Thứ Hai, 27 tháng 6, 2016

VỀ NGÔI TRƯỜNG XƯA NHẤT SÀI GÒN

Collège d'Adran

École Normale d' Instituteurs


         Nói về trường Adran thì ngày nay ít có ai hình dung vị trí của nó nằm ở đâu trong Sài Gòn. Thật vậy từ khi ngôi trường chấm dứt hoạt động thì đã có tới 4 công trình hiện diện trên khu đất đó tính từ cuối thế kỷ 19 cho đến thế kỷ 20. Cho nên mọi vết tích của nó giờ này không còn kể cả hình ảnh dù chỉ là một bức họa.


Trường Adran trong bản đồ năm 1867


Trường Adran trong bản đồ năm 1890

         Trường Adran nằm ở số 7 (có tài liệu ghi là số 3) trên đường Tây Ninh về sau là Armand Rousseau rồi Dr Angier và cuối cùng Nguyễn Bĩnh Khiêm, ngó sang khu đất  mà đến năm 1864 thảo cầm viên Sài Gòn mới được xây dựng. Trường được xây dựng theo quyết định của Đô đốc V. Chamer (1797-1869) ký vào ngày 21 tháng 9 năm 1861 có tài liệu ghi là ngày 8 tháng 5 năm 1861 và được đặt tên theo chức của Giám mục Bá Đa Lộc, tên thật là Pigneau de Behaine, Giám mục hiệu tòa Adran (évêque d'Adran) và do các linh mục Hội Thừa sai quản lý. 
         Khoảng cuối năm 1865 có sáu sư huynh dòng La San (một dòng tu Công Giáo với mục đích giáo dục cho trẻ em nghèo) rời Toulon, Pháp sang Việt Nam. Khi đến Sài Gòn vào đầu năm 1866 các sư huynh tham gia quản giáo trường Trung học Adran. 
         Trường dạy bậc trung học và kết thúc bằng bằng Thành Chung. Trường đi đầu trong việc dạy chính là chữ quốc ngữ và tiếng Pháp coi như là một ngoại ngữ. Mọi chi phí của trường đều do Hội Thừa sai đảm trách. Về sau chính quyền thuộc địa tài trợ kinh phí và học bổng cho trường.
         Đến nâm 1879 thì chính quyền thuộc địa ngưng tài trợ vì vậy trường phải đóng cửa vào năm 1887 sau hơn 20 năm hoạt động. Số học sinh đang học trường này được chuyển qua trường Lasan Taberd vừa mới thành lập.


        Năm 1910, trường này trở thành trường Des filles Françaises, Năm 1922 đổi thành trường Normale d’instituteurs, chuyên đào tạo thầy cô giáo bậc sơ học và tiểu học.
Lớn bằng mười tỉnh của nước Pháp, Nam kỳ chỉ có mổi một École Normale d’Instituteurs. Trường này cân đối về mọi mặt so với các trường khác trong thành phố. Nó chứa không phải hàng chục mà hàng trăm học sinh và giáo sư. Thử nhìn vào hội trường lớn vào ngày khai giảng, mới thấy được tầm quan trọng của chỉ tiêu học sinh trong mỗi năm học (như tháng năm năm 1930 có 420 thầy và trò và tháng chín tăng lên 441.
École Normale nẳm ở khu vực sát đối diện thảo cầm viên rộng và đẹp vừa hoàn thành ờ hai bờ của rạch Avalanche cách 750 mét tại chổ hợp lưu với sông Sài Gòn (là chổ mà xưa kia là Collège d’Adran). Trường có diện tích là một hecta rưỡi. Mặt tiền bị che khuất bởi những tán cây rậm rạp và cao hơn hẳn những cây sồi ở Pháp. Ba tòa nhà được bố trí trên nền bằng sắt vành móng ngựa. Phía đối diện là tòa nhà trong đó có phòng ban giám hiệu, những thư viện và phòng thí nghiệm, hội trường lớn và phòng hội họa; hai phần phụ thẳng góc với tòa nhà chính là tầng trệt gồm nhiều lớp học, phòng trú ần và nhà bếp. Hai tầng trên nằm trong ba tòa nhà dùng làm phòng ngủ, phòng tắm, trạm xá và phòng cho các giám thị.
Tuyển sinh từ các bằng tiểu học trong các tỉnh của Nam kỳ (từ 7 đến 800 thí sinh mỗi năm cho 100 chổ có sẳn), những giao sinh ở Sài Gòn có độ tuổi từ 15 đến 20. Họ đã sẳn sàng cho chế độ thực tập. Họ học rất siêng năng (30 giờ trên lớp mổi tuần) nhưng rất thích thú. Dậy sáng lúc 5 giờ rưỡi, ăn trưa lúc 13 giờ 15 và đi ngủ lúc 9 giờ rưỡi. Bàn ăn của họ phục vụ dồi dào. Trường có một máy chiếu phim, nhiều máy phóng ảnh cố định và hai sân tennis. Những giáo sinh được phép mượn vào mổi giờ học những nhạc cụ, họ tổ chức liên tục các buổi trình diễn sân khấu. Được đài thọ tất cà, họ không phải trả một khoản chi phí nào; họ được nhận vào mùa tựu trường của năm thứ ba một bộ y phục (ba bộ quần áo: bộ pyjama bằng vải calicot trắng, hai bộ dồ châu Âu bằng vải toile trắng với phì hiệu). Ngoài ra chính quyền còn trang bị cho họ tất cà sách và dụng cụ học hành.Những giáo sinh được về phép hai lần một năm là dịp tết và kỳ nghỉ hè.
Những giáo sinh trải qua bốn năm tại trường. Sự giáo dục tổng quát này mà họ nhận được từ sự chuẩn bị một cách chuyên nghiệp ở hai mặt lý thuyết và thực hành. Các giáo sinh nhận đã sự đào tạo đều đặn từ trường tiểu học thực hành thành lập chung với cơ sở (trường có sáu lớp dao động từ 204 học sinh ngoại trú); vào năm thứ hai họ theo học những lớp của trường này để học và làm những bài tập mẫu , thực hành nghề nghiệp dạy học.
Ngoài vai trò trí tuệ và tinh thần, nhà trường có một vị trí xã hội to lớn vì lối giáo dục đặc biệt mà nó được phân công: giáo dục thể chất, thực hành nông nghiệp, thủ công. Các giáo sinh bắt đầu áp dụng cac phương pháp giáo dục thể chất tiên tiến nhất để sau này họ thâm nhập một cách dể dàng vào những vùng thôn quê lạc hậu của Nam kỳ. Những buổi hội thảo về giáo dục thể chất được giảng dạy bởi một vị đại tá về hưu: cựu giáo sư của trường Joinville; những màn bài tập được điều khiển bởi hai vị giáo sư người Pháp có bằng cấp và hai vị hạ sĩ quan cũng từ trường Joinville. Mỗi tuần đều đặn một bác sĩ sẽ kiểm tra sức khỏe cho giáo sinh năm thứ tư.
Trường có một khu vườn thực nghiệm: Các giáo sinh tới đây để thực hành các bài học thực hành canh nông được dạy bởi giám đốc sở Canh nông Nam kỳ. Và cuối cùng là những thực hành trên gỗ, sắt được dạy tại trường; một xưởng được hoàn thành trước đó, những bài thủ công được dạy bởi một giáo sư người Pháp có sự tham gia của hai công nhân bậc thầy bản xứ, họ đem đến cho các giáo sinh một thích thú và trên hết là những bài học hữu ích ở một quốc gia mà nền văn chương được coi trọng hơn nghề tay chân.
Nhân viên của trường giữ một tỷ lệ quan trọng. Văn phòng điều hành bao gồm một hiệu trưởng, một tổng giám thị, một thủ quỹ. Các giáo sư của trường bao gồm 14 giáo sư Pháp (6 dạy văn chương và giáo dục học, 2 giáo sư sử và địa, 4 giáo sư môn khoa học, 1 giáo sư môn hội họa, 1 giáo sư môn thủ công) và 6 giáo sư bản xứ (4 giáo sư môn văn chương, 1 giáo sư môn khoa học, 1 giáo sư dạy tiếng Việt và tiếng Hán). Sự trông nom về giáo dục được giao cho một  vị giáo sư huấn luyện Pháp và 15 thấy người bản xứ hầu hết là từ các giáo sinh cũ của trường. Riêng trường thực hành có một hiệu trưởng và 6 thầy người bản xứ được lựa chọn từ những giáo sinh xuất sắc.
Ngân sách trường đạt đến con số 3.170.000 quan.














            Tháng 12 năm 1942 trường lấy lại tên Des filles Françaises. Tháng 7 năm 1947 khu đất này trở thành bệnh viện Coste. Sau năm 1954 chính quyền VNCH chia khu đất này làm hai lập ra hai trường: Trung học Võ Trường Toản (dành cho Nam sinh) và Trung học Trưng Vương (dành cho Nữ sinh) và một phần cho Nha Khảo Thí.
             
           Các cựu học sinh trường D'Adran Sài Gòn:


- Trần Chánh Chiếu tức Gilbert Chiếu, một nhà văn, nhà báo, nhà cách mạng của Nam Kỳ xưa.








- Giám mục Nguyễn Bá Tòng, Giám mục Công giáo đầu tiên người Việt Nam.






Danh sách ban hiệu trưởng và thấy giáo trường





Chúng ta mượn tạm hình chụp trên không của bệnh viện Angier cho thấy vị trí trường Adran nằm ở góc trên phía trái hình.


Con đường phía trước trường Adran 



Trường nữ trung học Trưng Vương



Trường nam trung học Võ Trường Toãn

Thứ Bảy, 25 tháng 6, 2016

NGÀY ẤY VÀ BÂY GIỜ



                                 911. Nơi chiếc xe Jeep đậu vào ngày tháng 11 năm 1963 và giờ nay.


                                 912. Quảng trướng Francis Garnier (Lam Sơn) xưa và nay.


                                 913. Giao lộ Catinat-Ormay (Tự Do - Nguyễn Văn Thinh) thập niên 30 và hiện nay.


                                 914. Ngả tư Công Lý - Hiền Vương/Nam Kỳ Khởi Nghĩa - Võ thị Sáu xưa và nay.


                                 915. Ngả tư Phú Nhuận xưa và nay.


                                 916. Ngả tư Hồng Thập Tự/Nguyễn Thị Minh Khai-Pasteur xưa và nay.


                                 917. Phối cảnh đại lộ Charner/Nguyễn Huệ thời xa xưa hiện nay.


                                 918. Cầu chữ Y xưa và nay.


                                 919. Tòa ngân khố đường Nguyễn Huệ xưa và nay.


                                 920. Vị trí tượng Charles Rigault de Genouilly và tượng Trần Hưng Đạo tại quảng trường Mê Linh theo dòng thời gian.



Nguồn Tim Doling, Trung Ngo

Thứ Tư, 15 tháng 6, 2016

Đường Petrus Ký và Bến xe Petrus Ký

Đường Petrus Ký với những dãy nhà hai bên đường một thời nhộn nhịp buôn bán phục vụ cho bến xe ngày nay không còn không khí đó nữa vì một lẽ là cái bến xe đó đã đi vào dĩ vãng. Các thế hệ người Sài Gòn sau này không còn ai biết về nó cả. Ngày nay con đường đã đổi tên, khu phố hai bên vẫn kinh doanh sung túc nhưng những âm thanh ngày xa xưa ấy không còn nữa. 
Đường này khi xưa có tên là Boulevard de Ceinture về sau khoảng năm 1940 chính quyền thuộc địa đổi tên là Petrus Ký. Từ năm 1955 chính quyền quốc gia Việt Nam công nhận tên đó.Sau năm 1975 đường đổi tên là Lê Hồng Phong.


Đường Petrus trong bản đồ thời thuộc địa 
không thấy đoạn nối với đường Pavie/ Trần Quốc Toản/3 tháng 2


Đường Petrus trong bản đồ thời VNCH

Đường Petrus Ký bắt đầu từ giao lộ với đường Trần Hưng Đạo mà nơi đó ta nhìn bên kia đường sẽ thấy thánh thất Cao Đài Sài Gòn và bệnh viện Trần Hưng Đạo ngày nào giờ đây là trung tâm chấn thương và chỉnh hình. Từ đó đường xuyên qua các gia lộ Phan Văn Trị, Nguyễn Trãi. An Dương Vương, Nguyễn Hoàng (Trần Phú), qua rạp Hùng Vương đến ngả tư Hùng Vương, qua ngả ba Vĩnh Viễn là tới bùng binh Ngả bảy Sài Gòn.








Bước qua bùng binh Ngả bảy Sài Gòn là tới phạm vi của bến xe Petrus Ký.




              Thập niên 50 - 60 các bến xe khách đi các tỉnh nằm rãi rác trong thành phố Sài Gòn như bến xe An đông, bến xe Chợ Lớn Bình Tây, bến xe Nguyễn Cư Trinh, bến xe Nguyễn Thái Học, v.v…Về sau những bến xe này chuyển tập trung về bến xe Petrus Ký. Kể từ đó khi vực này bổng trở nên ồn ào náo nhiệt suốt ngày đêm. Cảnh níu kéo tranh dành khách cùng tiếng rao của bạn hàng bán trà đá, mía ghim, thuốc lá,..cộng với âm thanh của xe xích lô máy hòa với tiếng xe lam huyên náo cả góc trời. Hai dãy nhà bên đường giờ biến thành những nhà trọ cho khách chờ xe, những tiệm quán bán các thức ăn uống và cũng phải nhắc tới là hoạt động của các động mãi dâm gọi mời khách đi đường.








                 
                  Về sau bến xe Petrus Ký càng ngày càng quá tãi, một kế hoạch xây dựng một xa cảng mới tại Phú Lâm gọi là xa cảng miền tây để chia bớt số xe khách đi các tuyến miền tây về đây, đó là năm 1965.  Bến xe Petrus Ký trở thành bến xe miền đông và miền trung và tồn tại đến năm 1976 thì dời về quận Bình Thạnh.
                   Và con đường Petrus Ký cũng chấm dứt tại giao lộ với Trần Quốc Toãn/ 3 tháng 2 cạnh nhà thờ Vinh Sơn và ngó sang bên kia đường là Viện Hóa Đạo.

Thứ Hai, 13 tháng 6, 2016

Xe xưa trên lối cũ
Xe chở khách miền Nam trước 1975.

Xe Buýt  Xe Đò Xe Taxi
Y Nguyên Mai Trần 
Phương tiện chuyên chở khách bằng xe hơi ở miền Nam trước 1975 rất đa dạng. Thời Pháp thuộc-Hòn Ngọc Viễn Đông trước 1954, người Pháp đã xử dụng một số xe chở khách nhỏ lớn trong phạm vi thành phố Saigòn Chợ Lớn và các tỉnh phụ cận như Tây Ninh, Vũng Tàu, Vĩnh Long Cần Thơ. Khi miền Bắc trở thành bảo hộ, người Pháp cũng mang vào xe khách chuyên chở người và thư tín, hàng hoá đến các tỉnh chung quanh Hà Nội như Bắc Ninh, Hải Phòng…
Ở Saigon, người cần dùng phương tiện có thể đến mướn xe ở những bãi đậu – trước sở Hoả Xa (đường Hàm Nghi) (thập niên 1930s, 1940s), đường Lê Lai (Boudonnet) cạnh ga xe lửa Saigon xưa (1940s, 1950s), hoặc sau nầy dọc theo đường Nguyễn Huệ, Lê Lợi, hoặc vẫy tay dừng taxi trên đường phố. Taxi là từ đã được dùng từ khi người Pháp dùng cho xe chở khách từ thập niên 1930s-1940s. Sau đó Renault 4CV được nhập cảng vào Miền Nam cho tư dụng và dùng làm taxi vào cuối thập niên 1940s. Tuy nhiên phải đến thời VNCH sau 1954 taxi mới trở thành phổ biến – taxi phải được sơn 2 màu, phần dưới màu xanh (dương), phần trên màu bơ (màu ngà) và phải gắn đồng hồ tính tiền (taxi meter). Tuy đa số taxi thuộc dòng xe Renault 4CV, các dòng xe khác cũng được dùng làm taxi như Peugeot, Simca và Dauphine xuất hiện trên đường phố khoảng giữa thập niên 1960s.
Taxi là phương tiện giao thông nổi bật của Sài Gòn nói riêng và của cả Việt Nam nói chung từ cuối thập niên 1940s qua những thập niên 1950s, 1960s đến 1975.
Song song với Taxi , từ năm 1957 , hệ thống xe buýt thay thế xe lửa điện vận hành trong địa phận Sàigòn Chợ lớn Gia định. Từ bến xe buýt chính ở công trường Diên Hồng, các tuyến xe buýt vận hành thay thế  các tuyến xe lửa xưa với nhiều tram dừng xe hơn. Nếu đi xa hành khách có thể đến những bến xe đò đi về đi miền Đông, miền Trung hay Miền Tây. Ở các tỉnh lớn như Mỹ Tho, Cần Thơ, Vĩnh Long, Đà Nẳng-Huế…cũng có những bến xe đò địa phương đi những vùng lân cận.

Có thể phân biệt một cách tổng quát, những loại xe chở khách:

Xe đò, xe buýt: Đây là loại xe to, trung và nhỏ, nhiều hàng ghế, chở 10 người trở lên, từ buýt mượn từ phương Tây bus hay autobus thường để chỉ loại xe khách lưu hành trong nội vi thành phố lớn và thường là vận hành bởi cơ quan nhà nước (xe buýt trong thành phố) hay công ty tư nhân (xe đò). Hành khách xe buýt không cần mua vé trước, lên/xuống tại những trạm xe bus được định sẵn và cách nhau không xa. Xe đò thường để chỉ loại xe chở khách đi đến địa điểm xa hơn thành phố, đi liên tỉnh, chở hàng hoá, đồ đạt trên mui xe nói chung, thường phải nên mua vé trước tại trạm xe đò có số ghế ngồi hoặc không tùy hãng. Ở miền Nam thời ấy, xe đò đủ lọại lớn, nhỏ, trung (lỡ). Xe lớn và lỡ thường có một người lơ phụ giúp tài xế, xe buýt thì có người bán vé trên xe, giúp khách hàng lên xuống. 
Phần đông các xe đò miền Nam trước 75 đều được đóng thùng (thân xe) tại VN dựa trên dàn gầm (khung chassis), động cơ, hộp số… nhập cảng từ Pháp ngoại trừ một số được nhập cảng nguyên chiếc hoặc bộ phận từ Mỹ giai đoạn 54-75. 
Cũng nên biết những bộ phận nhập cảng này , tùy nhu cầu cũng được ráp làm xe cam nhông. Thời này xe cam nhông khác biệt với xe đò vì đầu máy thường nhô ra phía trước thùng xe (đầu nhọn), một số xe buýt xưa đầu máy không nhô ra phía trước mà lại thụt vào phía trong thùng (đầu bằng) và như vậy bác tài và cần sang số ngồi bên hông của đầu máy được che chở bởi một lớp da cách nhiệt.
Cuối cùng cụm từ xe đò thường gợi lại bao nhiêu hoài niệm cho những ai từng xuôi ngược miền Nam, liên tỉnh hay từ làng thôn ra thành phố.
Hoài niệm về xe đò đối với người viết là chuyến đi xe đò từ bến xe Hậu Giang (bến xe Miền Tây) từ Saigon xuống Cần Thơ với hai đêm không ngủ bên đường vì đường bị đặt mìn, xập cầu, đào hố, lấp hố ở đoạn qua Trung Lương, Cai Lậy, Cái Bè trước khi tới Vĩnh Long 1966/67 với bao nhiêu lo âu trăn trở, bất an vì sợ pháo kích trong đêm, bắt gặp những ánh mắt bâng quơ, những nụ cười gượng gạo, tiếng khóc em bé khát sữa với tiếng ru buồn của người mẹ trong đem đen với ánh đèn măng xông bên cạnh những mảnh ruộng vô tình, âm vang của xe công binh ra sức lấp hố, sửa cầu trong đêm, chưa kể vấn đề vệ sinh cá nhân phiền toái.



Hinh 1: Đèn Măng Xông (Manchon) xưa.
Cũng nên biết ngày xưa, xe đò từ Saigon về miệt Mỹ Tho, Gò Công, về Hậu Giang mất cả ngày, phải qua hai cầu sắt Tân An và Bến Lức, hai cầu này thiết kế cho cả xe lửa Saigon –Mỹ Tho và vận hành giống như cầu Bình Lợi (đi từ Bà Chiểu xuống đường Nguyễn Văn Học để qua cầu lên Thủ Đức ăn nem hay Lái Thiêu ăn măng cụt, sầu riêng, lên núi Châu Thới Biên Hoà, hay thẳng đường ra Cấp (Vũng Tàu). Ai về miền Châu Đốc, Long Xuyên thường phải qua hai bac Mỹ Thuận và Vàm Cống còn về Hậu giang phải qua hai phà Mỹ Thuận và Cần Thơ mà thời gian đến tuỳ thuộc vấn đề an ninh và tình trạng kẹt Bac (Bac tiếng Pháp, có nghĩa là phà, hay ferry tiếng Anh )
Xe taxi: Xe nhỏ, thường chở tối đa 4-5 người, thường chạy trong thành phố, địa điểm đi đến tùy khách, tiền xe được tính dựa trên đồng hồ taxi meter. Nếu được bao thuê, giá cả thương lượng giữa người bao thuê và tài xế Taxi.
Taxi có thể được neo (máy tính tiền vẩn “nhảy”) taxi được giữ lại bởi khách cho tới khi khách không dùng dịch vụ nữa.
Xe chở khách: Những loại xe chở khách khác taxi hay xe đò. Những dòng xe của thập niên 30s hay 40s hay sau này như xe lô ca xông hay xe Hoa-Hoa Kỳ, thường chở tối đa 4-5 người, thường chạy trong thành phố, địa điểm đi đến tùy khách, tiền xe được thương lượng giữa khách và tài xế lái xe.

Xe buýt, xe đò miền Nam trước 1975.

Xe đò là loại xe chở khách số lượng nhiều it tùy loại xe lớn, trung hay nhỏ và tùy hãng vận hành. Xe nhỏ 10-15 người, lớn lên đến 50-70 người, hàng hóa thường để trên mui xe.
Xe buýt, xe đò xuất hiện từ thời Pháp thuộc để đáp ứng nhu cầu chuyên chở người, hàng hoá và thư tín. Người Pháp dùng từ autobus, autocar để chỉ một trong những dòng xe dùng làm xe đò thời bấy giờ được nhập cảng từ Pháp như Renault Latil, Saviem, Saurer, Berliet (phần đông các hãng này về sau đều xáp nhập vào hãng Renault) hoặc những dòng xe Mỹ, sau 1954, gồm những nhản hiệu như De Soto, Chevrolet, International Harvester, Fargo, Ford , GMC hay xe Nhật Toyota .
Hành khách đi xe đò có thể đến các bến xe nằm rác khắp nơi trong thành phố như bến xe An đông, bến xe Lục tỉnh Petrus Ký, bến xe Chợ lớn Bình Tây, bến xe Nguyễn cư Trinh, bến xe Nguyễn thái Học . Sau cuối thập niên 1950s đầu 1960s thì lần lượt chuyển về bến xe Petrus Ký, xe khách đi các tỉnh thành phố miền Đông, miền Trung, hay Tây thường sơn màu khác nhau để cho khách dể tìm xe.
Bến xe Petrusky trở nên quá tải, để giải toả áp lực xe đi miền Tây (được gọi là bến xe Miền Tây) được dời ra Phú Lâm (Bình Chánh) đổi thành Xa cảng Miền Tây (bến xe Hậu Giang) khoảng 1965, xe đi Miền Đông vẩn còn ỏ đường Petrus Ký đổi thành xa cảng Miền Đông. Sau năm 1976 xa cảng miền Đông dời về quận Bình Thạnh với tên củ Bến xe Miền Đông.


Hinh 2 : Bến xe đò lớn trên đường Trương Vĩnh Ký (Petrus Ký) năm 1950, gần Ngã sáu Sài Gòn có tượng Phù Đổng thiên vương ( Ảnh Donald F. Harrison Collection – The Vietnam Centerand Archive)
Hinh 3: Bến xe đò Lục Tỉnh (miền Tây) với xe đò lỡ (lỡ cở=không lớn không nhỏ=trung)
Hinh 4: Saigon, August 1955 – Bến xe đò lục tỉnh đường Trương Vĩnh Ký với xe đò nhỏ thường thấy như – Renault Goelette, Estafette, Volkswagen Kombi, Toyota, Ford –cho khách đi Vũng Tàu, Biên Hoà, Bình Dương, Long Khánh – François Guillemot Collection- Source Báo Tiếng Dội Miền Nam



Hinh 5: Bến xe Petrus Ký 1960.


Hinh 6 : Xe đò Ford tại bến xe Nguyễn cư Trinh 1965
Quang cảnh nhộn nhịp của những bến xe đò-người, hàng hoá, âm thanh, màu sắc…không nơi nào bằng bến Petrus Ký. Những chiếc xe đò mang tên như Á Đông, Tân Á,Đông Á, Thuận Thành và Ngọc Châu chạy tuyến Saigon Mỹ tho. Các hảng Tam Hữu, Thành Long, Công Tạo- Thuận Thành chạy tuyến SG-Châu Đốc .Xe đò đi miền Tây (Thuận Thành, Lộc Thành, Nhan Nhựt, Quang Minh, Đại Hưng, Thuận Hiệp, Vĩnh Phát, Thuận Lợi, Liên Hiệp, Nhơn Hòa, Phi Long, Hiệp Hưng, Kim Long, Nam Thành, Hữu Phước, Quang Minh, Hiệp Thành,Tam Hữu … phục vụ nhu cầu đi lại và chuyên chở hàng hoá của người dân khắp miền Nam Việt Nam, đặc biệt là những chuyến xe thơ chở thơ tín và hàng hoá cho bưu điện nhà nước.
Những chiếc xe đò nầy thường chạy sớm khoảng 4 hay 5 giờ sáng và có quyền ưu tiên qua phà…
Xe đò miền Đông (Bình Dương, Phước Long, Long Khánh), Đông Bắc (Vũng Tàu), Cao nguyên (Đà Lạt), và miền Trung như Thuận Hiệp, Liên Hiệp, Hiệp Thành, Nam Thành Kim Long (Tuyến SG-Thủ Dầu Một (QL 13) …. thì hầu như là hãng xe đò duy với các điểm dừng ở Dầu Tiếng, Bến Cát, Đôn Luân (Đồng Xoài), Phước Bình, Lộc Ninh, v..v… Nói tóm lại thì toàn là vùng “xôi đậu” .. có khi vừa gửi “tờ báo” cho ông “Trưởng đồn Bảo an” ở Lai Khê … thì chạy khoảng 10 phút sau đã ghé “đóng Thuế” cho “trạm Giải Phóng” ở Lai Uyên rồi …. Cái thế “hai hàng” này có lẽ đã là lợi thế cạnh tranh mà hãng này giữ lâu dài nhất … và gần như độc chiếm …. trong hoạt động vận tải hành khách trên con lộ Tử thần ấy của các hãng xe đò đối thủ … Rất hiếm khi dân SG nghe nói “xe đò của hãng Kim Long bị mìn trên QL 13” so với các tin tương tự trên các tuyến đường khác …
Miền Trung thì gần như chỉ có hãng Phi Long chọn hướng vận tải xa nhất : SG-Huế-Quảng Trị … Hành khách trên tuyến này có khi ăn ngủ luôn trên xe trong suốt hành trình … Ngày xưa, chỉ cần thấy trên xe đò có một chiếc gà-mên lớn, bằng inox … cao bằng đứa bé 12 tuổi … trên mui có một cái bồn nước … loại dùng trong quân đội .. Người ta biết ngay đó là xe đò miền Trung … Thỉnh thoảng cũng có tin “xe đò bị mìn” trên tuyến này … Nhưng là những hiệu khác .. không phải Phi Long … 

Trich từ


Xe đò xưa trước 1954.



Hinh 7: Xe đò Renault mẫu 1927 của hãng STACA trên quai Courbet 1950,, trước trụ sở của hãng Liên hiệp thương mại Đông Dương và Phi Châu (L’U.C.I.A) lập năm 1904- Về sau là trụ sở Tổng lãnh sự Hoa Kỳ trước 1975 – Ngày nay là khách sạn Indochina River side .



Hinh 8 : Xe đò băng qua cầu trên đường Saigon-Mỹ tho 1950s.



Hinh 9 : Xe đò Renault chạy tuyến từ Huế qua An Lỗ rồi đến Sịa –trung tâm huyện Quảng điền ngày nay. Hinh chụp 1964. Nguồn Lonnie M. Long Collection – Vietnam Center and Archive

Một điều nữa là trừ Huế ra, Sịa ngày xưa cũng là một vùng đất trù mật, buôn bán sầm uất của cả một vùng ngoại vi kinh thành, không thiếu thứ gì, lại còn mang chút dáng vẻ văn vật đất thần kinh. Từ những sản vật địa phương như bánh tráng, bánh ướt, tôm chua, cá chột nưa, vô số hải sản… vừa ngon vừa hấp dẫn, đến cả những sản phẩm văn hóa như chơi đu tiên, đua ghe, hội vật, hò giã gạo, hò mái nhì, mái đẩy. Cái gì cũng có, cũng không thua chi Huế cả…”



Hinh 10 : Xe buýt ISOBLOC của hảng COSARA (1954) là loại mẫu DP 648 102 trang bị động cơ diesel Panhard, 4 xi-lanh 6.8 lít.


Isobloc là một thương hiệu xe buýt cổ điển do Joseph Besset thành lập năm 1930 tại vùng Ardèche, Pháp (8). Isobloc chuyên thiết kế thân xe với công nghệ cao thời bấy giờ thân không khung, áp dụng khí động học và vật liệu nhẹ –sàn xe phẳng, máy nằm phía sau, xe rộng thoáng bên trong.

Hinh 11 : Lên xe buýt Hàng không Việt Nam ra phi trường 1965 . Hinh anh Bill Eppridge .
Hàng Không Việt Nam (Air Vietnam) được thành lập năm 1951 tại Saigon.Trước đó COSARA là một công ty hàng không và vận tải tư nhân được thành lập tháng 9 1947, bởi Maurice Loubière cùng với một người bạn Việt Nam COSARA (Comptoirs Saigonnais de Ravitaillements) có văn phòng đặt tại 5-13, đường Turc bây giờ Hồ Huấn Nghiệp Sài Gòn.
Mục đích lúc đầu của công ty là cung cấp vận chuyển hàng hoá cho các đơn vị quân trú đóng của Pháp nằm rải rác khắp nơi ở Việt Nam bằng cách sử dụng các sân bay được xây dựng bởi người Nhật trong Thế chiến II.
Sau Hiệp định Genève (20/7/1954) phân chia Nam Bắc, COSARA ngừng hoạt động năm 1955. Loại phi cơ Dakota (Douglass DC 3) chở hàng hoá và hành khách bán lại cho Hàng Không Việt Nam (Air Vietnam).
Cosara có một đội xe buýt dùng đưa đón hành khách từ văn phòng ở Saigon ra sân bay, tuy thế Cosara có tuyến đi Châu Đốc, những chỉ được vận hành 1,2 năm rồi ngưng. Đội xe buýt Cosara, trở thành xe buýt của Hàng Không Việt Nam với biểu hiện con Rồng nằm trên lá cờ vàng ba sọc đỏ. Maurice Loubière trở về Pháp sau khi công ty ngưng hoạt động.




Hinh 12 : Xe đò Renault Goelette của hãng SITA đưa đón khách phi trường Tân Sơn Nhất, đậu trước trụ sở SITA, 5 Bến Chương Dương (Le Myre de Villers Quay) năm 1952.
Indochina Air Transport Company (Société Indochinoise để Transports Aériens) thành lập 1950 chuyển vận tải hàng hoá và hành khách.


Hinh 13 : Dòng xe Toyota Coaster mẫu 1969 được dùng làm xe đò chuyên chở từ 15-25 khách trên tuyến đường Saigon Vũng Tàu đầu thập niên 1970s

Hinh 14 : Xe đò “lỡ” Renault Goelette biến chế với thùng dài hơn của hảng Hiệp Hoà chạy đường Bình Dương Saigon 1959.
Hinh 15 : Trong khoảng năm 1960, Renault Goelette được mang về Việt Nam, lmodel 1400 (được ra đời năm 1956) và được tận dụng để chở hành khách và hàng hóa. Trong bức ảnh trên là chiếc xe đò lỡ Renault Goelette thân dài u6 hãng Tân Mỹ chạy tuyến Tân An – Mỹ Tho.
Những chiếc Renault Goelette xuất hiện ở Việt Nam chủ yếu là phiên bản Renault Goelette 1400 (được ra đời năm 1956). Xe có dung tích động cơ 2.383cc sử dụng dầu hoặc xăng tùy loại. Kích thước của xe là 4.540 x 1.920 x 2.250m (dài x rộng x cao).





Hinh 16 : Xe Renault Goelette trong thành phố Qui Nhơn 1966.

Hinh 17 : Xe đò Renault Goelette Cam Ranh-Nha Trang 1969-70



Hinh 18 : Xe đò Renault Goelette Đà Nẳng Quảng Ngãi 1966-67?


Hinh 19: Xe đò Dodge mẫu 1954 – Tuyến đường Sai Gon –Vũng Tàu hình chụp 1970 Vũng Tàu
Hinh 20 : Xe đò Dodge 1970 tuyến đường Saigon Cần Thơ Rạch Giá.


Hinh 21 : Xe đò Dodge Vũng Tàu Saigon 1968


Hinh 22: Xe đò Mercedes tuyến đường Saigon Vũng Tàu, hình chụp 1968 Stan Middleton

Hinh 22a: Xe đò Ford tuyến đường Saigon – Ba Rịa, Phước Lể.Photo Bob Cogan 1967/68


Hinh 23 : Xe đò Desoto trên đường Saigon Tây Ninh. Hình chụp 13/2/1967 Sully Francoise
Hinh 24 : Xe đò Desoto Ngọc Minh tuyến Saigon Bình Định Quy Nhơn.


Hinh 25 : Xe đò Desoto mẫu 1959 tuyến đường Saigon Tây Ninh– hình chụp 1967
Hinh 26: Xe Dodge trên tuyến đường Saigon – Tây Ninh 1965 Photo John Hansen.

Hinh 27 : Xe đò Desoto trên tuyến Saigon Bảo Lộc

Hinh 28 : Xe đò Desoto tuyến đường Saigon Rạch Giá Hà Tiên 1968


Hinh 29 : Xe đò Desoto Saigon Mỹ Tho hinh chup 1968


Hinh 30 : Xe đò Chevrolet, Vỉnh Long 70-71. Hình Frank Effenberger


Hinh 31 : Xe đò Hiệp Thuận-Chevrolet 1964


Hinh 32 : Bến xe Cần Thơ 1970, xe Desoto tuyến Cà Mau – Cần Thơ. Hình Douglas Pike Photograph Collection


Hinh 33 : Desoto 1970
Hinh 34: Xe đò Hotchkiss PL25 –Qui Nhơn 1965-66 . Hình Dave Glenn


Hinh 35 : Xe đò Huỳnh Long hiệu Hotchkiss biến chế, khoảng đầu năm 1950s chạy liên tỉnh. Hình chụp năm 1964 Chris Newlon Green
Hinh 36 : Xe đò Hotchkiss còn gọi là “xe đò mỏ nhọn” 1968.
Hinh 37 : Xe đò Hotchkiss (phía trái) và xe Renault Goelette cải biến (bên phải), bùng binh Cây Gỏ, Saigon 1969, tên chính là công trường Duy Linh và tượng Lê Lợi trên đường ra xa cảng miền Tây–photo by George Lane


Hinh 38 : Xe đò Citroen U-23 xưa chạy tuyến Phước Tuy – Bình Giã 1968

Xe buýt: Theo Tim Doling, một nhà nghiên cứu về Saigon gốc Anh, do sự tranh chấp giữa công ty CFTI (Compagnie des tramways de l’Indo-Chine ) và chính quyền Saigon từ năm 1955 thì đường xe điện tramway ở Saigon, kể cả đường Saigon-Gò Vấp ngưng hoạt động, bỏ hoàn toàn vào năm 1957 và được thay thế bằng hệ thống xe buýt.
Xe buýt chạy trên các tuyến đường trong thành phố Sàigòn-Chợ lớn-Gia định, mà trước đó là lộ trình của xe lữa điện (electric tramway system) theo một lộ trình định sẵn, khách chỉ trả tiền vé khi lênxe.Các xe buýt của CFTI được nhượng lại cho công quản chuyên chở công cộng Đô thành Sàigòn 1957. Vào thời thịnh nhất 1960/61 công quản khai thác thêm các tuyến đường mới , tăng cường số xe buýt từ 119 với 12 tuyến lên 224 chiếc. Chi phí cao vận hành không hiệu quả, cộng với sự cạnh tranh khốc liệt của các xe lam ba bánh tư nhân, công quản xe buýt được nhường lại cho tư nhân khai thác qua sắc lệnh của Thủ Tướng Trần Văn Hương tháng 12 năm 1968 (9). Bến xe chính xe buýt Saigon, trước đó là ga Cuniac của tuyến đường xe điện chạy từ đầu đường De la Somme-Hàm Nghi giáp ranh với Bến Chương Dương đến đường Bonhour –Hải Thượng Lãn Ông –Chợ Lớn. Gọi là ga Cuniac vì ga này nằm đối diện với Place Cuniac-Công trường Diên Hồng-bây giờ Quách Thị Trang. Eugène Cuniac là Đô Trưởng Saigon ( Maire de Saigon) người xưa gọi là người Xã Tây, người có công san lấp vùng ao cạn đầm lầy (ao Bồ Rệt- Marais Boresse) để xây dựng chợ Bến Thành.




Hinh 39 : Công quản xe Buýt góc đường Lê Lợi Pasteur
Xe buýt/xe chở khách xưa trong thành phố Saigon

Hinh 40 : Trong hình có 2 chiếc Citroen Type A (10CV) tourer và một Citroen C4 (1928)

Xe Citroen mẫu đầu 1930s chạy ra từ Autohall garage và xe bus renault 1910s chạy về hướng nhà hát Thành Phố. Phòng trưng bày AutoHall nằm ở góc đường Bonard/ Lê Lợi và Charner/Nguyễn Huệ. Đây là địa điểm cũ của Autohall , trước khi được Emile Bainier chuyển qua lại tòa nhà Garage Bainier+ AutoHall xây cất mới, cùng nằm trên góc đường Lê Lợi /Nguyễn Huệ phía bên trái của tấm ảnh này.


Hinh 41 : Xe buýt Citroen C4 biến chế trước “nhà dây thép Saigon”

Hinh 42 : Xe buýt Renault 6C-2 1951 trên đường Bonard (Lê Lợi), Saigon cùng với Peugeot 203 ?
Trong ảnh này, phía sau xe buýt là nhà hát Tây –trước 1975 là Hạ Viện thời VNCH – là công trình xây cất của kiến trúc sư người Pháp Eugene Ferret năm 1897.



Hinh 43 : Xe buýt Renault chạy quanh công trường Diên Hồng (bên phải) cuối thập niên 1950s, bên trái là bến xe buýt bùng binh chợ Bến Thành –sau được đặt tên Công quản chuyên chở công cộng Đô thành.
Hinh 44 : Xe buýt Latil type M 1B chuyên chở từ 12 đến 15 người, bến xe công trường Diên Hồng
Hinh 45 : Xe buýt Renault-Saurer

Hinh 46: Bến xe buýt Sài Gòn đối diện Công trường Diên Hồng thời đệ nhất Cộng Hòa (thời Pháp, Place Eugène Cuniac) phía bên phải.

Xe buýt trong ảnh là những dòng xe Renault 215 D hay Renault Saviem. Tên công trường Quách Thị Trang chỉ xuất hiện sau 1964.
Trước 1954, xe buýt của hãng CFTI (Compagnie Francaise Tramwayélectric Indochine) chạy tuyến Sài Gòn – Gò Vấp qua Dakao, Bà Chiểu Lăng Ông, Bình Hòa, Xóm Gà, chợ Gò Vấp ; tuyến Sài Gòn – Chợ Lớn (dọc theo đường Galliéni, nay là đường Trần Hưng Đạo), Sài Gòn – Chương Dương (quai de Belgique), Sài Gòn – Hóc Môn – Bà Điểm.
Tuyến đường Saigon- Phú nhuận qua đường Lê Lợi (Bonard) Hai Bà Trưng qua cầu Kiệu chấm dứt ở chợ Phú Nhuận
Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai, sản xuất xe buýt lại tiếp tục với dòng 215 D. Hầu hết các thân (body) xe được sản xuất bởi Scemia, một công ty mà Renault đã họp tác trước chiến tranh. Sự cạnh tranh ráo riết trên đưa đến chuyện Renault bị truất ngôi từ vị trí đứng của mình bởi Chausson. Renault chuyễn theo xu hướng mới đặt động cơ ở phía sau và cửa sau cho hành khách lên xuống. Trong tháng 11 năm 1955, Renault tổ chức lại việc sản xuất xe buýt, phân chia chức năng công nghệ bằng cách hợp hợp nhất với Latil và Somua, tạo thành công ty mới SAVIEM LRS (Society Anonymous của công nghiệp xe và Cơ học Thiết bị). Năm 1957, SACA (Hợp nhất giữa hai công ty Floriat và Isobloc) gia nhập Saviem. Năm 1959, Saviem tóm thâu luôn Chausson. Từ tháng 12 năm 1961, thương hiệu Floriat ngừng sản xuất và biến mất. Qua sự liên kết Chausson -Saviem thừa hưởng một nhà máy xe buýt hiện đại ở vùng Annonay. Nhanh chóng, thương hiệu mới Saviem trở nên quen thuộc trên thị trường dành cho xe buýt và xe chở khách. Tên Renault biến mất trên những dòng xe hạng nặng (xe tải và xe buýt) nhưng vẫn còn hiện diện trên xe thương mại hạng nhẹ, như Renault Goelette. Dòng xe khách nhỏ phổ biến, chẳng hạn như Saviem SG2 và Super Goelette và sau đó là l’Alouette, được giao cho các thuộc địa cũ của Pháp. Năm 1978 Saviem hợp nhất với công ty đối thủ Berliet trở thành Renault Véhicules Industriels.(10,11)
Hinh 47 : Xe buýt Saigon Gò vấp chạy trước Hạ Viện đầu thập niên 1960s


Hinh 48 : Hành khách trên tuyến Saigon Binh Tây Chợ Lớn lên xuống bến xe buýt Saigon


Hinh 49 : Xe Buýt Renault trên đường Lê Lợi- Công trường Lam Sơn 1967



Hinh 50 : Saurer buýt trên đường Paul Blanchy –Hai Bà Trưng- Hình chụp tháng 7 1949 (http://www.panoramio.com/photo/16497279)

Tuyến đường Saigon- Phú nhuận qua đường Lê Lợi (Bonard) Hai Bà Trưng qua cầu Kiệu chấm dứt ở chợ Phú Nhuận.


Hinh 51 : Renault Bus 1960-61 SAIGON 1961 – by John Dominis
Hinh 52: Bến xe buýt Công Quản Chuyên Chở Công Cộng bùng binh Công trường Diên Hồng.
Hinh 53 : Xe buýt Renault chết máy ngang bồn phun nước trên giao lộ Lê Lợi-Nguyễn Huệ, trước tòa Đô Chánh cuối thập niên 1960s
Hinh 53a : Xe buýt Renault màu xanh và IH màu cam -công trường Diên Hồng 1965


Hinh 54: Xe buýt Hàng Không Việt Nam đưa đón khách đến sân bay Tân Sơn Nhất 1965.


Hinh 55 : IH (International Harvester) buýt phía sau bến xe buýt Sài Gòn, hướng về đường Hàm Nghi.
Hinh 56: Xe buýt Dodge Mỹ trên đường Hai Bà Trưng đi phi trường Tân Sơn Nhất


Hinh 57: IH( Internatiọnal Harves̀ter) Loadstar , phi trường Phú Bài Huế,1960s

I

Hinh 58 : Xe đò Renault-Saviem của Hàng Không Việt Nam chở khách ra phi trường
Hinh 58a: Xe đò Mercedes của Hàng Không Việt Nam đưa/rước khách phi trường Tân Sơn Nhất 1968.

Xe Taxi

Đây là một nét văn hóa đặc trưng của miền Nam – thành phố Saigon Chợ Lớn –Gia Định. Taxi chạy khắp mọi nẻo đường, hành khách muốn đi phải vẫy xe ngừng lại vì thời ấy taxi không có tổng đài để giao dịch, khách vào là bẻ cờ cho đồng hồ tính tiền chay. Bến xe taxi là những nơi các bác tài kinh nghiệm có nhiều khách vãng lai như Bến Bạch Đằng, công trường Mê Linh, chợ Bến Thành, vùng Lăng Ông Bà Chiểu…Ban đêm thì các rạp hát bóng (cinema), nhất là rạp hát cải lương hay đại nhạc hội.
Những chiếc Renault 4CV đầu tiên được nhập cảng vào Việt Nam vào cuối thập niên 1940, sau đó xe được dùng thành xe taxi vì giá rẻ, dể bảo trì đáp ứng nhu cầu vận chuyển cho khách vùng Saigon , Chợ lớn, Gia định.
Đến cuối năm 1968, đô thành Sài Gòn – Gia Định 7.400 taxi, 2.440 xích lô máy (nguồn: Đoàn Thêm – 1969 Việc từng ngày). Đến năm 1971, xe Lam là phương tiện vận chuyển quan trọng nhất Sài Gòn cũng như các tỉnh miền Nam vì hệ thống xe buýt đã ngưng hoạt động và chưa phục hồi. Theo báo chí lúc đó thì toàn miền Nam có 30.668 chiếc, số xe Lam lưu hành gấp 7 lần xe taxi.



Hinh 59 : Renault Juvaquatre 4CV- Berline trên đường Saigon 1968. Juvaquate sản xuất lần đầu tiên 1939 và chấm dứt 1955.

Hinh 60 : Taxi mẫu 1952, lúc này taxi chưa phải sơn hai màu.


Hinh 61: Taxi 1956 sơn màu xanh dương và ngà.



Hinh 62: Taxi Saigon 1958 đường Trần Hưng Đạo


Hinh 63: Taxi 1968 dừng cho người đi bộ góc đường Lê Lợi và Pasteur.


Hinh 64: Taxi trên đường Hồng Thập Tự Saigon 1971


Hinh 65 : Taxi trên đường phố khoảng 1960.



Hinh 66 : Taxi Dauphine 1965 trên đường Nguyễn Huệ, công trường Lam Sơn.


Dauphine sản xuất từ năm 1956 đến 1967 , loại xe thông dụng máy đặt phía sau , thân khung liền vỏ , hộp số tự động có ba số, không tự động có 3 hoặc 4 số , 4 cửa, động cơ 845 phân khối. Dauphine được đưa ra thị trường nhằm thay thế cho dòng xe rất thành công trước đó 4CV
Một số lớn Dauphine được nhập cảng vào VNCH qua chương trình hữu sản hoá 1968 làm taxi. Cùng thời với Volkswagen Beetle, Morris Minor, Mini and Fiat 500, đây là những dòng xe đi đầu trong chiến lược sản xuất xe thông dụng, giá phải chăng ở Âu Châu thời bấy giờ
Xem thêm chương trình hữu sản hoá



Hinh 67 : Xe Peugeot 203 được dùng làm Taxi trên đường phố Saigon
Hinh 68 : Một loại đồng hồ taxi Pháp BB được sửa thành đồng hồ cho taxi VNCH (phía trái) . Một loại nữa, đồng hồ có “cây cờ”, khi có khách vào thi cờ được quay để khởi động đồng hồ tính tiền.

Hinh 68a : Đồng hồ Taxi có “cây cờ” thịnh hành thập niên 1960-70.(12)

Xe khách xưa
Hinh 69: Xe chở thư và chở khách Sài Gòn Tây Ninh  1906


Hinh 69a : Xe khách Nha Trang 1904-1907 – loại chế biến của dòng xe Peugeot 33 -1901


https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/albums/7215766195
0864426


Hinh 70: Xe chở khách đến tháp Đồng hồ trường đua Phú Thọ-1905-1912 , phu xe pousse-puosse đứng trên bệ tháp nhìn vào trường đua.


Hinh 71 : Xe chở khách trước sở Thuế bến Chương Dương-phiá sau dáng hình cầu Mống và Nhà Rồng thập niên 1940s
Hinh 72: Xe chở khách Citroen Rue Schroder, nay là đường Phan Châu Trinh phía bên trái chợ Bến Thành.
Hinh 73 : Bến xe khách Taxi Renault 1920s, Berliet 1920s and Hotchkiss 1930s trước sở Hỏa Xa Đông Dương, đối diện bùng binh chợ Bến Thành Dãy nhà nhiều tầng phía trái nằm trên đường Bonard (Lê Lợi). Con đường phía sau sở Hỏa Xa (đường Hàm Nghi) và cũng là đường phía sau nhà Thương Saigon (nằm trên đường Lê Lợi, gần bót Lê Văn Ken) mang tên đường Hamlin thời Pháp-sau đổi là Đỗ Hữu Vị và bây giờ là Huỳnh Thúc Kháng


Hinh 74 : Bến xe khách ở đường Lê Lai (Boudonnet) bên hông tường ga xe lửa Saigon khoảng 1950 (bây giờ là khu khách sạn New World), nằm đối diện rạp hát xưa Aristo.
Xe lô ca xông -Traction Avant 11.

Phần đông sơn màu đen , Loại xe traction avant-Front wheel drive-xe kéo bằng hai bánh trước một đột phá trong công nghệ xe hơi thời bấy giờ-đầu thập kỷ 1930s- được nhập càng vào Miền Nam từ khoảng 1936/37 qua một số đại lý xe hơi ở Saigon (xem phần 1 , xe cổ điển Pháp trước 1975).
Dòng xe này rất thông dụng ở Miền Nam. Về sau khoảng thập niên 1960s , nhiều chiếc traction được biến cải để chạy xe khách trong thành phố, hay những vùng gần như Biên Hòa, Thủ dầu Một, nhất là loại traction 11 familial bên trong rộng hơn loại Legere Berline. Bên trong những chiếc xe Lộ cả xong nầy, vị trí hàng ghế ngồi được thay đổi , có khi có cả 1 hàng ghế giua, không có lưng dựa, phần đông khách đi phải đợi cho đủ số người , sau đó xe sẽ chạy suốt đến địa điểm mà ít ngừng ở dọc đường.


Hinh 75 : Citroen đậu tại bến xe lô-ca-xông đường Phạm Ngũ Lăo gần Chợ Bến Thành năm 1969.

Phụ Lục

Xe buýt/xe đò Hà Nội xưa
Có lẽ xe đò là từ dụng trong Nam để phân biệt với xe buýt, còn ở Bắc ít nhất trước năm 1975 ? chỉ dùng từ thông dụng là xe Buýt- người Pháp gọi xe chở hành khách là autobus, autocar hay nói chung là voitures des voyaguers thời xưa . Taxi là tiếng chỉ dùng sau này du nhập từ Âu Mỹ khoảng đầu thập kỷ 1900, từ khi taximeter (taximetre) đượ xữ dụng trên xe chở khách.


Hinh 76 : Xe buýt/Xe đò Latil của hãng M.M.Chapelon & Cie ở bến Clemenceau 1928

Hinh 77 : Cammionette Latil ltype B, năng xuât 14CV, hộp số có 4 số và số de, tốc độ tối đa là 44km/giờ. Sản xuất giữa khoảng 1923-1930.
Hinh 78 : Bến xe buýt gần cột đồng hồ- bến Clemenceau 1920s


Hinh 79 : Một điểm đón trả khách của xe buýt ở phố Clemenceau (nay là đường Trần Nhật Duật) Hà Nội năm 1928.


MM CHAPELON & Cie, doanh nghiệp vận tải, cư trú tại tỉnh Bắc Ninh, được phép đưa vào lưu thông xe được mô tả dưới đây, đăng ký ngày 13 Tháng 1 năm 1926 theo số 2386 T và thực hiện vận chuyển hành khách công cộng 1 °) Hà Nội-Đáp Cầu, 2) Hà Nội 7 chùa .
Latil thương hiệu xe tải cơ thể.
Mặt bánh lốp 955 x 155 bánh sau lốp 955 x 155.
Tổng số tare 2.050 kg. : Trục trước 880 kg, trục sau 1170 kgs
Việc ủy quyền này là tùy thuộc vào các điều kiện sau đây:
Trọng lượng của chiếc xe trong toàn bộ chi phí sẽ không vượt quá 2.950 kg, chia ra như sau:
Tare Trọng lượng: 2,050 kg.
Mọi người: 18 x 50 = 900 kg kg. Hành lý: 0 kg. Mặt hàng: 0 kg.
Phân phối của các tải trọng trục tối đa: 1.180 kg trước. phía sau 1,770 kg.
Số lượng tối đa của người vận chuyển, bao gồm cả nhân viên của nhà thầu là cố định tại mười tám (18)
Các tuyến đường có sự cho phép được cấp là:
1) Hà Nội đến Đáp Cầu với điểm dừng cố định tại Rive Gauche, Gia Lâm, Yên Viên, Phú Từ Sơn, chùa Lim, Bắc Ninh.
2) Hà NộiTừ tháng chín ngôi chùa Hà Nội với các điểm dừng cố định ở Bắc Ninh, Đại Tràng, Cầu Ngã (Tư Sở], Phương Mao, Chai-Lai, Quế Dương, Đồng Du…
Ngoài công ty Chapelon một số doanh nghiệp khắp mọi miền cũng dùng loại xe này để đi xe khách, hay chở hàng hoá như Thanh Hoá, Vinh, Đà Lạt, Phan Rang, Sài Gòn.

Hinh 80 : Renault buýt ở Hà Nội 1940 đổ xăng gần cầu Doumer –Long Biên
Hinh 81 : Renault autocar khoảng 1934 trước đại lý Renault (STAI) ở Hà Nội.

Hinh 82: Xe chở khách Delhorme Bernard Six Reybier 1930s

Hinh 83: Khu vực cột đồng hồ, nơi đặt bến xe buýt đầu tiên của Hà Nội (điểm giao nhau của đường Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Hàng Muối, Nguyễn Hữu Huân) hiện nay nằm dưới đường dẫn của cầu Chương Dương.

Tham khảo :

Ghi nhận: Hinh ảnh sưu tầm từ các trang Blogs,albums manhai , flickr.com, Tommy Japan
1-http://www.historicvietnam.com/tim-doling/
2-http://saigoneer.com/
3-http://bellindochine.free.fr
4-http://yeudoi.net/2011/08/xe-cho-khach-mot-thoi-truoc-75.html
5-http://mytour.vn/location/6801-hoai-niem-mot-sai-gon-xua-hon-ngoc-vien-dong-cua-chau-a-ky-i.html
6-http://saigon-vietnam.fr/cosara_fr.php.
7-http://thaolqd.blogspot.com.au/2014/10/mot-vai-con-uong-cua-ky-uc-uong-tran.html

  Tết Sài Gòn trăm năm trước ra sao?   Biết những gì xảy ra trong quá khứ xa xưa dường như là mơ ước muôn đời của con người. Bởi trong c...