọ, Mảnh trăng thu, Một đêm trước, Thế giới sử, Văn đàn bảo giám bộ 3 cuốn, Kép Tư Bền, Nữ lưu văn học sử, Sào Nam văn tập... Tiệm sách này cũng có bán sách của nhóm Tự Lực Văn đoàn, sách thuốc của Nhựt Nam thư quán, Nam Ký, Đông Tây…

Sau 1954, khắp Sài Gòn rộ lên các nhà sách cho dù các dãy sạp bán sách cũ giá rẻ vẫn tồn tại song song phía bên lề đường Lê Lợi gần nhà thương Sài Gòn. Nhà sách Khai Trí lớn nhất, còn có nhiều nhà sách khác như nhà sách Khai Tâm bán sách báo và dụng cụ văn phòng số 123 Tự Do, nhà sách Lê Phan số 41 Phạm Ngũ Lão, nhà sách Phương Anh số 303 Hai Bà Trưng, nhà sách Sài Gòn số 28A Lê Lợi, nhà sách Thanh Tuân số 56, nhà sách Văn Hữu 28C, nhà sách Liên Châu số 3 Công trường Hòa Bình (chủ yếu bán sách giáo khoa cho các trường dạy theo chương trình Pháp), nhà sách Vĩnh Bảo 66 ter (trước ở 46 bis Gia Long), nhà sách Xuân Thu 185 -193B Tự Do, Yiễm Yiễm thư trang số 113-115 Nguyễn Thái Học, nhà sách Tự Lực 92, nhà sách Tinh Hoa số 51 Trần Hưng Đạo.



Quảng cáo Yiễm Yiễm thư trang của nhà thơ Đông Hồ. Tư liệu: PCL


Còn trong Chợ Lớn có nhà sách Hồng Dân của ông Lê Ngọc Anh số 254 Khổng Tử (Hải Thượng Lãn Ông), nhà sách Sy-tai của ông Dương Kỳ Phước số 162 Phùng Hưng, nhà sách Mỹ Khoan 17 Trần Điện.

Nhà sách ở Sài Gòn cách nay hơn nửa thế kỷ tập trung nhiều ở khu trung tâm Sài Gòn. Ở các vùng ngoại vi như Phú Nhuận, Ông Tạ, Bà Chiểu... cư dân cũ kể rằng ban đầu không có mấy nhà sách, trừ vài tiệm bán sách giáo khoa cùng đồ văn phòng.

Cho đến cuối thập niên 1960, đầu thập niên 1970, phong trào mở tiệm thuê sách nở rộ ở nhiều khu vực, phù hợp sở thích của dân đọc sách đa số không có nhiều tiền mua sách. Một số nhà sách vẫn duy trì bán sách, nhất là sách giáo khoa và sách vở bút mực nhưng đặt thêm những kệ sách cho thuê. Dần dà, các tiệm bán sách ít đi, nhường chỗ cho sự thịnh hành của các tiệm cho thuê mướn sách về đọc.

                                                                  Phạm Công Luận

(Trích sách “Sài Gòn ngoảnh lại trăm năm”. Công ty Phan book xuất bản 2021)


Nguồn: https://nguoidothi.net.vn/nhung-nha-sach-xua-33863.html


Thứ Ba, 1 tháng 3, 2022

Chợ Bến Thành được xây dựng vào thời thuộc địa với cái tên là Marché cen tral (chợ trung tâm) nhưng vì sao nó lại mang cái tên Việt Nam là Bến Thanh. Đó là vì chợ mới này được di dời từ khu chợ cũ có tên là Bến Thành bên kinh Charner (đại lộ Charner/Nguyễn Huệ về sau). Từ khi thành lập tới nay, chợ Bến Thành trải qua biết bao biến động mà biến động đáng nhớ là vào tháng 9 năm 1945 và năm 1950. Các bạn truy cập vào đường link dưới đây để xam video về cảnh chợ Bến Thành bị đốt phá. Trang web này không cho tải video.

https://imagesdefense.gouv.fr/fr/emeute-a-saigon.html

 

Chợ Bến Thành thời tao loạn

  

Được xây dựng từ 1912, đến nay ngôi chợ Bến Thành đã trải qua 110 năm tồn tại và phục vụ cho bao lớp cư dân Sài Gòn và các tỉnh đến buôn bán, mua sắm, ăn uống… và cũng có những lúc thăng trầm.

Ba của tôi làm nhân viên tiệm buôn Kim Phát ở số 301-303 cửa Tây chợ Sài Gòn (tên gọi phổ biến của chợ Bến Thành lúc đó) từ năm 1953 đến năm 1978 mới nghỉ. Ông thường kể về không khí chợ suốt thời gian ông làm việc ở đó, với sự linh hoạt buôn bán của người Hoa ở các tiệm lớn và sự đon đả của các bà các cô buôn bán các sạp trong chợ. Ông chứng kiến không khí làm ăn ở chợ khá thịnh vượng suốt phần tư thế kỷ.

Những ngày Tết là khoảng thời gian vui nhất. Sau buổi bán chiều, chỉ cần đi rảo một vòng là thấy có không khí Tết vì người mua kẻ sắm rần rần. Quanh quẩn ở đó thôi vẫn có thể tìm mua được nhiều món đặc sản loại ngon nhất miền Nam để nhâm nhi ngày Tết như khô cá thiều Phú Quốc, khô cá nhái Cao Lãnh, trái hồng khô ép hay rượu Ngũ gia bì nhập từ Hồng Kông mà không cần vô Chợ Lớn.

Không có chợ nào có không khí Tết vui như chợ Bến Thành, ngôi chợ lớn nhất miền Nam.  


 

Bác Nguyễn Cương Phú, đang sống ở nước Úc hứng thú khi đọc bài viết của tôi về thời gian ba tôi làm việc trong ngôi chợ nổi tiếng này. Bác kể thêm vài câu chuyện không còn mấy ai biết về ngôi chợ này hồi thập niên 1940, khi bác chỉ gần mười tuổi. Đầu thập niên đó, mẹ của bác Phú có một tiệm bán giày guốc dép lớn ở ngay cửa Đông (nhìn ra đường Phan Bội Châu hiện nay). Cả gia đình sống rất khá giả nhờ tiệm này khi có tới tám người giúp việc. Đó là cơ ngơi đáng kể của bà từ khi rời miền Bắc vào Nam thập niên 1930.

Bác Phú nhớ lại cấu trúc của chợ: chung quanh là các cửa hàng bán quần áo, giày dép, đồng hồ đeo tay và trang trí, các loại sản phẩm bằng da. Phía cửa Bắc (nhìn ra đường Espagne tức Lê Thánh Tôn ngày nay), ngoài vỉa hè là dãy bán trái cây tươi, xanh. Các loại trái cây trong và ngoài nước đều được bày bán suốt dọc lề đường thuộc khuôn viên chợ như lê, táo, nho tươi, chuối, mãng cầu v.v..

Các tiểu thương ngồi trong phần gian hàng của mình rất nhỏ, gọn. Có một nhà vệ sinh công cộng khá lớn ở đường này có phân chia nam nữ hai bên, có dùng tay nắm giật nước (thời đó rất ít nhà có), rất tiện cho khách đi chợ và người bán trong chợ. Kéo dài từ đường Espagne qua khỏi ngã tư giáp đường Schroeder (nay là Phan Chu Trinh) là những xe của người Hoa bán hủ tíu mì, đồ ăn nhẹ và cơm trưa cho khách vãng lai và tiểu thương, tối thì bán đủ thứ chè ngọt.

 



 

Trong chợ gọi là “nhà lồng”, được chia thành từng khu: khu bán cá khá rộng có sàn cao hơn mặt bằng hai ba tấc, có phông tên nước để bơm cho cá sống bơi lội trong bồn và tẩy rửa khi làm cá cho khách hàng. Những chậu để “rộng” cá hình tròn, cao hai tấc hay hai tấc rưỡi, đường kính tới hơn cả mét. Có khu bán thịt heo, bò. Khu bán hàng rau còn gọi là khu bán đồ rau củ quả. Khu bán hàng xén có rổ rá, nồi, mẹt và đồ thủ công.

Việc buôn bán ở chợ Bến Thành vẫn ổn định cả khi quân đội Nhật vô Việt Nam. Gian hàng bán giày dép của gia đình bác Phú vẫn có khách Tây và khách Nhật đến mua bán, mà khách Nhật chủ yếu là những người lính. Rồi người Nhật lật đổ Pháp, sau đó phi cơ Đồng minh tấn công quân Nhật. Chính quyền thành phố Sài Gòn hướng dẫn người dân tập luyện cách di tản để tránh bom đạn, biết cách đến những khu có sẵn hầm trú bom. Lúc đó có những lần báo động cả ngày và đêm.

Đến một đêm phi cơ Đồng minh bay vô thành phố và thả xuống ba trái bom gần Xã Tây. Dân chúng Sài Gòn phần lớn tản cư ra khỏi thành phố.



Chợ Bến Thành tạm đóng cửa, ngưng buôn bán khi các sự kiện đó dồn dập tới. Các tiểu thương trong chợ được thông báo phải di chuyển hết hàng hóa của mình ra khỏi chợ trong vòng 24 giờ để tổ chức kháng chiến đốt chợ theo chủ trương “Tiêu thổ kháng chiến”. Chợ bị phóng hỏa, một số chỗ phía ngoài bị cháy. Bên trong nhà lồng cũng xơ xác. 

Khi Pháp trở lại chiếm đóng Sài Gòn, chính quyền yêu cầu các chủ gian hàng tùy theo diện tích mà đóng góp để phục hồi chợ. Trong khi chuẩn bị tiến hành phục dựng, chợ hoàn toàn đóng cửa. Các tiểu thương xin phép dựng các lều trại quanh chợ để buôn bán.

Trước đây, khi chợ hoạt động bình thường, hai bên hông chợ là hai bến xe đò chạy tuyến miền Đông và miền Tây trên đường Schroeder và Viennot (Phan Bội Châu). Lúc trùng tu lại chợ, hai bên đường được ngăn lại một phần để tiểu thương buôn bán, một phần đường vẫn là bến xe cho đến khi chợ được xây dựng lại. Những ai góp vốn thì được nhận lại diện tích gian hàng của mình để tiếp tục kinh doanh, ai không có khả năng đóng góp thì phần diện tích đó được đem đấu giá cho chủ mới.

Gia đình bác Phú vì không chạy kịp khiến gian hàng bị đốt cháy hết hàng hóa nên không có tiền đóng góp, coi như mất sạch tài sản. Mẹ bác Phú dựng lên một sạp nhỏ ngay giữa đường Schroeder trước mặt tiệm vàng Nguyễn Thế Tài để bán guốc cho đến khi giải tỏa con đường.

 



Chợ Bến Thành (ảnh từ trên xuống) do Eli Lotar (1905 - 1969) chụp năm 1938. Nguồn: manhhai flickr.


Bác Phú nhớ lại lúc ấy là con nít, thích chạy chơi từ sạp guốc của mẹ ra bến xe đò đế ngắm các bạn hàng và lơ xe khiêng hàng hóa lên mui. Do  chiến tranh, hầu hết xe hơi đều chuyển sang chạy bằng than. Các bác lơ đốt than từ sáng sớm, đợi khách đầy xe, hàng hóa đầy mui thì xe mới lăn bánh. Hồi đó dân tình còn chất phác, không có chuyện lơ xe níu kéo khách, tranh giành nhau như sau này.

Các xe xếp hàng thứ tự từng chiếc, đợi đủ khách thì khởi hành. Nói là xe chạy bằng than, chứ thực ra lúc đầu còn có than để chạy, về sau không còn than thì xe chạy bằng... củi đòn (vì chỉ củi đòn mới có nhiều than và lâu tàn). Nhờ câu chuyện này, bác Phú biết chắc là từ thập niên 1940 đã có xe chạy bằng than, do tình trạng chiến tranh mà nghĩ ra, chứ không phải xe than xuất hiện từ thời bao cấp thập niên 1980.

Mẹ của bác Phú, từ bà chủ một cơ ngơi bề thế ở ngôi chợ lớn nhất miền Nam đã lụi tàn dần tài sản vì chiến tranh. Cuối cùng, bà rời ngôi chợ thân yêu để trở về chợ Xã Tài (chợ Phú Nhuận ngày nay) mở một tiệm cơm bình dân bán cho giới phu phen và người nghèo. Chợ Bến Thành của những năm thịnh vượng đầu thập niên 1940 với bà kết thúc từ đó. 

                                                                      Phạm Công Luận

 

Nguồn: https://nguoidothi.net.vn/cho-ben-thanh-thoi-tao-loan-33093.html


  Tết Sài Gòn trăm năm trước ra sao?   Biết những gì xảy ra trong quá khứ xa xưa dường như là mơ ước muôn đời của con người. Bởi trong c...