Thứ Bảy, 21 tháng 8, 2021


NGÀY ẤY VÀ BÂY GIỜ 



1661. Giao lộ Phan Thanh Giản-Phạm Đăng Hưng xưa và nay.




1662. Giao lộ Công Lý - Tú Xương xưa và nay.




1663. Đoạn cuối Tự Do gần nhà thờ Đức Bà.




1664. Góc Tự Do - Nguyễn Thiệp xưa và nay.




1665., Biệt thự 140 Ngô Đình Khôi / Cách Mảng 1-11 xưa và nay




Nguồn Tim Doling, Trung Nguyen, Trương V Chương


Thứ Ba, 10 tháng 8, 2021

 


                                HỒI ỨC LỊCH SỬ

SÀI GÒN VÀ NHỮNG VÙNG PHỤ CẬN

 

DIỄN THUYẾT TẠI TRƯỜNG TRUNG HỌC THÔNG NGÔN

 CỦA M. P. TRƯỜNG VĨNH KỲ


(Tiếp Theo)




Chúng ta hãy quay trở lại với những bức tường của thành cổ Sài Gòn và xuống trước hết vùng dốc phía trước của nó, nghĩa là tất cả những phần phía dưới, từ đường Espagne đến bờ sông Sài Gòn. Khu vực này, là một trong những phần của thị trấn thương mại An Nam cũ, rải rác với những ngôi nhà và cửa hàng và đan xen với những con đường nhỏ không được giữ gìn tốt, nằm trong lãnh thổ của bốn ngôi làng, từ cửa kênh Tàu Hũ (Bên Nghé): Hoà Mï (công trình thuỷ quân) Tân Khai, Long Điền và Trường Hoà, có giới hạn tại đường Mac Mahon.

Phía trên là một phần của làng Mĩ Hội mà lãnh thổ bao gồm thành lũy. Vào thời điểm đó, hương cả của ngôi làng này là một trong những hương cả vĩ đại nhất của thành phố. Ông ấy đã có quyền đội mũ hình quả bí ngô (trái bí) và quyền hành chính như một quan tổng.

Làng cần phải xây dựng đình, chùa hay một nhà chung (nhà việc), nhà vua cử đến một đại diện, mang một chiếc đĩa mạ vàng, năm chữ ghép và quà tặng để khánh thành của những tòa nhà này.

Khu vựa gọi là Hàng Đinh (cây đinh) nằm ở phần đầu đường Catinat bên khách sạn Laval đến dinh Thượng Thư. Trước tòa thị chánh Sài Gòn ngày nay, có một con kênh bắc qua một cái máng dẫn nước được gọi là Cống Cầu Dầu (máng dẫn nước cầu dầu) (cồng này là phần giữa đại lộ Lê Lợi về sau).




Cống Cầu Dầu trước tòa thị chánh Sài Gòn


Bờ Sài Gòn lác đác những ngôi nhà sàn. Ở cuối đường Catinat, ở bến bắc Thù Thiêm, có Thûy Các (ki-ốt của vua trên mặt nước), Lương Tạ, nhà tắm hoàng gia xây trên bè tre nổi.

Chúng tôi gọi nơi này là Bên Ngự (Compong luông theo tiếng Cam Bốt), bến thuyền của nhà vua.






Kênh chợ Sài Gòn là Kênh chợ Vải; kênh đi tới cái giếng có tên đó, trước ngôi nhà của Ông Brun, người bán yên cương.

Giữa ngôi nhà Wang Taï (Quan thuế VNCH) và ban quản lý cảng thương khẩu đi tời một rạch khác, gọi là Rạch Cầu Sâu (cầu cá sấu) uốn khúc và chảy đến thượng nguồn của kênh Chợ Vải, đó là kênh Coffine, được gọi theo tên của một đại tá, sau khi đã làm lại tường thành. Bằng đất, đã cho đào một con kênh nối hai đầu của những con kênh cũ.




Kênh này đã được lấp sau đó và vị trí của nó là ngày nay là một đại lộ lớn (Đại lộ Bonard/Lê Lợi) đi qua phía trước tòa thị chánh từ đường Hôpital (Về sau là Đồn Đất/Thái Văn Lung) đến đường Mac Mahon.

Rach Cầu Sấu được gọi như vậy vì nó từng là một hầm cá sấu, được bán làm thịt

Hướng của thương khẩu hiện tại có một điểm là một pháo đài và dinh thự các sứ thần của Huê, và nơi Dụ Tông, Mục Vircrng và Gia Long đã lưu lại.

Đối diện Sài Gòn, bên kia bờ sông, có gì? Thời gian từ Gia Long là Xóm Tàu Ô (ấp của thuyền màu đen); Nơi này được gán cho nơi cư trú của những tên cướp biển tàu với những chiếc thuyền nhỏ đi biển được sơn màu đen. Vì họ đã giúp việc cho Gia Long, vua đã tiếp rước., và đã cài đặt cho họ cái tên Tuần Hải Đô Đinh, đặt dưới quyền thủ lĩnh Tướng-Quân Xiền. Họ phụ trách thực hiện giám sát các bờ biển. Những người ở lại làm việc làm việc đóng tàu cho hạm đội nhà vua.

Hãy đi bộ ngay bây giờ trên con đường thấp của Chợ Lớn (Đường cặp theo chợ Cầu Ông Lãnh), để tới Chợ Lớn..



 

Kênh Tàu Hũ, trước đây được gọi là rach Bến Nghé, đã nhận được tên hiện tại của người Pháp, lưu ý rằng con rạch này đưa tới Chợ Lớn, có dân cư đông nhất là nhà buôn Tàu, và việc vận chuyển hàng hóa của chính những nhà buôn này trên thuyền neo ở Xom Chiêu (giữa pháo đài phía Nam và bến thuyền Messageries Maritimes), cho nên có tên của Kênh Tàu Hũ.

Tên Bến Nghé, theo Gia Định Thông Chí, xuất phát từ việc ngày xưa ở rạch có trâu và đặc biệt là trâu con (nghé) thường tắm.

Trên cả hai bờ của rạch này đông đúc những thuyền đủ loại, nhà sàn tạo thành, nên hai bên bờ dày đặc và làm cho lối đi của rạch bị hẹp lại.




Chợ búa rất lớn và giao thương nhộn nhịp, từ cột cờ Thủ Ngữ đến đường Mac Mahon, tuyến đường đưa tới nhà lao mà các thầy bói và thợ tiện đang ở. (dây thây bôi và đường thợ tiện). Những ngôi nhà trong khu chợ này được xây dựng tốt nhất, tất cả đều bằng gỗ tốt và lợp bằng ngói.

Từ đó đến chợ Câu Ông Lânh là địa phận của làng Long Hưng thôn, trên bờ chen chúc nhà cửa ra tới ngoài đường. Trên đường Boresse (Yersin) hiện tại có có một con đường xấu trên các lề có các túp lều của những nô lệ Lào được giải thoát; họ làm những chiếc gàu để gánh nước bằng lá dừa nước.

Từ rạch đi đến lò mổ (rach Câu Ông Lânh) có một cây cầu gỗ do một lãnh binh sinh sống gần đó làm. Tên cầu được đặt cho cả vùng (Câu Ông Lânh hoặc cầu của 6ng lãnh binh)

Xa hơn nữa, chúng tôi thấy cây cầu có tên Câu Muôi vì lúc đó thuyền nhỏ đi biển (ghe cửa) đến đó để bán muối. Những đống lá phủ đầy lá vẫn được tìm thấy ở đó, rất lâu sau khi Sài Gòn bị chiếm. Đó là kho chứa muối lớn. Đi về phía trước, chúng tôi thấy cây cầu có tên là Câu Kho và xa hơn một chút nữa là cầu Bà Tiêm. Khu này có tên Câu Kho (Cầu cửa tiệm), Chç Kho (Chợ cửa tiệm), vì có các cửa tiệm (Kho Câm thdo) mà Gia Long đã xây dựng ở đó để thu thuế những sản phẩm từ ​​nội địa Nam Kỳ. Làng này được gọi là Tân Triêm Phường.

Từ cầu Bà Tiêm đến cầu Bà Đô, chúng tôi thấy làng Hoà Thạnh và Tân Thạnh, thường được gọi là Xôm Lâ (dân lao động ở chòi rơm) và Xôm Cô (côm báp, côrn chùi); ở bờ đối diện, người ta bán lá chằm, và nghề bán lá này mang lại cái tên là Xôm Lâ.

Giữa cầu Bà Đô và Câu Hộc là làng của Bînh Yên. Ở đó các chủ sở hữu nhiều đất đai và mua bán trao đồi với ghe đến từ phía Bắc.

Câu Hộc lấy tên của nó từ một cái giếng có thành bằng gỗ và được tạo thành một khung đều đặn (giêng hộc), một trong những bờ của rạch Câu Hộc mà chúng ta thấy ngày nay, có một cái giếng cung cấp nước trong và có thể uống được và đặc biệt tốt để pha trà.

Từ rạch này đến ống thông gió đặt gần bệnh viện Chợ Quán (Lô Rén thợ Vấp), là địa phận của làng Tân Kiểng.

Bệnh viện Chợ Quân nằm ở khu vực Phû Hội Thôn. Ở đó có những lò nung vôi. Ngoài bệnh viện có một cây cầu đánh dấu sự ra đời làng Đức Lập rồi Tân Châu còn gọi là Xóm Cầu, khu vực dân đánh cá ở.

Xa hơn một chút là làng An Bình Thôn, còn gọi là Xôm Dầụ (Phụng Du) cho đến Rạch Xôm Dầu. Là nơi làm kho chứa dầu, đặc biệt là dầu phộng. Từ con rạch nơi ngày nay có tàu cuốc đến cây cầu có nhà máy bốc vỏ là làng An Bình, có một phần nằm ở phía bên kia của kênh Tàu Hũ, ngày nay là làng An Hòa, chúng ta thấy ngôi chùa của hội. thuyền đò (Van Đò).

Con rạch mà trên đó chúng ta thấy một cây cầu đẹp trước khi đến nhà máy, có tên là Rạch Bà Tịnh vẫn còn giữ tên cho đến ngày nay. Nó len lỏi vào bên trong đến tận gốc những cây me lớn của con đường cao (Nguyễn Trãi).

Xa hơn một chút, chúng ta thấy một cái giếng được gọi là giếng Adran trước kia nằm trên bờ, nhưng do tác động của nước Vịnh Bà Thuổng đã tách nó ra khỏi bờ, vì vậy nó là giếng có trước đây trong rạch. Trên bờ là những nhà máy xay gạo.

Từ làng An Điền kéo dài đến cây cầu sắt trước đây gọi là Câu Kinh. Khu vực này được biết đến với cái tên là Xôm Chỉ. Đây là nơi mà con rạch đã nối Bến Nghé với Ngâ Tư, đi qua Lò Gốm. Kênh Bà Thuổng, ngày nay đi từ Chợ Lốn đến Ngâ Tu, do thái giám đại thần Lê Vân Duyệt cho đào.

Ở phía bên kia của Rạch Bến Nghé, song song với bờ mà chúng ta vừa đi qua, là khu vực của các làng Khânh Hội, Tàn Vînh, Vînh Khânh (từ Messageries maritimes đến Rạch Ông Lớn), và cả từ Bình Xuyên, Tir Xuân (chấm dứt bởi Raeh Ông Bé còn gọi là Xôm Te), An Thành (ngày nay là Tuy Thành), Bình Hòa (Thanh Bình còn gọi là Xom Rớ An Hoà Đông và Hirng Phû (Xôm Than). Một dãy nhà, đa số là nhà lá và nhà sàn, bao bọc bờ này đến tận Chợ Lớn. Cả hai bờ của rạch đều đầy tàu thuyền đấn từ các tỉnh. Giữa rạch liên tục qua lại bởi ghe lườn (thuyền nhỏ) đi bán bánh, ăn uống và cung cấp các loại thực phẩm, và phải chịu một lượng lớn qua lại của các thuyền lợi dụng thủy triều. Nói tóm lại, nó như được vắt ngang như sợi chỉ của khung cửi bởi một con thoi.

Bây giờ chúng ta hãy đi theo đường cao từ Sài Gòn đến Chợ Lớn. Chính quyền Pháp đã giữ con đường nổi tiếng này theo hướng đã có từ xưa, bằng cách mở rộng và lát đá lòng đường. Ông Ollivier, người phụ trách xây dựng thành, đã vạch ra để đưa con dường nối Chợ Lớn trực tiếp với Sài Gòn.

Người ta phân phát cho thân nhân ba chữ ghép và một mảnh vải bông cho mỗi ngôi m4 bị di dời. Hai bên đường trồng hàng cây xoài và mít.

Góc bên phải của thành cổ (tòa án cũ) {Đây là tòa án quân (Conseil de geurre) vể sau là tòa đại sứ Mỹ tại SG, giờ là TLS Mỹ)} có cửa hàng lưu huỳnh (tường diêm); Trên địa bàn của Tòa án mới, khi đó có Xóm Vườn Mít hay Xôm Bót Vườn Mít. Có vẻ như ở đó có một đồn điền mít, và cư dân đã làm và bán bột. 







Trong khuôn viên nhà tù và tòa án mới, có một khu chợ tên là Chợ Đa Còm (chợ cây đa cong). Trên thực tế có một cây đa to lớn ở đó thân bị uốn cong. Ngoài các loại thực phẩm được bán ở đó, một dãy tiệm có trưng bày trống, lọng, yên ngựa, nón cử nhân, v.v.

Sau chợ này, vẫn bên phải, là chợ cũ. của Chợ Đũi (chợ lụa thô), nơi vuôn buôn bán loại tơ thô này. Xa hơn một chút, trước khi đến đường Thuân Kiêu (Lê Văn Duyệt/CMT8) là Xôm Đêm Buôm, khu vực làm vỉ buồm. Ngày nay, tên Chợ Dũi được gọi cho toàn bộ phần đầu của đường Boresse cho đến bên ngoài đường sắt.

Từ đường Thuân Kiêu đến trang trại ngựa giống, chúng ta thấy chợ Điều Khiển và Cây Da Thằng Mọi (Theo nhà nghiên cứu Huỳnh Minh thì 2 chợ này chỉ là một, về sau là chợ Thái Bình), có người nói hai chợ này là một; Cây Da Thằng Mọi có nghĩa là cây da của người nô lệ. Điều Khiển là danh hiệu quân sư (chức Điều khiển sự sở Gia Định do Trương Phước Vĩnh đảm nhiệm). Chợ được xây và khánh thành bởi một người đảm nhiệm. và mang tên chức vụ của ông.

Nhưng tại sao lại có tên này: cây da của người nô lệ? Đó là đến từ món hàng bày bán ở chợ này, là một loại chân đèn bằng đất nung, có hình một nô lệ da đen (người Lào), người đội một chiếc khay trên đầu, trong đó người ta đặt một cái ngâm trong dầu phọng hay dầu dừa.

Khu chợ này, kéo dài từ phía trước của ngôi nhà ông Blancsubé đến đường sắt, đầy những nhà và cửa tiệm. Trước khi đến trang trại ngựa giống, nước của cánh đồng mồ mã đổ vào trong rạch đi qua sau nhà 6ng Blancsubé (Jules, Marie BLANCSUBÉ (1834-1888). Sinh Gap (Hautes-Alpes), ngày 11 tháng 12 năm 1834, ông làm việc thời gian dài ở Nam kỳ như là luật sư biện hộ ăm 1863. Ông trở thành ủy viện hội đồng thành phố và thị trưởng vào năm 1879.) làm cho đoạn đường này luôn lầy lội. Nó được đặt tên là nước nhỉ, nước thoát ra nhiều.

Tại trại ngựa giống, chúng ta thấy chùa Kim Chương (Chùa Kim Chương (Kim Chương Tự), còn có tên là Phổ Quang Thiên Sơn Tự, Thiên Trường Tự, Sắc Tứ Phổ Quang Thiên Sơn Tự, là một ngôi "quốc tự", tọa lạc trên phần đất của làng Tân Triêm, thuộc Gia Định xưa nơi ngôi cổ tự tọa lạc, nay ở khoảng chùa Lâm Tế tại địa chỉ số 212A đường Nguyễn Trãi thuộc quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.), được xây dựng dưới Gia-Long, trên nền một ngôi chùa cổ Cam Bốt. Chùa trở nên nổi tiếng sau hai sự kiện ảm đạm mà lịch sử cho đến nay mới vén màn được một phần:

Vua Du (Duệ) Tông, chú của Gia Long, và hoàng tử Mục Vương, người đã rơi vào tay Tây Sơn, người ở Bassac (Cà Mau) năm 1776, người ở Ba Vâc (trước đây là tỉnh của Vïnh Long, ngày nay thuộc quận  Bên Tre, đông bắc của Mô Cày), ngay sau đó là Duê Tông, được cho là, bị hành quyết tại chùa này vào năm 1776.

Nơi là trại những người lính bản xứ An Nam ngày nay (sau là thành Aux mares) là đền thờ (Hièn Trung Tự, chùa của những người trung thành hiển vinh, còn gọi là Miéu Công Thần, chùa của những người phụng sự xứng đáng với quê hương). Được xây dựng theo lệnh của Gia Long, nó dành để tưởng nhớ người phụng sự cũ của ông mà triều đình, vào những thời điểm cố định, đã long trọng làm lễ và tưởng nhớ.

Trên đó có đặt những chiếc bài vị ghi tên từng người có công đã xuất sắc phục vụ triều đình. Những người Pháp chết vì phụng sự Gia-long cũng có ở đây.

Một ngôi chùa khác, hiện do các sĩ quan của những người lính bản địa chiếm đóng, nằm trước bức tường bao quanh và hai bên là hai ao trồng bông súng tỏa hương đường hoàng gia, được xây dựng vào thời Gia Long, mang tên Miếu Hội Đồng hay Miếu Thính.

Ở phía trước của hai ngôi chùa này, bên đường tới cả hai đầu giới hạn, có hai cột bằng gạch hoặc đá xây thật chắc. Trên các cột này có ghi dòng chữ: Khuinh Cai, Hạ Mâ (cởi nón, xuống ngựa).

Ở cuối con đường chạy dọc theo trang trại des Mares, tới đường stratégique (Hồng Thập Tự/ NTMK), có một ngôi chùa tên là Chùa Ông Phûc hay Chùa Phật Lớn, nay đã bị phá bỏ.

Sau ốngi thông gió nối với nguồn rạch câu Bà Đô chúng ta để ý đến lăng mộ của hai hoàng tử, Hoàng Thùy, Hoàng Trớt, con, của Nguyễn-Vân Nhac; Tại điểm này từng có một cái chợ gọi là Chợ Mai (chợ buổi sáng).

Trước đại lộ nhà thờ Chợ Quán, trong cánh đồng, có một ngôi chùa Kim Tiên, trên nền có ngôi chùa khác gọi là Nhơn Sơn Tự.

Đối diện với đại lộ de l'Hôpital, chúng ta tìm thấy chùa Gia Điền   ngày nay không còn tồn tại.

Từ đó đến Chợ Lớn, đầu tiên chúng ta tìm đến làng Xôm Bột, nơi bột được sản xuất và bán hai bên đường. Sau xóm này, chúng tai đến Chợ Hôm. (chợ nhóm vào buổi tối).

Phía sau chợ này vẫn còn chùa Trân Tượng, một trong những viên quan của Gia Long bị Tây Sơn giết chết. Gia Long y đã dựng lên ngôi chùa để vinh danh ông.

Trên một rạch nhỏ (nơi có chùa của nghĩa địa Tàu) có một cây cầu nhỏ tên là Câu Linh Yển. Tục truyền, một người lính tên là Yển, vác Gia Long trên vai. chạy trốn khỏi Tây Sơn đang truy sát. Đến cây cầu này người lính khác thay thế anh ta. Mệt mỏi, anh nán lại để nghỉ ngơi; Tây Sơn đến và giết anh ta. Gia Long dựng chùa để tưởng nhớ.Làng được gọi là Tân Thuân hay Hàm Luông.

Cây me lớn có nhiều quân dưới bóng mát gọi là Quân Bánh Nghệ. Từ đó đến đường des Marins (Đồng Khánh/THĐB) mật độ đông đúc của các nhà tạo thành Xôm Cốm và Xôm Chỉ.

Bây giờ chúng ta hãy dạo qua Chợ Lớn cũ, sau đó chúng ta sẽ trở lại Sài Gòn đi khắp những nơi sát bên phải cạnh đường cao (Route haute).

Chợ Lớn nằm ở vị trí của Chợ Rây ngày nay

Phần giữa đường des Marins đến rạch Chợ Lớn, nơi sinh sống của người Minh Hwang, người tàu lai ăn mặc theo phong cách An Nam và ka54p thành làng riêng biệt.

Rạch Chợ Lớn chen chúc các cửa tiệm lớn được xây bằng gạch, gọi là Tàu Khậu và cho những người Tàu đến từ Trung Hoa mướn mỗi năm một lần trên tàu biển. Họ đưa hàng của họ trong các cửa tiệm này, nơi họ bán sĩ hoặc bán lẻ trong thời gian họ ở Sài Gòn.

Cây cầu dẫn đến chợ lớn hiện tại được gọi là Câu Đường; đường kẹo đã được bán ở đó, thỏi, lọ, v.v.

Bờ kênh đi qua trước nhà của đốc phủ Chợ Lớn hình thành đường Phố Xếp, và cây cầu trên đường Cây Mai có tên là Cầu Phố.

Góc hình thành bởi các con kênh, từ chợ đến Cầu Sắt, thuộc làng Quới Đước, và chợ Chợ Kinh.

 Rạch Chợ Lớn từ cầu chợ (Câu Đường), cho đến Cầu Khâm Sai và Lò Gốm, được bao bọc bởi những ngôi nhà cách khoảng.

Chợ Lò Rèn, nơi có nhà thờ Chợ Lớn, là nơi sinh sống của thợ rèn và thợ làm dây kẽm (Quân Mậu Tài).

Đến Cây Mai, chúng ta gặp cây cầu có tên Câu Ông Tiểu.

Chùa Cây-Mai từng là chùa Cam Bốt, bao quanh là các ao nước, ở đó các lễ hội được tổ chức để tôn vinh Đức Phật. Chùa này đã được trùng tu bởi người An Nam. Dưới triều Minh Mạng, Nguyễn Tri Phiương, người đến Nam Kỳ với Phan Thanh Giân, đã xây cho chùa một gian ờ tầng trên.

Tên của chùa đến từ gò cây mai. Loài hoa màu trắng được người Tàu và An Nam đánh giá cao.

Tòa thanh tra hiện tại của Chợ Lớn từng là nơi làm việc của huyện Tân Long

Hãy quay lại, chúng ta đang ở Chợ Quán.

Tên Chợ Quán được đặt cho các làng Tân Kièng, Nhơn Giang, Bình Yên, là chợ nằm dưới những cây me lớn của đại lộ bệnh viện Chợ Quán. Có nhiều quán xá nên có tên là Chợ (chợ), quân (quán trọ).

Giữa đại lộ bệnh viện và trang trại Des Mares là làng đúc, Nhơn Ngãi (Nhơn Giang ngày nay). chúng ta ghi nhận những gì còn lại của một ngôi làng Cam Bốt cổ đại. Một chùa Cam Bốt lớn với những ngọn tháp bằng gạch ở trên cánh ruộng. Đào ở đó, ta tìm thấy những viên gạch Cam Bốt, hoa súng bằng đất nung, tượng phật nhỏ bằng đồng, bằng đá. Vẫn còn hai khối đá granit được mài nhẵn và khắc các bức phù điêu.

Từ Chợ Quán (Nhơn Giang) đến đường đi xuống Câu Kho, hai bên lề  có người sinh sống và rải rác những ngôi nhà bao bọc bởi những khu vườn.

Đầu đường Cầu Kho đến nhà Blancsubé cũng đã có nhiều chủ sở hữu. Từ thời Gia Long phần này rất đông dân cư khốn khổ ăn xin khi nhìn thấy quân Tây Sơn truy đuổi nhà vua. Gia Long, họ xúm lại đánh trống vang động kinh khủng.

Cuộc hành quân của Tây Sơn dừng lại: họ tưởng rằng họ gặp phải những trở ngại nghiêm trọng nếu phải vượt qua. Gia Long đã xây dựng những ngôi nhà cho những người ăn xin như một phần thưởng cho sự phục vụ đối với ông ta trong hoàn cảnh này.

Ấp này được gọi là Tân Lộc Phường.

Cây cầu bắc qua rạch, phía sau nhà Blancsubé, gọi là Câu Gao. vì gạo đã được bán ở đó. Ngày xưa, người Cam Bốt trồng lúa và làm chiếu ở đây.

Trước nhà Spooner, có bán loại lá trắng, Lá Buông, và một mật độ nhà tạo nên Xôm Lá Buông.

Từ đó đến khám đường, chúng ta có thể thấy ở bên lề của đường, những căn nhà theo kiểu bông thôn của các quan lại. Phần đầu của đường Boresse là Câu Quan (cầu quan lại).

Hãy đi lên rue Mac Mahon đến rue des Moïs; tòa pháp đình mới, dinh toàn quyền, trường trung học Chasseloup-Laubat thấy phía bên trái đều nằm bên ngoài thành cũ. Vào thời kỳ của đại thái giám, chúng ta thấy đây là nơi ở của vợ ông (dinh Bà Lớn), nhà giải trí của phó vương (Nhà Hoa), rạp hát và nôi bắn cung (Trường Ná).

Bên cạnh nhà của M. de Lanneau, chúng ta có thể thấy hai cây phi lao; đây gọi là Nền Xã Tắc ở, khu vực hình chóp dùng đề tế trời đất, Công viên thành phố có Xôm Lụa (ở đó lụa được tẩy trắng, chế biến và bán nó.)

Trên con đường stratégique, lên đến trang trại ngựa giống, chúng ta chú ý đến Xóm Thuân, Xôm Chậu và Xôm Cû Cai (ấp đồ gốm, cũ cãi và người trồng củ cải).

Rẽ phải và đi theo đường des Moïs cho đến cầu thứ hai (Cầu Bông) kênh Avalanche, chúng ta nhận thấy bên phải, trước nhà M. Potteaux, là nhà tù cũ của Sài Gòn, và xa hơn, bãi voi cũ, và ngôi chợ có tên Cho Vông nằm giữa nghĩa địa và cây cầu thứ hai.

Cây cầu thứ ba, Câu Xôm Kiệu (ngày nay là Tân Định), tới Chợ Xả Tắc, xưa là một làng lớn có 72 ngôi chùa.

Bây giờ chúng ta hãy đi xuống từ cây cầu thứ hai đến cửa rạch Avalanche.

Cây cầu thứ hai từng được gọi là Câu Cao Miên (Cầu Cam Bốt); sau đó đổi tên là Câu Hoa (Bông)

Chữ Hoa bị cấm vì tôn trọng tên của một trong những hoàng tử chính thất, nó đã được đổi thành Cầu Bông.

Rạch có tên là Tát Cầu Sơn được hai cây cầu bắc qua, câu đầu tiên được gọi là Cầu Sơn và câu thứ hai Cầu Lầu (cầu cao và có mái che). Còn tên Thị Nghè, hay Bà Nghè trao cho cây cầu đầu tiên, cũng như cho cây cầu Avalanche, đây là nguồn gốc của cầu ấy.

Con gái của Vân Trường Hầu, kết hôn với một học giả làm việc tại đầu tỉnh và có tước hiệu là Ông Nghè (tú tài hoặc người được cấp bằng), để thuận tiện cho việc đi lại trên rạch cho chồng bà, người hàng ngày đi đến các cơ quan, bà đã cho xây một cây cầu, đặt theo tên của ông, hay đúng hơn. danh hiệu: Thị Nghè hay Bà Nghè, Phu nhân của tú tài. Con rạch cũng nhận cùng một tên.

Trước bệnh viện của nữ tu Sainte-Enfance, ở Thị Nghè, là một thửa ruộng dành riêng cho tế lễ gọi là Tịch Điền (hạ canh). Cạnh đó là một hình chóp dùng để tế Thần Nông, vị hoàng đế Thân Nông, người đã phát minh ra nông cụ và là thần chủ trì nông nghiệp.

Khoảng điểm cầu này và bờ sông Sài Gòn, trên đầu kênh Avalanche, có một ngôi chùa lớn dành riêng cho việc thờ cúng thánh nhân (Khổng Tử).

 

Chuyến thăm của bạn đến Sài Gòn cổ kính và vùng phụ cận so với trạng thái hiện tại, cho chúng ta thấy tốc độ biến đổi vật chất mà thành phố này liên tiếp trải qua, mang bãn chất khiến người ta phải suy nghĩ về sự bất ổn trong cuộc sống con người.

Nhờ hoạt động của người Pháp, đất nước này gần như bỏ qua thế kỷ trước, tổ chức thành các làng, sau đó là nơi lưu trú các vị vua, rồi là thủ phủ lâm thời, bây giờ được lành mạnh hóa và chỉnh trang, để trở thành thủ phủ của sáu tỉnh và là một trong những thành phố đẹp nhất của Viễn Đông.

 

GHI CHÚ

 

Không phải là không có hứng thú khi mô tả nhân vật Lê Vân Duyêt, tài tình như một thưỡng thư, năng nổ như một vị tướng quân, thật khéo léo và nghiêm khắc trong vai trò một nhà cầm quyền.

Năm 1799, chính nhờ sự cứng cỏi và ý chí kiên cường, lạnh lùng của vị tổng trấn tả  quân này mà chiến thắng lẫy lừng, tuy đắt giá đã thu được tại cảng Thi Nai (Qui Nhon).

Chỉ dụ đầu tiên cấm đạo Công giáo và người châu Âu nói chung, ra lệnh phá dỡ các nhà thờ, được ban hành vào năm 1828 bởi Minh Mang.

Vị phó vương đang chứng kiến ​​một trận đá gà khi chỉ dụ về sự đàn áp đến với ông. "Tại sao," ông ta kêu lên, "chúng ta sẽ bắt bớ những người đồng đạo của Giám mục Adran và những người Pháp mà chúng ta vẫn ăn cơm của họ?" Không, ông ta nói thêm, liền xé bỏ chỉ dụ của vua trong sự phẫn nộ, miễn là ta còn sống, ta sẽ không làm điều đó, hãy để nhà vua làm những gì ông ấy muốn sau khi ta chết. "

Ông nghiêm khắc trong việc điều hành Hạ Nam Kỳ. Nó cũng là nỗi kinh hoàng của người Cam Bốt và Nam Kỳ. Quyền lực của ông trong việc kết án tử hình và thi hành bản án tử hình, trước khi báo cáo lên nhà vua và bộ hình, là sức mạnh duy trì hòa bình trong thời gian điều hành của ông ấy.

Một ngày nọ, trên đường đến Chợ Lớn, ộng ta tìm thấy ở bên đường Câu Kho một đứa trẻ khoảng bốn hoặc năm tuổi nổi loạn chống lại cha và mẹ của mình và nguyền rủa họ. Ông muốn dừng lại để nắm bắt lấy nó, nhưng lại thay đổi ý định, tiếp tục đi. Đến tối khi ông về thì vẫn nghe cô tiếng chửi rủa nó đối với cha mẹ trong bữa ăn, Ông ta dừng lại và xin phép cha mẹ đưa nó ra. Ông ta ra lệnh cho nó ăn một lần nữa bằng một cặp gậy có hai đầu đảo được có chủ đích bởi một mệnh lệnh bí mật.

Đứa trẻ lật chúng lại bình thường và bắt đầu ăn. Tổng trấn đã bắt nó và chặt đầu ngay tại chỗ, nói rằng đứa trẻ này có đủ trí thông minh để hiểu được mức độ to lớn của tội ác mà nó đang phạm phải.

Một lần khác, đang đi vào thành phố, phó vương thấy một tên trộm đã lấy đi một cuộn giấy thuốc lá và bỏ chạy. Ông ta đã bắt hắn và chặt đầu ngay tại chỗ mà không cần phán xét gì cả.

Ông đã nghĩ rằng nhiệm vụ của mình là phải mở đấu bộ máy cai trị Nam Kỳ bằng sự nghiêm khắc và chặt chẽ quá mức trong việc áp dụng luật chống tội phạm.

Ví dụ đầu tiên của ông ta về tính cách tàn nhẫn là việc hành quyết một trong những người thư lại của ông ta. Viên thư lại rời nôi làm việc, ra cửa thành gập một người bán cháo hoặc đồ ngọt. Muốn chọc ghẹo, anh ta đưa tay lấy hộp trầu mà người lái buôn để trên nắp giỏ. Cô kêu lên bị trộm. Viên thư lại, bị bắt quả tang, bị chém đầu ngay tại chỗ theo lệnh của Lê Vân Duyêt và không có bất kỳ hình thức xét xử nào nữa. Chẳng bao lâu, tiếng vang của bản án này đã gây kinh hoàng khắp Nam Kỳ.

Để có được sự kính trọng và nể sợ của người dân Cam Bốt, ông đã đến Oudong với tư cách đặc phái viên và đặc mệnh toàn quyền. Ngồi trên đài cao cạnh vua, ông ăn kẹo đường phèn và uống trà. Những người Cam Bốt, khi nghe thấy ông đang nhai rào rạo dưới răng những cục đường, đã hỏi các quan lại An Nam có mặt tại buổi tiếp tân này xem Tướng trời đang ăn gì. Được trả lời rằng đó là đá và sỏi mà ông ta đang nhai.

Cam Bốt nằm dưới sự bảo hộ của An Nam, nhà vua của đất nước này có nghĩa vụ hàng năm phải đến Sài Gòn để tỏ lòng thành kính với vua An Nam trong chùa hoàng gia, cùng lúc với phó vương của triều đình. Nhà vua đi cùng với đại diện chính quyền bảo hộ đến vào đêm giao thừa; nhưng thay vì vào Sài Gòn, ông ta qua đêm ở Chợ Lớn. Đến buổi sáng mùng 5, tổng trấn tiến hành, theo tiếng nhạc, hành lễ mà không cần đợi nhà vua. Nhà vua đến khi buổi lễ đã xong; ông ấy đã bị lên án không thương tiếc chịu khoản phạt 3.000 franc mà ông ta buộc phải nộp trước khi trở về Cam Bốt.

Ông say mê chọi gà, hài kịch và xem tuồng. Ông ấy đã tự mình nuôi các đào kép và có rạp hát của riêng mình. Các tòa nhà được sử dụng cho tất cả các trò giải trí này nằm bên ngoài bức tường của thành cổ, trên khu đất hiện là Dinh toàn quyền và trường trung học Chasseloup Laubat.

Người An Nam nói rằng cị tả quân vĩ đại này có một cái gì đó uy nghiêm trong con người của ông và đặc biệt là trong đôi mắt của ông.

Người ta nói rằng những con cọp mà ông nuôi để chiến đấu, sợ ông và tuân theo tiếng nói của ông. Những con voi không thuần hóa lúc đông dục cũng sợ hãi chỉ có mình tổng trấn. Con lớn hơn và nhỏ hơn được gọi là Voi Vinh, thường có vấn đề như thịnh nộ, nó tàn phá mọi thứ, làm vướng víu và lật ngược mọi thứ trên đường đi của nó. Vị phó vương, được thông báo ngay lập tức, leo lên chiếc kiệu không có mái che của mình, đến thẳng trước con vật to lớn này, ông gọi tên nó và ra lệnh cho nó bình tĩnh. Con vật như hiểu ra, lập tức mềm nhũn.

Trong khu cánh đồng mồ mã, tôi sẽ chỉ đề cập đến một số lăng mộ nổi tiếng, hoành tráng và có giá trị lịch sử.

Mọi người đều biết người ở cạnh đường tàu điện gần nhà Vandelet. Ngôi mộ này được xây dựng bởi sự chăm sóc của Minh Mang để tưởng nhớ cha vợ của ông là Hùynh Công Lý, người đã bị chặt đầu theo lệnh của phó vương Lê Văn Duyêt. Hùynh Công Lý là quan trân tỉnh Gia Định (Sai-gon). Trong một chuyến đi của Phó vương ở Huê, ông này có quan hệ bất chánh với các bà vợ của Lê Văn Duyệt. Trở về từ kinh đô, phó vương thông báo về hành vi bất chánh của thuộc hạ, xử tử hình mà không có lý do nghiêm trọng và không quan tâm đến Minh Mang.

Ngôi mã lớn mà chúng tôi nhận thấy bên cạnh ngôi mã của giám mục Adran, là của Ta Dinh, anh trai của phó vương Lê Văn Duyệt, người đã chết trước  ông.

                                                                              (Hết)


Thứ Tư, 4 tháng 8, 2021



 HỒI ỨC LỊCH SỬ

SÀI GÒN VÀ NHỮNG VÙNG PHỤ CẬN

 

DIỄN THUYẾT TẠI TRƯỜNG TRUNG HỌC THÔNG NGÔN

 CỦA M. P. TRƯỜNG VĨNH KỲ

 

 

Thưa quý vị,

Thành phố Sài Gòn đã trải qua một bước chuyển mình hoàn toàn kể từ ngày lá cờ Pháp thay thế lá cờ vàng của người An Nam trên vùng đất này. Sự thay đổi này, bắt đầu vào năm 1859, đã diễn ra dần dần không dừng lại, và chúng ta chắc chắn dáng vẻ thú vị hiện nay của thủ phủ Hạ Nam kỳ.

Hôm nay tôi muốn phác họa lại bức tranh xưa và nay của Sài Gòn, đặt ra trước mắt hai sư mô tả này, để làm nổi bật sự so sánh, sự khác biệt của hai trạng thái văn minh của hai thời kỳ chỉ cách nhau 1/4 thế kỷ.

Để được lưu giữ ký ức về một địa điểm, đặc biệt đó là bối cảnh của rất nhiều sự kiện liên tiếp trong khoảng thời gian ngắn, cái này xóa sạch cái kia.

Dấu vết lịch sử là mắt xích nối liền với nhau giữa kỷ nguyên của các dân tộc, và thường là những tình huống đã biến mất trong quên lãng của thời gian. Ký ức về các sự kiện mất dần theo tỷ lệ với số thế hệ bao trùm chúng. Những cuộc cách mạng liên tục này là điều kiện cần thiết cho sự sống của vạn vật và các dân tộc; nhưng ký ức của sự kiện sẽ bị thay đổi nếu lịch sử không kịp ghi lại để bảo tồn tình trạng này.

Một Sài Gòn, mà chúng ta nhìn thấy một cách bàng quan ngày nay, đã chứng kiến ​​những sự kiện hầu nhưng lại không thu hút sự tò mò của chúng ta vì vẫn chưa đi lvào lĩnh vực lịch sử, nhưng điều đó lại thích thú bởi những người kế tục của chúng ta. Đi khắp Sài Gòn xưa, đến thăm tất cả các lãnh vực và ghi lại những quan sát về mặt địa lý và lịch sử.

Sài Gòn ngày xưa là gì? Trước và trong thời Gia Long? Dưới thời Minh-mang, Thiêu Tri và Tự Đức? Diện mạo như thế nào khi trước người Pháp đến?

 

Cái tên Sài Gòn

 

Trước khi miêu tả thành trì cổ này, chúng ta phải tìm xem cái tên đến từ đâu mà chúng ta có ngày hôm nay.

Sài Gòn là tên được đặt cho thành phố của tàu hiện nay. Dựa theo tác giả của Gia Đinh Thông Chi. Sài được mượn từ chữ Hán có nghĩa là gỗ; Gòn là tên của bông trong tiếng An Nam hay cây bông gòn. Người ta nói rằng cái tên này xuất phát từ số lượng những cây bông mà người Cam Bốt đã trồng xung quanh các công sự bằng đất cũ của họ, mà dấu vết của nó vẫn còn tại chùa Cây Mai và các khu vực xung quanh.

Đối với chúng tôi, dường như cái tên này chỉ có thể là của người Cam Bốt đã gán cho nơi này và. sau đó đã được áp dụng cho thành phố. Tôi vẫn chưa thể tìm ra nguồn gốc thực sự của tên này.

Thành phố Sài Gòn được người Pháp gọi như vậy đã tìm thấy trong các bản đồ địa lý châu Âu, được đặt dưới cái tên tổng quát nhưng nôm na này. trước kia được gọi cho toàn bộ, tỉnh Gia Định.

 

Sài Gòn trước triều Gia Long

 

Sài Gòn trước triều Gia-long dường như chỉ là một làng của Cam Bốt. Tuy nhiên, vào năm 1680, trong một giai đoạn thời gian, là nơi cư ngụ của vị vua thứ hai của Cam Bốt,

Theo lịch sử, vùng đất này đã bị xâm lược một cách hòa bình bởi Người An Nam, dưới sự thúc đẩy của triều đình Huế, vào năm 1658, dưới thời trị vì của Nguyễn Hiến Vương, chúa phương nam.

Sau khi chinh phục Ciampa (Chiêm Thành) bằng cách đẩy lùi những cư dân có cựu, người An Nam trỏ thành hàng xóm của người Cam Bốt (người Khmer), mà tinh thần, bị ảnh hưởng bởi những thành công của người An Nam (con vua trời). Quá trình thuộc địa hóa ngay lập tức diễn ra lớn nhanh hơn nhiều, khi thời cơ các bang hội người Tàu của nhà Minh, được triều đình Huế cho phép và khuyến khích. Năm 1680, hai viên quan cao cấp của quân Minh, thích phục vụ người An Nam hơn là nhà Thanh, bọn Mãn châu man rợ, những kẻ mới chinh phục Trung Hoa, đã đến Tourane trong 60 chiến thuyền, theo sau là 3.000 binh lính, trong ý định định cư lại ở đó. Họ đã gửi một yêu cầu cho mục đích này với Chúa của Huế. Vua Annain, sau khi đãi tiệc, đã ban thư cho vua Cam Bốt và xin phép cho họ đến Nam Kỳ định cư để khai phá vùng đất hoang hóa rộng lớn ở đó. Khi đến Đông Nai, họ chia làm hai nhóm, một nhóm đi về hướng Đông Nai (Biên Hòa), nhóm còn lại đi về hướng Mỹ Tho.

Hai vị vua của Cam Bốt: một, vị vua đầu tiên, tại Gò Bích; người kia, vua thứ hai, ở Sài Gòn. Người thứ hai, thấy mình bị đe dọa, một bên là người Tàu ở Mỹ Tho và một bên cũng là người Tàu ở Biên hòa, đã viết thư cho vua Huế để cảnh cáo về mưu đồ của những người theo hầu ông.

Vua Huế tự cho mình là người phân xử sự tranh chấp và làm trung gian giải quyết giữa họ. Ông ủy nhiệm việc thực hiện này cho Tướng Vạn vào chinh phạt người Tàu và vua Gò Bích, người trú ẩn sau pháo đài, chắn sông Mekong với dây xích sắt và làm cản trở việc buôn bán của người An Nam.

Sau khi đánh bại quân Tàu ở Mỹ Tho, vị tướng này chuyển đến Gò Bích. Vị vua đầu tiên, Nặc Ông Thu đã thoái vị đang ở Au Dông (Oudong, còn được gọi là Udong hay Odongk, là cố đô của Cam Bốt từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19;) và cuối cùng ông đã ký một hiệp ước với tướng An Nam, xong ông rời Cam Bốt và trở về Bën Nghé (Sài Gòn).

Một năm sau (1684) Nặc Ông Thu bất tuân với việc thi hành hiệp ước, Nguyễn Anh Tông (vua Huế) sai Nguyễn Hữu hào tuyên chiến với ông. Quốc vương Cam Bốt bị bắt đi tù và khi đến Sài Gòn, ông chết do bệnh tật. Vua thứ hai, đang cư trú tại Sài Gòn, cũng đã băng hà.

Con trai của ông là Nặc Ông Yểm được người An Nam đặt lên ngai vàng ở Gò Bích.

Sự can thiệp của triều đình Huê đã dẫn đến một cuộc di cư của những người khai phá An Nam, những người được triều đình khuyến khích, dần dần chiếm đóng cả vùng đất, mà một ngày nọ, vào năm 1699, cho phép Nguyễn Hiền Vương, người kế vị Nguyễn An Tông, thành lập các trấn, phủ, tổng và làng mạc và tạo ra cho vùng đất này một chánh quyền tương tự của phần còn lại của vương quốc An Nam. Trước hết, Biên Hòa và Gia Định tự hợp thành một phủ, chia thành hai huyên. Từ đó có tên người hai huyên, khi nói về cư dân Biên Hòa và Gia Định.

Tây Sơn (cư dân miền núi phía tây), Nhạc, Lữ và Huệ khởi nghĩa vào năm 1772 chống lại Huế; họ Trinh (Trinh Sum) đã đến tấn công cùng lúc thành Huế. Chúa Nguyễn Dụ Tông cùng các cháu là Mục Vương và Nguyễn Ánh (sau là vua Gia-long) lánh nạn năm 1774 tại Gia Định (Đồng Nai), Sài Gòn.

Suót mười lăm năm, Gia Long bị truy đuổi và săn lùng bởi Tây Sơn. Thỉnh thoảng ông quay lại Sài Gòn, nhưng ở đó ít vì bị kẻ thù, từ Qui-nhon, đánh bật. liên tục..

 

Sài Gòn dưới triều Gia Long

 

Đó là vào năm 1789, Gia-long, sau khi tiếp quản Sài Gòn, trước đó do Tây Sơn chiếm đóng, đã xây dựng thành lũy đầu tiên., trong đó chúng tôi sẽ cho biết vị trí và dấu vết, trên vùng đất Sài Gòn ngày nay. Năm 1788, M. Pigneaux de Behaine, Giám mục Adran, đại diện tông tòa ở Nam Kỳ, người đã mang theo hoàng tử Cânh, con trai Gia-long, sang Pháp, để nhờ giúp đỡ, đã trở về Sài Gòn với các sĩ quan Pháp. Gia-Long đã láy lại Sài Gòn và dần thiết lập

 

Xây dựng thành cổ Sài Gòn

 

Năm sau, Gia-long cho xây dựng thành cổ: Sài Gòn dưới sự chỉ huy của Ông Ollivier, sĩ quan công binh,

Nó có dạng gần như bát giác (sơ đò do Gia Long đua ra) với tám cửa ra vào theo kiểu Bát Quái (tám quẻ của bói toán Trung Hoa) đại diện cho bốn phương trời cùng vời các phân hướng.

Thành lũy, cùng các mương và cầu, xây bằng đá lớn Bièn Hòa. Chiều cao của bức tường là mười lăm khuỷu tay An Nam (5 met. 20)

Ở giữa thành, nơi có cột cờ, nằm ở vị trí ít gần nhà thờ hiện nay (Nhà thờ Đức Bà). Có thể thấy từ khoảng cách xa, trên đầu ngọn phi lao. Thành trải dài: từ nam ới bắc, từ đường Mac-Mahon (Công Lý/Nam Kỳ Khởi Nghĩa) đến bức tường thành bị phá hủy (vị trí ngả tư Cường Để/Tôn Đức Thắng và Thống Nhứt/Lê Duẩn) và được người Pháp đắp lại bằng đất và, từ đông sang tây, từ đường Espagne (Lê Thánh Tôn) tới đường des Mois (Phan Đình Phùng/Nguyễn Đình Chiểu).

Về phía đông, hai cửa trước mở ra (cửa tiền). Một cái tên Gia Định Môn, nhìn vào bùng binh và kênh chợ Sài Gòn (Lúc này là kênh Chợ Vãi/Nguyễn Huệ và chợ Sài Gòn cũ); cái kia, tên là Phan Yến Môn, nằm về phía trại pháo binh, trên con đường dẫn xuống kênh đào của Kênh Cây Cám (Đường Lê Thánh Tôn hiện nay).

. Phần sau, về phía Tây, cũng có hai cửa. Vọng Khuyết Môn và Cộng Thìn Môn, theo hướng cầu thứ hai và thứ ba (Cầu Bông và cầu Xóm Kiệu) của kênh Avalanche (Thị Nghè). {Đó là 3 cầu: Cầu Sắt, Cầu Bông và Cầu Kiệu}

Phần bên trái về phía bắc, có hai cửa, Hoài lai Môn, Phúc Viên Môn, trên kênh Avalanche (cầu đầu tiên)

Phần bên phải thành có cửa Bình Môn. và Tuyên Hòa Môn, nằm ở đường Mac Mahon; một trên đường stratégique (Hồng Thập Tự/Nguyễn Thị Minh Khai), một trên đường route haute de Chợ Lớn (Nguyễn Trãi)

Thành này đã bị Gia Long chiếm đóng trong hai mươi hai năm, là nơi mà ông ta tới hàng năm trong cuộc chinh phạt chống Tây Sơn, vào những lúc gió mùa thuận lợi.



Vị trí thành Bát Quái (Thành Quy) so với bản đồ Sài Gòn

 

Khi lễ tang của Giám mục d'Adran diễn ra tại Sài Gòn trong giai đoạn này. Chúng tôi mạn phép nói xa đề một chút về buổi lễ này mà tôn giáo và ngai vàng đã hỗ trợ quan trọng với nhau.

Ngài d'Adran, sau khi từ Pháp trở về, cư ngụ tại Sài Gòn, trong một ngôi nhà mà Gia-long đã xây cho ông ở góc phố ngoài thành lũy, ở chổ bây giờ là kho đạn, gọi là Dinh Tân Xá. (Vị trí đầu tiên của Dinh Tân Xá là trong Thảo cầm viên, sát cầu Thị Nghè ngó sang khu vực mà thời Pháp gọi là Kho Đạn. Về sau Dinh Tân Xá được dời về Tòa Giám Mục Sài Gòn, đường Phan Đình Phùng/Nguyễn Đình Chiểu), Dân theo đạo thiên chúa ở Thị Nghè có nhà thờ gần đó, bên bờ kênh Avalanche, và là một phần của giáo xứ Tân Sơn, nơi có lăng của giám mục.

 

Đức Ngài có một ngôi nhà theo kiểu nông thôn, thỉnh thoảng được dùng để thư giãn cùng với hoàng tử Cânh, học trò của Dức Ngài.

Hoàng tử Cânh được cử đến bao vây Quy Nhơn. Đức cha, trước sự thúc giục của Gia Long, đã đi cùng để phục vụ như là cố vấn. Nhưng, sau ba mươi ba năm sống rất sóng gió và vất vả, ông đã bị tấn công bởi bệnh kiết lỵ cấp tính, vào lúc này, tình trạng này càng trở nên trầm trọng hơn bởi các khó khăn tinh thần.

Gia-long, được thúc đẩy bởi tình cảm chân thành dành cho giám mục, người đã cung cấp cho ngài những trợ giúp tốt nhứt, cử những thầy thuốc giỏi nhất để bằng mọi cách bảo toàn mạng sống của ngài. Hoàng tử Cảnh ngày nào cũng đến thăm thầy, còn Gia  Long cũng mấy lần đến thăm ân nhân của mình, bất chấp lo ngại về sự bao vây Quy Nhơn, xé lòng vì cảm kích. Vào ngày 9 tháng 9 năm 1799, giám mục qua đời trong vòng tay của M. Lelabousse, nhà truyền giáo đã đồng hành với ngài; ông thọ 58 tuổi. Gia Long nhận được tin buồn về cái chết của vị khách lẫy lừng, đã gửi một chiếc quan tài lộng lẫy và lụa để bọc thi thể. Vào ngày 10, Ngài được lên một trong những con tàu của nhà vua trở về Sài Gòn, nơi chôn cất ngài.

Đến Sài Gòn vào ngày 16, thi hài ngài được vào ngôi nhà giám mục và quàn tại đó trong hai tháng.

Hoàng tử Cành, người đã đi cùng thi hài của thầy, coi mình như một đệ tử, như một người con cả của vị giám mục, thầy của ông, người mà ông đã chịu tang lớn. Anh ta đã cho dựng một ngôi nhà tạm trước Tòa giám mục. Ông ở đó ngày đêm và tiếp đón nhiều quan lại. đến từ tất cả các vùng của vương quốc để kính viếng người đã khuất lừng lẫy trong tang lễ.

Gia Long cuối cùng cũng trở về từ Quy NHơn. Để thể hiện lòng biết ơn của mình đối với vị giám mục, ông muốn chủ trì tang lễ. Đám tang diễn ra vào ngày 16 tháng 12 tại Tân Sơn, cách 5 cây số từ Sài Gòn.

Hoàng tử Cảnh phụ trách dẫn đầu đám tang bắt đầu khởi hành khoảng hai giờ sau nửa đêm.

Một cây thánh giá lớn, được làm bằng những đèn lồng được xếp một cách nghệ thuật ở đầu đoàn đưa đám, theo sau là sáu tán (bài   vị) được chạm khắc phù điêu và mở, và được mạ vàng trên nền đỏ. Chúng được đặt trên những chiếc bàn trang trí và do bốn người khiêng mỗi chiếc.

Trong cái đầu tiên, bốn ký tự vàng, Hoàng thiên chúa tể (vị chúa tể của bầu trời); trong cái thứ hai là hình Thánh Paul và trong cái thứ ba là Thánh Peter, vị thánh bản mệnh ngài d'Adran. Cái thứ tư là của thiên thần bảo hộ, cái thứ năm là của Đức Trinh Nữ Maria. Sau đó, xuất hiện một lá cờ bằng vải hoa, dài khoảng mười lăm bộ, trên đó có thêu các ký tự bằng vàng các danh hiệu được các vị vua của Pháp và Nam Kỳ phong tặng cho Đức Cha D’Adran cùng các phẩm chức tôn giáo. Một chiếc cáng mang theo cái thứ sáu, trong đó người ta có thể nhận thấy huy hiệu của vị giám mục, gậy quyền và mũ lễ, đi trước xe tang. Những chiếc kiệu và bài vị này đi cùng với một số lượng lớn thanh niên Cơ đốc và các giáo lý viên từ các nhà thờ ở Nam Kỳ.

Quan tài của giám mục được bao phủ bởi một loại gấm hoa tuyệt đẹp, Đóng khung trong hai ngăn chồng lên nhau, mỗi vạch chứa 25 ngọn đèn cầy lớn được thắp sáng. Một chiếc kiệu đẹp dài khoảng 20 bộ, được tám mươi người đàn ông tuyển chọn khiêng, được che bằng một cái tán bằng vàng, che cho chiếc quan tài tráng lệ.

Đội cận vệ của nhà vua, gồm hơn mười hai ngàn người, không kể số lượng riêng của hoàng tử, con trai của ông, võ khí trong tay, xếp hàng hai, súng thần công dã chiến dẫn đầu. Trăm hai mươi con voi võ trang xung trận cùng đoàn hộ tống và quản tượng đi hai bên. Trống, kèn, quân nhạc An Nam và Cam B6t đi theo đám tang ảm đạm được chiếu sáng bởi một số lượng lớn những ngọn đèn cấy và ngọn đuốc cùng hơn hai ngàn đèn lồng hình dạng khác nhau. Ít nhất bốn mươi ngàn người, người theo đạo Thiên chúa và người ngoại giáo, đi theo đám tang.

Vua Gia Long tham dự cùng mẹ, chị gái, hoàng hậu, cô trẻ em, tất cả các phu nhân của triều đình và các quan lại của các bộ khác nhau. Tất cả đều muốn chứng kiến cho sự tiếc thương của họ đối với vị giám mục lỗi lạc và nhân đức đã không còn nữa, tháp tùng thi hài của ngài đến ngôi mã được chuẩn bị sẳn.

Tới huyệt mã, nhà vua để M. Liot, nhà truyền giáo, có thời gian cần thiết để thực hiện các nghi thức Công giáo.

Lễ an táng theo Công giáo đã hoàn tất, Vua Gia Long, tiến lên nghiêm trọng, giong hằn vẻ đau đớn và đôi mắt ướt đẫm, thốt lên điếu văn do nhà vua soan và đó là sau đó được chép lại trên lụa thêu và trao cho giám mục dưới dạng một bằng truy tặng các tước vị hoàng gia. Hiện nó được đóng khung và trưng bày trong phòng khách tại Tòa giám mục Sài Gòn ( Căn cứ theo bài ciễn thuyết của ông được in vào năm 1885 thì lúc này tòa Giám mục nằm ở góc ngả tư Norodom/Thống Nhứt/Lê Duẩn và Pellerin/Psateur chứ không phải bên đường Phan Đình Phùng/Nguyễn Đình Chiểu thành lập năm 1900).



Vị trí đầu tiên của Dinh Tân Xá



Vị trí Tòa Giám Mục đầu tiên về sau là Bộ Ngọai Giao VNCH

 

. “Trậm có một bậc hiền nhân, người bạn tâm giao hiểu được tâm tư thầm kín nhất của trậm, bất chấp khoảng cách hàng ngàn dặm, đã nhìn thấy những tâm trạng của trậm và không bao giờ rời bỏ tôi, ngay cả khi tài sản tôi không còn. Tại sao như thế này, hôm nay, sự việc lại lại đến dưới ngọn cờ của trậm, vào thời điểm chúng ta đoàn kết nhất, mà một cái chết sớm và không đúng lúc lại đến, chia cắt chúng ta mãi mãi? Trậm đang nói về Pierre Pigneaux, giám mục Adran, luôn ghi nhớ trong tâm trí những đức tính của ngài, trậm muốn là chứng nhân của lòng biết ơn. Trậm nợ ngài những giá trị hiếm có. Nếu ở châu Âu, ngài được coi như là một người có tài năng siêu việt thì ở đây, ngài được coi là một người ngoại quốc lừng lẫy nhất triều đình Nam Kỳ. Ngay từ thời thanh niên, trậm đã may mắn được gặp người bạn đáng quý này, người có tính cách rất phù hợp với trậm. Khi trậm bước những bước đầu tiên để lên ngai vàng của tổ tiên, trậm đã có ngài ấy bên cạnh. Đó là một kho tàng phong phú đối với trậm, nơi trậm có thể rút ra tất cả những lời khuyên cần thiết để dẫn dắt bản thân. Nhưng đột nhiên, ngàn vạn tai họa giáng xuống vương quốc trậm, đôi chân trậm trở nên loạng choạng như Thiêu Khang nhà Hạ, đành phải đứng về một phía ngăn cách như trời với đất. Nhưng, ngài thầy kính mến, đã nắm giữ sự nghiệp của chúng ta bằng một bàn tay kiên định và trung thành, giống như bốn lão hiền nhân tên Hao đã khôi phục vị thế cho thái tử của hoàng đế Hãn Cao Tổ! Trẩm đã giao Thái tử cho ngài, khi ngài chấp nhận sứ mệnh đi trình bày những mong muốn của trẩm đến nhà vua vĩ đại đang trị vì đất nước của ngài. Ngài đã dành được một số sự cứu giúp cho trẩm. Họ đã đi được nửa chặng đường, cho dù khi dự tính của ngài gặp phải những trở ngại khiến họ không thể đạt kết quả. Mặc dù vậy, ngài đã trở lại bên cạnh trẩm, coi kẻ thù của trẩm như kẻ thù của ngài, tìm kiếm cơ hội và phương tiện để chống lại chúng. Năm 1788, khi lá cờ của tôi xuất hiện trở lại ở Sài Gòn, trẩm đã nóng lòng chờ đợi một số thông tin vui vẻ báo ngài trở về từ Pháp. Và vào năm 1790, thuyền của ngài đã đến vùng biển Nam Kỳ. Từ cách khéo léo và dịu dàng mà ngài đã dạy cho hoàng tử, con trai của trẩm, người mà bạn mang về, rõ ràng là thượng đế đã đặc biệt ban tặng cho ngài lòng dạy dỗ và hướng dẫn cho tuổi trẻ. Lòng kính trọng và tình cảm của trẩm dành cho ngài lớn lên từng ngày. Trong những thời điểm khó khăn, ngái đã cung cấp cho chúng tôi những phương tiện mà chỉ ngài mới có thể tìm thấy. Sự khôn ngoan trong lời khuyên của ngài và đức tính tỏa sáng ngay cả trong cuộc trò chuyện vui vẻ của ngài đã đưa chúng ta ngày càng gần nhau hơn; chúng ta đã là bạn và thân thuộc với nhau đến nỗi khi cuộc chiến đấu gọi trẩm ra khỏi cung điện, ngựa của chúng ta tiến ra mặt trận. Chúng ta chưa bao giờ có chung một trái tim. Kể từ cái ngày mà chúng ta gặp nhau ngẫu nhiên hạnh phúc nhất, không gì có thể làm thay đổi tình bạn, sự cống hiến lẫn nhau và tin tưởng vô hạn đã đánh dấu mối quan hệ của chúng ta. Trẩm tính rằng sức khỏe thăng hoa này sẽ khiến trẩm được nếm trái ngọt của tình đoàn viên khăng khít trong một thời gian dài sắp tới! Nhưng bây giờ cát bụi vừa phủ lên cây cao bóng cả xinh đẹp này! Thật là tiếc nuối cay đắng!

 Để cho mọi người thấy công lao to lớn của người ngoại quốc lừng lẫy và lan tỏa bên ngoài mùi thơm của những đức tính mà ngài ấy luôn khiêm tốn che giấu, trẩm sắc phong banh hiệu thái phó của thái tử, phong cho ngài phẩm giá và danh hiệu của quàn công và đặt tên cho ngài là Vẹn toàn (Trung Ý). Chao ôi! Khi cơ thể khuỵu xuống và linh hồn tiếp tục bay về trời, ai có thể giữ nó bằng xiềng xích? Trẩm hoàn thành bài điếu văn ngắn này, nhưng sự hối tiếc của trảm sẽ không bao giờ kết thúc. Ôi tâm hồn cao đẹp của thầy! Xin nhận được lòng kình trọng này! "

Sau bài điếu văn này, các giáo sĩ và những người theo đạo ra về và nhà vua, một mình với các quan, dâng lên nghi thức cho linh hồn của người chết; sau vua, Hoàng tử Cảnh và các quan đại thần đọc điếu văn. tang lễ.

Nhà vua cho dựng kên một lăng tẩm sang trọng phủ lên những gì còn sót lại của vị khách trung thành có những cống hiến lỗi lạc được công nhận, và ban cho ngài một đội canh gác danh dự năm mươi người. Ngôi mộ này đã trải qua sự vững bền, được bảo vệ bởi ký ức về người cha lớn (cha cà), theo cách gọi của người An Nam) và bởi sự sùng bái cái chết, đó là một trong những đức tính của người An Nam.

Sau khi chiếm đóng, Pháp muốn ngôi mã của những người con tận tụy nhất của đất nước mình ở Viễn Đông được nâng lên hạng một di tích quốc gia!




Cuối cùng vào năm 1811, Gia Long về Huế và cai trị toàn An Nam, từ Bắc Kỳ đến Nam Kỳ. Lê Văn Duyèt, người chiến thắng ở cảng Thị Nại (Bình Đinh), được bổ nhiệm làm Tổng trấn Hạ Nam Kỳ. Ông ta ở tại Sài Gòn. Nơi ở chính thức của ông ở phía sau Hoàng cung (chùa hoàng gia), nay là Đại lộ Norodom, gần tòa giám mục (khu vực về sau là trụ sở hảng Esso và lãnh sự Pháp). Còn vợ của ông thì ở khu vực Dinh toàn quyền bên ngoài thành lũy và tường thành (Ngoài 2 nơi ở đã nói thì nguyên khu đại lộ Norodom (Thống Nhứt/Lê Duẫn), dinh toàn quyền (Độc Lập/Thống Nhất), vườn Maurtce Long (Tao Đàn) và trường Chasseloup Laubat (Lê Quý Đôn) thuộc quyền sở hữu của ông.)

Hãy cùng nhau xem qua sự trị vì của thái giám vĩ đại này sống ở Sài Gòn cổ kính này, từ lúc ông ta còn sống đến khi qua đời. Lè Vân Duyêt, khi đó được gọi là Ông lớn Thượng, đã cai trị đất nước này một cách hòa bình dưới thời Gia-long và phần đầu của triều đại Minh Mang, thỉnh thoảng ông vẫn tiến hành các cuộc viễn chinh chống lại người Cam Bốt nổi dậy. Ông ta là nỗi khiếp sợ của người Cam Bốt; người cầm quyền An Nam giỏi, công bằng, cương nghị và thậm chí quá đáng. Ông là đaỊ diện toàn quyền, được trời phú cho những khả năng phi thường, người lãnh đạo bất khả xâm phạm, miễn tội chết; có quyền kết án tử hình và thi hành án mà không cần phải có sự xác nhận của Bộ Hình. Ông ta chỉ yêu cầu lập một báo cáo đơn giản sau cuộc hành quyết. Nhờ sức mạnh này mà ông đã hoàn toàn bình định đất nước.

Không đi sâu vào chi tiết về cuộc sống riêng tư hoặc công khai của ông ấy, chúng ta hãy nhìn vào sự nghiệp hành chánh của ông ấy.

Vì ông ấy rất thích chiến đấu, đã thiết lập một một loại đấu trường để xem người đánh với cọp hoặc voi. Ông cũng đam mê chọi gà và tuồng tích (Vị trí trường Chasseloup Laubat/Lê Quý đôn là nơi đặt sân khấu hát bộ). Những trò giải trí này đã chiếm hết thời gian nghỉ ngơi của ông.

Mỗi năm, ngay sau tết, ông tổ chức duyệt binh cho sáu tỉnh tại Sài Gòn, ở đồng mồ mã (Đồn tàp tràn) hay cánh đồng đa giác ngày nay. Cuộc duyệt binh này được xem xét dưới mối quan hệ kép chính trị và tôn giáo hoặc đúng hơn là mê tín. Mục đích là để phô trương rằng đã sẵn sàng để trấn áp mọi rối loạn và đồng thời để xua đuổi những linh hồn xấu xa. Đây là cách thực hiện cuộc duyệt bình Ra Bình này:

Vào đêm trước ngày mười sáu tháng giêng của năm mới, sau khi ăn chay và kiêng khem, ông phẩm phục chỉnh tề, đến bày tỏ lòng tôn kính với vị vua trong dinh thự của mình, sau đó, sau ba phát súng thần công, leo lên kiệu (sedes modatoria/ngai nghi lễ) nằm ở trước và theo sau là binh lính. Ông đi ra theo đám rước, hoặc ở cửa Gia Định Môn, hoặc ở Phan Yên Môn; đi về phía Chợ Vâi và đi lên đường Mac Mahon để đến các mô đât, mô súng. (Khu vực công trường Dân Chủ)

Ở đó, người ta bắn đại bác, điều động binh lính, huấn luyện voi. Tổng trấn sau đó thực hiện chuyến đi phía sau thành và đi đến xưởng thủy quân (xưởng hoặc Thủy, hạm đội hoặc hải quân), tham dự một cuộc tập trận thủy chiến và trở về thành. Trong suốt quá trình này, cư dân đã gây ồn ào trong nhà của họ, đốt pháo để xua đuổi những ma quỷ có thể ám ảnh ngôi nhà. ngay tết thứ hai, tức là vào tháng thứ năm, tổng trấn đến Tich Diên (nơi nhà vua, hoặc đại diên của ông, nêu gương cho dân chúng bằng cách tự mình lao đông). Địa điểm được dành cho buổi lễ này nằm gần trước bệnh viện của các nữ tu Saint Enfance, ở Thị Nghè (Về sau là viện dưỡng lão Thị Nghè).

 

Sài Gòn trong thời Minh Mạng cai trị

 

Bây giờ chúng ta hãy đến với triều đại của Minh Mang. Tổng trấn đã đến Huế nhân dịp vua Minh Mang lên ngôi. Nguyễn Văn Thiêng, bạn đồng ngũ của ông, là Thống đốc Bắc Kỳ. Minh Mang, sau khi loại bỏ các đối thủ bất chánh của mình (xem Lịch sử An Nam), nghĩ lan man về của hai cựu tướng lẫy lừng, những người có hành động ưu thế đã cản trở ông trong việc hoàn thành các ý định của mình: thống đốc trung ương Nguyễn Văn Thiêng, sau đó đươc coi là phó vương Bắc Kỳ, và đại hoạn quan Lê Vân Duyêt, người rất quý trọng người Pháp, và sự hiện diện ở Huế gây bất lợi cho việc tự tiện trù tính của ông.

Nhà vua đề nghị thuyết phục những kẻ nổi loạn, khi không thể tiêu diệt họ. Để đạt đến việc đó, ông đã nắm giữ thông phán và người giữ con dấu của họ. Bắt đầu là Phó vương Bắc Kỳ; người ta bắt chước cách viết của tổng trấn và con trai của ông. Tạo ra một bức thư, một bức thư giả được cho là đã bị phát hiện, và đưa đến cho Minh Mang. Nội dung kêu gọi chống lại nhà vua, chữ viết giả chữ của con trai phó vương Bắc Kỳ, và bức thư có đóng dấu của phó vương. Minh Mang liền gọi gấp Thiêng từ Bắc Kỳ. Bằng chứng thật rõ ráng; Thiêng và con trai bị xử tử. Sự ban ơn này, được gọi là tam ban triêu điễn, bao gồm việc gửi cho các tội nhân đặc quyền ba vật dụng để tự sát: 1 ° ba mét lụa hồng để treo cổ hoặc thắt cổ tự tử; 2 ° một ly chất độc; 3 ° một thanh kiếm để cắt cổ.

Lê Vân Duyêt, khi nhìn thấy người bạn bị kết án trước mắt, nạn nhân của sự hai mặt của nhà vua, đã đoán ra âm mưu mà ông đã phải  bị khuất phục. Bằng một điềm báo thực sự quan trọng, ông rời cung điện để về nhà để xem con dấu của mình có còn ở vị trí cũ hay không. Không tìm thấy con dấu ở đó, ông ta vội kiếm người canh giữ con dấu, và tìm thấy bất tỉnh, ở bờ giếng. Khi tìm kiếm anh ta, họ tìm thấy con dấu bị mất và một bức thư giả chưa được đóng dấu. Anh ta bị chặt đầu ngay tại chỗ theo lệnh của tổng trấn! Sau đó, ông ta đến tìm Minh Mang, nói với cua rằng vùng Hạ Nam Kỳ là nạn nhân của sự tống tiền của các thủ lãnh băng đảng và sự hiện diện của ông ta tại chỗ sẽ chấm dứt tình trạng rối loạn đang có nguy cơ trầm trọng. Minh Mang không dám giữ ông lại, và hơn nữa hài lòng với sự xa cách tự nguyện này, đã để ông ra đi. Lê Vân Duyêt do đó trở về Sài Gòn làm phó vương; ông đến vào thời điểm thích hợp để trấn áp cuộc nổi dậy của người Cam Bốt ở Trà Vinh (1822), và ông ở lại Hạ Nam Kỳ cho đến năm 1831, năm ông mất. Ông ta là sợ hãi của Minh Mang, i tuy nhiên không dám có bất kỳ hành động nào chống lại người tướng trung thành và dũng cảm này, người đại diện của cha ông ta, người giám hộ và gia sư của chánh anh ta. Sự vĩ đại của các cống hiến của ọng ấy đã khiến ông ấy gần như bất khả xâm phạm.

Sau khi LVD chết, Minh Mang, người đã giữ hận thù và chưa bao giờ dám làm bất cứ điều gì chống lại ông ta trong suốt cuộc đời của mình, đã tìm cách báo thù. Ông ta đã làm ô uề ka8ng mộ của LVD bằng cách xiềng một sợi dây xích trên đó và áp một trăm nhát trượng vào mã; Sự báo thù hèn hạ, đáng xấu hổ và đau khổ này là sự báo thù duy nhất mà vua có thể báo thù vào người đại thần lừng lẫy, bên cạnh Gia Long, Từ ông Thiêng, Vô Tánh, các sĩ quan Pháp và rất nhiều bạn đồng hành anh dũng, đã tiêu diệt Tây Sơn và xây dựng lại vương quốc An Nam. Lăng mộ này được trùng tu bởi Thiêu-tri, người kế vị và là con trai của Minh Mang. Ngày nay được sửa chữa và bảo dưỡng bởi chánh quyền Pháp, trước sự kiểm tra của chánh quyền Sài Gòn.

Khi Duyêt chết, Bô chânh của Sài Gòn là Bạch Xuân Nguyên, lấy lòng Minh mang, đã moi lại ký ức của vua và tố cáo qua báo cáo điều tra của ông rằng phó vương muốn quyền tự chủ và đặc biệt là ông thông đồng với Nguyển Văn khôi (phô vê ûy) để khai thác rừng Nguyễn Vân Khôi bị hạ chức và được lệnh ra Huế để giải thích. Thay vì tuân theo, ông đã nổi dậy cùng các quan lại của phó vương Lê Vân Duyệt.

Đến đêm, các tù nhân được thả, và tất cả đều tuân theo Nguyễn Vân Khôi, người đã chém đầu Tổng Đốc và bố chânh Bach Xuân Nguyên người tố cáo ông ta đã được khen ngợi,

Thành phố Sài Gòn rơi vào tay Khôi. Ngày hôm sau, các bản đại cáo được thông báo: Mỹ Tho và các tỉnh miền Tây, một mặt là Biên Hòa, Bà Ria và Mô Xoài, đặt dười quyền thủ lãnh nghĩa quân. Hạ Nam Kỳ là của họ. Nghe tin về cuộc khởi nghĩa này, Minh Mang đã cho gởi quân bằng đường bộ và đường biển ... Họ đến từ từ cùng một thời điểm: điểm thứ nhất ở điểm A, nơi có tên là Đồng Chây (cánh đồng cháy), và điểm thứ hai ở sông Sài Gòn, đoạn qua Giồng Ông Tô! Con sông được ngăn bằng xích sắt, giữa pháo đài phía nam và pháo đài nằm ở bờ đối diện. Cuộc tấn công bắt đầu trong đêm ngày 6 tháng 7, khu này bị vây hãm, đến ban ngày, quân của Khôi rút vào trong thành. Hạm đội của Minh Mang neo ở sông Sài Gòn và ở rạch Avalanche. Quân bộ đến đóng ở trước thành. quân bao vây đã dựng chổ này chổ khác những công sự bằng đất, cao hơn cả bức tường thành.  Nhưng việc đánh chiếm Sài Gòn bị trì hoãn do sự can thiệp của người Xiêm, theo yêu cầu của Nguyển Văn Khôi, xuất hiện ở phía Hà Tiên và Châu Đốc, và khiến vua Cam Bốt phải chạy sang Vĩnh Long. Quân Xiêm bị đẩy lui về Xiêm theo ngã Gô sat (Pursat) và rút về Battambang.

Để canh giữ Xiêm La, đồng thời cầm cự với Cam Bốt, Trircng Minh Giảng, Tham tán quân vụ An Nam, cho xây dựng một thành lũy gọi là An Man ở Pnom Pênh và ở đó (1834). Người Xiêm bỏ đi, năm tỉnh nhanh chóng rơi vào tay các tướng Minh Mang. Nhưng Sài Gòn, bị bao vây trong khoảng một năm, vẫn giữ vững được.

Cuộc tấn công đầu tiên được thực hiện vào tháng thứ tư năm 1834 trong tám giờ và không thành công: những kẻ tấn công đã bị đánh bại. Thành không chiếm giữ lại được dù bị tấn công nhiều lần (vào ngày 6 tháng 7). Chiến thắng đã phải trả giá đắt. Khốn cho kẻ bị đánh bãi! Ngày chiến thắng cũng là ngày tàn sát, chúng ta không thể đếm xuể những người bị đem ra xử ngay lập tức!

Con trai của Khôi, một nhà truyền giáo người Pháp, ông Marchand, đứng giữa những người bị vây, bị bắt làm tù nhân, tất cả đều bị đóng cũi và đưa về Huế, nơi họ chết dần chết mòn; 1.137 người bị hành quyết ở đồng mồ mã (trong khu vực đa giác hiện tại, gần đường lên Thuân Kiêu) và được chôn trong cùng một cái hố có đắp cao có tên là Mã Biền Tru (mã người bị giết dã man, tàn sát) và nghĩa dung tục là Mã Ngụy (mã quân phản loạn..

Sau khi chiếm được Sài Gòn, Minh Mạng cho phá hủy thành quách. ông Ollivier xây dựng, dưới thời Gia Long, chi phì cao và đòi hỏi quá nhiều quân để được phòng thủ tốt. Nó đã được thay thế bởi một công trình ở mức độ thấp hơn, được thực hiện bởi người Pháp vào năm 1859 và trên khu vực ngày nay là doanh trại mới của thủy quân lục chiến.

                                                                    

                                                              (Còn tiếp)


  Tết Sài Gòn trăm năm trước ra sao?   Biết những gì xảy ra trong quá khứ xa xưa dường như là mơ ước muôn đời của con người. Bởi trong c...