Lịch sử cuộc viễn chinh Nam Kỳ năm 1861
(Histoire de L’EXPÉDITION DE COCHINCHINE en 1861)
(Tiếp Theo)
CHƯƠNG X
Ðề cương:
Người An nam một mặt cầu hòa một mặt chuẩn bị chiến tranh.
- Trong khi đó dân chúng chịu ách nô lệ. - Người Pháp tiếp tục bành trướng và
củng cố thuộc địa. - Phó đề đôc hải quân Charner trao lại quyền hành ngày 30
tháng 11 năm 1861.
Hai mươi ngày sau khi ta đánh thắng thành Kì
hòa, bộ trưởng tài chính của đế quốc An nam, sứ thần của triều đình Hué và phó
vương của sáu tỉnh Nam kỳ miền dưới, cho người chuyển thư nghị hòa lên chiến
hạm Impératrice-Eugénie. Vị quan trung gian cho việc cởi mở đầu tiên này trước
kia nắm giữ một chức vụ hành chánh quan trọng của tỉnh Gia-dinh; trước đây ông
bị giáng cấp, nói theo cách nói của người An nam là vì ông’’ăn của dân’’ [1]
quá nhiều. Những hành động nghiêm khắc như thế của triều đình Huế không phải là
hiếm thấy. Tuy nhiên, trong xứ chuyện ăn hối lộ không phải là một hành vi làm
mất danh dự và cựu chánh án Saĩgon không phải vì thế mà bị mất chức hẳn. Ông
được xem như người rất giỏi văn chương Tàu và tiếng Bắc kỳ; dân tại Saĩgon ai
cũng biết ông và cho rằng chính ông là người soạn thảo các văn thư chính thức
để trao đổi với ta. Bề ngoài tuy có chức vị nhỏ, nhưng thực tế vai trò của ông
rất hệ trọng. Ta đưa xuồng ca-nô của tàu Primauguet đón ông [2], đoàn tùy tùng
rất ít gần như không có ai. Tàu Primauguet thả neo trên sông Ðon-naĩ tại một
khúc uốn cong hướng ngược về phía Saĩgon, tại đây có hai nhánh sông và ở giữa
là đường lên Bien-hoa. Thông điệp của người An nam gồm những câu rất tổng quát
ta thường thấy dẫy đầy trong các văn thư Tàu: đó là những câu liên quan đến tai
ương và thảm họa chiến tranh. Sau cùng, vị sứ thần của triều đình Huế không
chấp thuận một điều khoảng nào hết của ta đưa ra để tái lập sự thuận hòa giữa
hai đế quốc: ông cho rằng’’Tất cả chỉ lợi cho Pháp; không có một điều nào thủa
đáng cho phía An nam’’
Vị toàn quyền Pháp trả lời (ngày 26 tháng tư 1861): ’’
rằng nếu hòa ước được ký kết, thì ngoại thương của người An nam hiện nay hoàn
toàn xụp đổ vì các tuần dương hạm Pháp khống chế, sẽ được tự do hoạt động trở
lại, _ rằng nước Pháp thay vì tạo khó khăn, có thể trong vài trường hợp, sẽ hậu
thuẩn cho chính quyền Hué. Ông chuyển những ý kiến này lên sự khôn ngoan của
nhà Nguyễn [3], và ông sẽ rất hài lòng nếu nhận được lời phúc đáp cho thấy hé
mở chút gì có thể hòa giải được’’.
Vị phó đề đốc nói đến việc thương mại suy xụp vì các tuần
dương hạm phong tỏa là cách làm áp lực của ta đối với sứ thần An nam. Một nghị
định của ta, ký ngày 23 thánh 4, cấm chở gạo lên vùng phía bắc lãnh thổ. Hậu
quả của lệnh cấm gạo cho thấy ngay tại sao ta đã đánh chiếm My-thô. Gạo là vấn
đề quan tâm chính của chính quyền An nam.
Tin này làm dân An nam kinh hoàng. Ngay sau khi mất
My-thô, họ vẫn tiếp tục hy vọng là khắc nghiệt của chiến tranh không đến nỗi
nào ảnh hưởng nguy hại đến việc cung cấp gạo là nguồn sinh sống duy nhất của
họ. Sứ thần của hoàng đế Tu duc phải kêu lên vì những khắc nghiệt do ta tạo ra,
về những sự việc đã rồi, về những điều kiện quá cứng rắn mà ta đưa ra cho họ,
và sau hết là cái thảm họa mới này ( công hàm ngày 3 tháng 5 năm 1861). ‘’Từ ba
năm nay các ông gây chiến với chúng tôi, trong cái xứ khốn khổ này không có gì
thoát khỏi tay các ông. Các ông đốt hết kho tồn trữ của chúng tôi, chiếm cứ và
phá tan đồn lũy của chúng tôi, đốt chiến thuyền, phá sạch nền thương mại; ghe
thuyền chở vải quí cũng bị đánh chìm, giết quân sĩ, đốt nhà của chúng tôi. Các
ông còn hạch sách tiền bạc bồi thường; chúng tôi nghèo lắm rồi. Nói có Trời
những cảnh tang thương mà các ông gây ra có vui sướng gì? Ngày nay các ông lại
cấm gạo; dân tình sẽ chết đói mà thôi.’’ Sau hết, ông nói tiếp bằng vẻ kiêu
căng:’’Vì lẽ Ngài chỉ còn dành cho chung tôi một giải pháp cuối cùng, thế thì
chúng tôi đành phải cầm khí giới để chiến đấu vậy.’’
Vị phó đề đốc hải quân trả lời (ngày 7 tháng 5 năm 1861)
rằng: ’’ông sẽ dùng vũ khí để đẩy lui vũ khí.’’
Tuy nhiên, việc đàm phán vẫn tiếp tục sau hai công hàm đó.
Việc thương thảo kéo dài từ tháng năm, tháng sáu, tháng bẩy cho đến ngày 4
tháng tám, và bất thần ngưng lại từ ngày đó [4] Sau đây là lá thư của phó đề
đốc hải quân, chỉ huy trưởng các lực lượng Pháp, gởi cho sứ thần của hoàng đế
An nam, ngày 7 tháng sáu, cho biết đầy đủ căn bản đề nghị của ta để tái lập hòa
bình và sự khước từ của phía An nam.
‘’Tôi nhanh chóng phúc đáp thư của Ngài mà tôi hân hạnh đã
nhận được, tôi tin rằng trong thư trước đây tôi đã cho biết một cách chi tiết
những căn bản theo đó chúng ta có thể đi đến một thỏa ước hòa bình lâu dài.
Tuy nhiên, vì sợ còn thiếu sót, tôi xin nhắc lại những
điều kiện mà tôi cần thương nghị:
‘’1 Tự do hành đạo Thiên chúa;
‘’2 Giao nhượng hẳn thành phố Saĩgon và tỉnh Saĩgon;
‘’3 Giao nhượng hẳn thành phố My-thô và toàn vùng lãnh thổ
chung quanh;
‘’4 Giao nhượng hẳn thành phố Fou-yen-mot, thuộc tỉnh
Bien-hoa;
‘’5 Tự do lưu thông trên các sông ngòi miền tây;
‘’6 Người Âu châu tự do đi lại bất cứ nơi nào trên
toàn cỏi An nam, với điều kiện là họ tuân theo luật An nam;
‘’7 Phải giao trả người Âu châu phạm luật cho vị lãnh sự
xứ họ tại hải cảng gần nhất;
‘’8 Hai bên chính quyền Pháp và chính quyền Nam kỳ có
quyền cử đại diện tại tòa án của mỗi bên;
‘’9 Thiết lập tòa lãnh sự và người Âu châu tự do thương
mại tại các hải cảng chính;
‘’10 Ân xá tất cả tội phạm liên hệ đến chiến tranh;
‘’11 Bồi thường bốn triệu đồng bạc [5];
‘’12 Phải để cho sứ thần Tây ban nha dự vào tất cả các
thỏa ước trong tương lai.
‘’Cho đến bây giờ Ngài chỉ chấp nhận có hai điều khoản là
tự do hành đạo Thiên chúa và sứ thần Tây ban nha dự phần vào các thỏa ước.
‘’Ngài vẫn tiếp tục than phiền về sự quá đáng trong những
đòi hỏi của tôi, nhưng tôi vẫn tin rằng Ngài cực lực mong muốn hòa bình, mặc dù
thế đến giờ phút này tôi thấy Ngài vẫn tránh né không chấp nhận những điều
nhượng bộ mà Ngài phải làm đối với chúng tôi.
‘’Nhiều lần Ngài gợi ý cho biết để đáp lại các điều lợi mà
chúng tôi đòi hỏi, chúng tôi không có một điều khoản nào bù đắp lại và việc
giao nhượng tỉnh Saĩgon cũng ví như là giao hết các tỉnh miền tây Nam kỳ.
‘’Tôi rât vinh dự trả lời Ngài thêm là hòa bình sẽ cho
phép đế quốc An nam thực thi việc buôn bán chắc chắn và có ưu thế hơn; tránh
khỏi chúng tôi dùng quân sự để tiếp tục đánh; Ngài có thể tiếp tục liên lạc với
các tỉnh miền tây mà hiện nay đã lọt ra khỏi quyền chủ động của Ngài.
‘’Trái lại, nếu chiến tranh tiếp tục, thì tình trang đế
quốc An nam chỉ trở nên trầm trọng mà thôi. Chắc chắn Ngài cũng đã thấy điều
đó.’’
Trong khi danh từ hòa bình được hai bên trao đôi, tất cả
nỗ lực của vị chỉ huy trưởng Pháp dồn vào việc bình định và tổ chức lãnh thỗ
vừa xâm chiếm._Tù chiến tranh giao về làng của họ và bắt phải ghi danh. Ai chỉ
chỗ chôn dấu khí giới tại các tỉnh thì được thưởng. Vị chỉ huy trưởng tìm cách
đánh lạc hướng quần chúng không cho họ nghĩ đến chiến tranh, ông duy trì các
lời hứa trước đây khi ông khởi động chiến dịch, miễn thuế một năm cho dân
chúng. Ông tiếp đón tử tế những người dân đòi nhà, họ thú thật rằng vì lúc đầu
quá sợ hãi họ phải bỏ nhà mà trốn. Ông cho kiểm kê đất đai nhà cửa, ra hạn định
phải thiết lập chủ quyền và muốn bán phải có phép của chính quyền người Pháp.
Ông ra lịnh giữ nguyên ranh giới lãnh vực hành chính trong tỉnh My-thô cũng như
ông đã giữ nguyên tại tỉnh Saĩgon, như thế để tránh không gây thêm rắc rối sau
những rúng động cực kỳ mãnh liệt vừa qua.
Không được giết trâu, tuy quân viễn chinh có thiếu thịt
tươi nhưng cứu vãn được việc canh nông. Gạo lúa trong kho My-thô chưa cháy hết,
người nào vớt vát được thì cho; không áp dụng với họ sự trừng phạt theo luật
hàng hải liên quan đến tàu bè bị bể và bị đắm, biện pháp này đã tạo một ảnh
hưởng tốt từ lúc ta mới nắm việc đô hộ. Ðồng tiền kẻm phải tồn kho và bảo vệ
chống lại những tổ chức đầu cơ, bọn này chỉ cần đi từ Saĩgon xuống My-thô và từ
My-thô lên Saĩgon để chuyển tiền, ứng tiền cho vay nặng lãi mà thủ lợi.
Biên giới phía nam do một biệt đội canh giữ, thêm một hải
đội gồm các tàu Prégent, Sham-Rock, pháo hạm số 27, pháo hạm số 22 và chiếc
xà-lan Soledad của Tay ban nha giao cho lính thủy Pháp sử dụng. Hải đội này do
đại úy Devaux chỉ huy để thăm dò các đường sông ngòi và để chống lại ghe tàu
của bọn cướp bóc. Tàu Sham-Rock và hai pháo hạm bằng sắt ngược nhánh tây nam
(27 tháng năm, 13 tháng sáu) của sông Cambodge trên suốt bốn mươi dặm đến tận
tỉnh Chau-doc, nơi đây là cửa kinh Can-cao đổ vào sông Cambodge. Kinh này vừa
hẹp lại nhiều cỏ mọc, chỉ sâu từ bốn đến năm chân, đi ghe phải mất bốn ngày mới
đến cảng Ha-tien: con kinh này vắng vẻ vì có nhiều bọn cướp vặt người Cao miên
rình rập.
Việc phong tỏa Cao miên đã công bố như đã nói trước đây,
tức ngày 23 tháng 4 năm 1861, làm cho thương mại phải chuyển khỏi Mỹ-thô để đổ
dồn về Saĩgon. Quân đội ta đã khống chế và bảo vệ an ninh hoàn toàn vùng biên
giới; ta làm chủ được hết các đường sông rạch trên phần thuộc địa đã chiếm và
đang chuẩn bị để khai thác trong hòa bình tất cả những tài nguyên phong phú của
vùng đất đai này. Càng ngày ta càng tin rằng người An nam sẽ không còn để ý đến
vấn đề độc lập quốc gia nữa. Khi lúa đã cấy thì mọi việc sẽ thay đổi hết.
Diễn biến của tình thế cho ta nghĩ rằng lúc đầu vì không
ngờ ta đòi giao vĩnh viễn quyền lãnh thổ nên người An nam rất thành thực khi
đưa ra những đề nghị hòa bình. Nhưng khi biết rõ ý đồ của ta thì nỗ lực thương
thuyết của họ, kể từ tháng năm, chỉ để đánh lừa ta mà làm kế hoãn binh, họ tìm
cách làm ta nản lòng vì tình trạng cướp phá phách trên sông ngòi.
Các hành vi cướp bóc và đạo tặc xảy ra trước và tiếp theo
là các cuộc khởi nghĩa: đó là mối lo của ta. Quan tâm lúc đầu tìm kiếm một giải
pháp tốt nhất để thống trị người An nam thì nay không phải là điều quan trọng
và cấp bách nữa. Hiện nay điều làm ta bối rối, ngoài đạo tặc và cướp bóc, là
sức kháng cự của người An nam, nhiều nơi có tánh cách rõ rệt là những cuộc khởi
nghĩa vũ trang.
Chẳng hạn ngày 22 tháng sáu 1861, tại Go-cung, người An
nam biểu dương một thái độ chống đối mãnh liệt.
Go-cung là một thị xã nằm vào trung tâm tứ giác, gồm sông
Cambodge, biển Tàu, kinh Bưu điện và sông Vaĩ-co. Ðối với người An nam đây là
một vùng đất thánh. Nơi sinh của ông ngoại hoàng đế Tu-duc, tức quan-qu8] (tức
con quan), và lãnh ấn đúng theo chức vị này, với chức vị được phong ông có đủ
tư cách đề cử những người lãnh đạo các nhóm quân khởi nghĩa. Cha của vị này là
một người rất được trọng vọng của đế quốc An nam; ông ngự ở triều đình Huế có
chức là Thiey-ve-sam; cấp bực của ông ngang hàng với một đại tướng sư đoàn của
ta tại Pháp. Hai bộ hạ của Dinh là hai đại úy đã đến Bien-hòa từ tháng ba; hai
người vợ của hai đại úy này đều là người Go-cung. Cuộc khởi nghĩa tại đây được
tổ chức nhanh chóng, chỉ trong vài ngày, vị vin-teut đã quy tụ được 600 người
vũ trang. Ðạo quân này gồm 200 dân quân, còn gọi là Don-dien[9], 200 quân chính
qui của trung đoàn đóng trong thành Kì hòa rơi rớt lại, 200 nghĩa quân địa
phương kết nạp trong số họ hàng của hoàng đế và bạn hữu của họ.
Vài mật thám cho quân ta biết họ sẽ sớm tấn công trong
những ngày gần đây. Một toán nhỏ quân ta gồm có sĩ quan và lính thủy, tất cả 27
người, canh phòng cẩn mật thức suốt đêm 21 đến rạng ngày 22 tháng sáu. Tiếng
chiêng và tiếng trống vang lừng báo hiệu địch sắp tấn công. Vị tỉnh trưởng của
ta là một trung úy hải quân, tên là Vial, liền huy động quân sĩ dưới quyền. Ông
đặt vài người canh giữ cổng chính của chùa và dặn các người này phải chiến đấu
đến cùng; sau đó ông dẫn số quân lính còn lại đổ ra đồng để thăm dò thực lực
của địch. Vừa đi hết đường cái, ông đã gặp ngay quân An nam chia ra làm ba toán
mỗi toán 200 người từ ruộng đang tiến lên. Họ đi rất oai nghiêm và liều lĩnh:
đúng là phải liều lĩnh lắm mới dám tiến lên giữa đồng trống trong tay chỉ có
súng ngắn, trong khi ta dùng súng cac-bin nòng dài. Người tên Dinh chỉ huy toán
nghĩa quân địa phương. Quân Pháp chống trả hiệu quả vì khoảng cách không xa.
Nhưng ngay lúc đó thì vị trung úy hải quân của ta được thông báo là ta đang bị
đánh lạc hướng. Ông liền đặt hai người lính ở lại canh tại một đầu đường và hối
hả dẫn số lính còn lại quay về quảng trường của thành phố. Vừa tới nơi thì cũng
đúng lúc quân địch xuất hiện. Quân An nam nào tiến lên trước đều bị giết sạch,
xác làm nghẽn cả lối đi; nhưng phía sau lại tiến lên. Họ cầm lao đứng sát vào
tường, ta chỉ có việc bắn như bắn những tấm bia người thế thôi. Quân Pháp cứ bắn
từ từ, sau đó thì tiến lên nhả hết đạn và xông vào quân An nam. Tức thời có một
người lính thủy đánh bộ, trong số được giữ lại gác chùa, thấy quân ta đang đánh
xáp lá cà liền nghĩ rằng phải tiếp tay với họ, liền bỏ chùa tiến ra. Anh lính
này vừa xông ra nơi đánh nhau, thấy vị trung úy hải quân đang đối đầu với quân
thù rất đông, đang bị thương ở cạnh sườn, anh liền lấy thân che cho vị trung úy
và anh bị trúng ngay một phát đạn chết tức khắc. Cây súng các-bin vẫn còn
nguyên đạn chưa bắn phát nào: xác anh ngã xuống bị đâm thêm nhiều nhát lao nữa
vào lưng. Trong mấy giây liền sau đó, vì không có người che nên vị trung úy hải
quân bị bắn lủng đùi, đồng thời bị đâm trúng cánh tay, trúng chân và bị phỏng ở
một mắt vì pháo của địch, sáng hôm đó quân An nam dùng pháo buộc ở đầu lao để
bắn đi.
Nhũng người chỉ huy ba cánh quân địch bị giết gần hết, vì
họ tiến lên hàng đầu, địch quân không còn ai hỗ trợ nên yếu thế và đánh tháo
lui. Vị trung úy hải quân của ta liền lên chiến thuyền, nhìn thấy quân địch còn
đang rút đi trên ruộng, ông cho lịnh bắn theo vài quả đại pháo, có thể là không
trúng địch vì họ rút đi theo hàng một, nhưng cũng làm cho họ rút nhanh hơn. Lúc
đầu ta cứ tưởng nội trong ngày họ sẽ quay lại đánh nữa; nhưng chẳn thấy tên
nghĩa quân, tên chính quy hay tên don-dien nào tập hợp và mang khí giới đến gần
Quân ta chỉ có một người chết và một bị thương nhưng ảnh hưởng trong vùng này
còn mạnh mẻ hơn hàng trăm người chết trong một trận đánh lớn. Một số dân quân
trình diện xin ghi tên vào danh sách của làng và nói rằng họ không muốn làm
don-dien nữa. Ta cho ghi tên hầu hết trong số những người xin.
Những người cầm đầu địch quân vừa chết vừa bị thương còn
nằm la liệt ở quảng trường. Một xác chết được nhìn chính là Dinh, tức người đã
tổ chức và hướng dẫn cuộc khởi nghĩa; nhưng thật ra người này không bị ta bắn
trúng; sau đó được hoàng đế phong chức quan và tiếp tục lây lất chiến đấu chống
chính quyền của Pháp trong vùng tứ giác phía đông. Một người cầm đầu khác cũng
còn sống; mặc dù là kẻ chiến bại, bị thương không còn chiến đấu được nữa, ông
này vẫn giữ vẻ mặt trầm lặng vượt lên trên nghịch cảnh. Ta kéo ông từ nơi bị
thương cho đến nơi xử bắn, mặc dù thương tích, ông vẫn luôn luôn bộc lộ khí
tiết ngang nhiên của một chiến sĩ bị bắt làm tù binh: người nào thấy cũng đều
thuật lại rằng ông vô cùng hãnh diện khi hay tin quyết định của ta đem ông xử
bắn,thay vì treo cổ [10] Ông đã chết giống như những người mọi da đỏ mà lịch sử
đã ghi chép một cách kính nể: khốn đốn nhưng vô cùng cao cả, không phải ông
chết mà linh hồn của một quốc gia đã chiến đấu với ông và thở hơi thở cuối cùng
với ông.
Ngay ngày hôm sau trận Go-cung, hộ tống hạm Duchayla đến
thả neo trên sông Vaĩ-co, tại cửa kinh Rach-la, ta bắt đầu cuộc chiến tranh
trừng trị. Nếu dấy loạn dám tái diễn trong vòng lãnh thổ tứ giác phía đông thì
còn phải chờ một thời gian lâu; nhưng hình như kháng chiến lại chuyển sang vùng
tứ giác phía tây mà trên bản đồ đều có ghi rõ là vùng do quân đội Pháp chiếm
giữ. Các tàu Duchayla, Mitraille, Dragonne thay nhau tuần tiểu trên kinh Bưu
điện. Chính con kinh này trước đây dùng làm đường vận chuyển cho đạo quân viễn
chinh đánh chiếm My-thô.
Ðể chống lại ta quân An nam không thấy đưa ra chiến thuật
gì gọi là sáng tạo. Nghệ thuật muôn thuở của họ là dựng các chướng ngại phụ
thuộc để phòng thủ, điều này cho ta nghĩ rằng chính ta đến đây gây chiến và
đánh nhau với họ để dần dần dạy cho họ cách đánh nhau với ta [11] Trong thế hệ
họ, còn thiếu một người để dạy họ biết chiến đấu: quả thật ta phải nêu rằng
trong hàng ngũ quân Âu châu gần như không có ai đào ngũ. Các pháo hạm bằng sắt
liều lĩnh tiến đến cuối Rach-gam, rạch Caĩ-baĩ, nhưng không bao giờ lo sợ bị
tấn công phía sau. Ðịa thế hiểm trở của các nơi này đúng ra là phải dạy cho
quân An nam cách thức làm sao để chống lại các pháo hạm có những phần cơ khí
mỏng manh của ta. Sau khi tàu ta đi qua, họ chỉ cần hạ cây thật nhiều chắn
ngang sông rạch chận phía sau là sẽ làm cho ta cực kỳ bối rối. Trái lại họ chỉ
chặt cây để chắn đường phía trước mặt mà thôi, không bao giờ họ chận phía sau.
Trong thời gian nghỉ mùa mưa, thủy quân chiến đấu, vài đại đội của tiểu đoàn
xung kích 101, thủy quân bộ chiến và cả toán biệt phái Tây ban nha đều phải
xung vào việc dọn dẹp, khai thông sông rạch bị địch ngăn chận bằng các loại
chướng ngại. Thật là một công việc nặng nhọc và nguy hiểm, hơn cả khi bị địch
bắn; nhiều khi có người chết.
Hình như địch cũng chọn một chiến thuật mới: luôn luôn lẫn
tránh. Trước đây, trên đường tiến đánh My-thô, cũng chính hai bên bờ
Rach-run-ngu địch đã giàn trận chống cự thật gay go với ta, và chỉ thụt lui
từng bước một. Nay thì không cách gì túm được họ, trừ một vài tên chỉ huy tầm
thường của các toán khởi nghĩa nhỏ mà thôi. Chiến thuật chính của người An nam
là ngăn cản nỗ lực cai trị của ta: dùng ảnh hưởng của quan quân ngày xưa chống
lại uy quyền của quan lại người Pháp. Các quan phou và quan huyen ngày xưa chờ
đêm lại lần về làng, về tỉnh, về quận mà họ cai quản lúc trước. Họ vừa hăm dọa
lại vừa hứa hẹn với dân chúng. Họ nói cùng một thứ tiếng, người dân thì vẫn nhớ
đến những gì trước kia quan chức của họ đã từng giúp đỡ họ, ngoài ra lại còn
mối tình cảm phụ tử giữa quan và dân, họ nỗ lực tranh dành ảnh hưởng với ta.
Không có một người An nam nào lại không coi những người lính địa phương hay
những người xã trưởng theo ta là một thứ giết cha, giết mẹ [12] Tóm lại, dân
xem sự hiện diện của ta cũng chỉ tạm thời mà thôi. Họ nghe nói chúng ta có một
quê hương giàu có và phồn thịnh, trong đầu họ nghĩ rằng rồi một ngày nào đó ta
cũng trở về xứ sở ta mà thôi. Khi ta vặn hỏi người An nam chọn trong số những
người không cong lưng và khúm núm trước mặt ta thì họ đều trả lời rằng: ‘’
Chúng tôi đâu có thể bỏ xứ mà đi, có bỏ thì cũng chỉ bỏ làng. Chúng tôi chờ mà
xem. Chẳng qua cũng là ý trời.’’ Nhưng trong số những biện luận của triều đình
Hué do mật sứ loan truyền trong dân gian thì có điều này là chính yếu nhất:
‘’Một nước hùng mạnh gây chiến với ta, gây cho ta nhiều khó khăn bắt buộc ta
phải bỏ Nam kỳ miền dưới.’’ Ta cũng chỉ hy vọng điều đó, chẳng qua cũng do
những chiến thắng của ta ở Touranne và Saĩgon mà ra.
Việc chiếm giữ hai vị trí Saĩgon và My-thô chưa đủ làm nao
núng trong toàn xứ; từ lúc ta biết được các xã trưởng do ta đưa ra đều nhận
được thư do mật sứ của triều đình Huế cho biết họ phải trung thành hoặc là phải
chết, thì ta bắt buộc phải tỏ cho địch biết là ta quyết tâm chiếm giữ thật sự
và vĩnh viễn xứ này, nếu không thì chỉ có danh mà không có thực. Muốn tỏ thực
quyền ta phải dựng đồn bót: lúc đầu ta chỉ có năm, sau tăng lên đến bảy.
hắc chắn phân chia lực lượng là điều tai hại. Nhưng chẳng
có quy tắc nào tốt mà lại không có ngoại lệ, vậy ta phải tìm một hình thức dung
hòa giữa phân tán tối đa và tập trung cố thủ, tập trung tối đa thì ta đang gặp
khó khăn trong hoàn cảnh hiện nay. Các cuộc chiến tranh chinh phạt rầm rộ đều
giống nhau, sau những trận đánh lớn làm tan rã guồng máy quân sự của địch, thì
phải đương đầu với một trận chiến thường trực mà mỗi người dân là một người
lính đơn độc; có thể phương pháp hay nhất để thống trị là đặt một người lính
bên cạnh một người dân bại trận để canh chừng. Ðó cũng là chuyện người Mông cổ
đã thực hiện ở phần đất Á châu này, khi họ xâm chiếm nước Tàu vào giữa thế kỷ
mười bốn. Mỗi người dân Tàu phải chứa trong nhà một người lính; nhưng chính sự
phân tán tối đa đã tạo ra thế suy yếu của quân Mông cổ, chỉ trong một đêm tất
cả quân chiến thắng đều bị tàn sát. Bản tính của ta và số quân quá ít không cho
phép ta thực hiện phương pháp này để củng cố việc chinh phạt: ta đành chọn một
giải pháp dung hòa là lập đồn.
Các toán vũ trang có tổ chức quy củ bất thần tấn công
Go-cung làm tất cả mọi người ngạc nhiên không ngờ trước được. Ta vẫn tưởng
người An nam còn chìm ngập trong nỗi kinh hoàng, ta từng thấy những đám người
An nam khúm núm, sợ sệt khi gặp mặt người Pháp tại Saĩgon, họ giống như những
thứ hèn hạ bỏ đi không tỏ ra điều gì dám kháng cự ta. Nhưng sự thật đã chứng tỏ
rõ ràng, như ta đã thấy. Người An nam có tinh thần độc lập quốc gia rõ rệt, ta
đã xem họ và vẫn còn xem họ như những người vô giác không phân biệt ai là chủ
nhân ông của mình, như những người sẵn sàng chấp nhận bất cứ ai quản lý chỉ cần
cho phép họ cày ruộng và gặt lúa là được. Ta vẫn nhắc đi nhắc lại không biết
bao nhiêu lần sai lầm lúc ban đầu của ta là coi mọi tác động trổi dậy của người
An nam là đạo tặc và cướp bóc. Sai lầm này thời nào cũng có, khi người La mã
chiếm xứ Gaule [13] và nếu ta cứ tin theo lời họ thì những ai chống lại người
La mã đều là bọn bất lương phạm pháp.
Từ trước đến nay Nam kỳ miền dưới vẫn đầy kẻ trộm;
nhưng con số tăng lên gấp bội chỉ trong vòng hai tháng sau khi thành Kì hòa và
thành My-thô bị ta đánh chiếm: nhiều quân lính tan rã hàng ngũ quay ra cướp
bóc; vì đó là nguồn sinh sống duy nhất của họ. Nhưng vào độ tháng sáu và hai
tháng tiếp theo dân quân Don-dien, quân chính quy và nghĩa quân lại được các
người chỉ huy cũ của họ tập họp trở lại. Vì không biết ngôn ngữ, vì bị lừa gạt,
vì lo sợ mà tự vệ, vì bắt chước truyền thống của người Anh, vì bản chất hung bạo
nổi dậy trong một số người của ta giống như sự hung bạo thúc đẩy người Tây ban
nha diệt chủng người da đỏ, tất cả là những lý do làm ta không còn phân biệt
được những người An nam không phải là trộm cướp đã nổi lên kháng chiến chống
lại ta. Biết bao nhiêu những kẻ mà ta coi là cướp bóc thật ra là những chiến sĩ
tay không chẳng được trang bị khí giới mà thôi!
Thật quả là một quyết định cực đoan khi giao cho hai mươi
đại biểu của ta toàn quyền sinh sát. Dù cho lương thiện và cương quyết đến đâu
thì những người lãnh đạo này cũng chẳng thay đổi được những nhược điểm của bản
tính mình. Những lệnh ban xuống trong trận chiến tranh khủng bố đang diễn ra
tại hai vùng tứ giác thật vô cùng khủng khiếp: thật là nhẫn tâm chưa hề có. Tuy
nhiên’’ Các ông không được khủng bố người dân hiền lành’’ ( Ðó là lời huấn thị
cho các chỉ huy trưởng các đạo quân lưu động.)
Không có cảnh tượng nào âu sầu, buồn tẻ và khổ sở hơn là
khi thấy người Pháp phải chạy ngược chạy xuôi trong ruộng trên sông trong suốt
mùa mưa. Trò chinh phạt như thế này thật không có gì thích thú: cứ thấy được
tên địch này thì tên địch kia chạy trốn, toàn xứ thì sông ngòi chằng chịt làm
cho hành quân giống như cảnh sát đuổi bắt kẻ trộm cắp trên sông. Chẳng hạn như
địch chiếm một số vị trí về phía kinh Bưu điện và Rach-kison, nhưng ta chẳng
biết các vị trí địch ở đâu; có những biến động giống như địch đang hành quân:
tiền quân ta chẳng thấy gì hết. Chận thuyền bè tra xét chỉ tập cho quân ta thái
độ khinh miệt đời sống con người: thế thôi. Quân địch nhất định lẩn trốn làm ta
hành quân giống như đánh vào không khí, trong trò đánh nhau thì phải có hai
bên, nhưng rốt lại chỉ có một bên tự ra tay đánh một mình. Tuy nhiên ta biết
chắc có nhiều lực lượng tiếp tay khởi nghĩa, ta biết cả tên tuổi của vài người
cầm đầu và hướng dẫn nổi dậy. Ðến đây nên tiếp tục tìm hiểu những người này, họ
có liên hệ với dòng họ hoàng đế An nam, họ là linh hồn của các phong trào nổi
dậy [14]
Hoàng đế Tu-duc có vóc người khá cao lớn, hơn tầm trung
bình của người An nam. Dáng hơi khòm. Hai vai xệ xuống, đây là dựa theo lối nói
của dân trong xứ dùng ám chỉ những người già trước tuổi vì ham ăn chơi [15]
Nước da của ông mét và đều: nét mặt trầm lặng, không tỏ lộ, không xao động lo
âu như cái nhìn giống như mắt mèo của người An nam. Tuy nhiên ông vẫn mang tất
cả những cá tính của giống dân An nam, người Pháp nào đã được thấy quan quân An
nam ở cấp bực cao đều có thể hình dung được cử chỉ, dáng điệu, vẻ mặt của hoàng
đế Tu-duc. Răng của ông nhuộm đen; tóc cột lại thành một búi tó có kim bằng
vàng xuyên ngang. Người Pháp ta xem ông và vẫn còn coi ông như một con thú giữ
thô bạo và khát máu: nhưng đây chỉ là phương pháp của những kẻ tầm thường khinh
miệt kẻ thù của mình rồi những kẻ xua nịnh bắt chước theo. Ðối với người An nam
ông là một hoàng thân cứng rắn nhưng vô cùng nhân đạo. Sự thật thì ông tỏ ra có
bản tính rất ôn hòa và thái độ thật hòa nhã, ngay từ ngày còn nhỏ tính tình hòa
nhã của ông đã làm cho vua cha là hoàng đế Treui-trĩ [16] phải chú ý tới và đặc
biệt chăm sóc đến ông. Trái lại hoàng đế Treui-trĩ quyết gạt bỏ người con trai
cả vì người con này rất hung giữ và độc đoán. Một người An nam sống trong triều
đình Huế biết tiếng la tinh đã cho ta biết các chi tiết vừa kể trên, vào thời
đó tiếng la tinh là ngôn ngữ thông dụng. Ông còn nói với ta là người An nam cho
hoàng đế của họ là: pertinax và tenax, có nghĩa là sáng suốt và kiên trì.
Hoàng đế Tu-duc sinh năm 1830. Vào dịp ông lên ngôi, mẹ ông cho thêm một tuổi,
viện bô lão cho ông thêm một tuổi nữa và người dân cũng tăng thêm cho ông một
tuổi: vì thế đối với Âu châu ông ba mươi ba tuổi, nhưng đối với người An nam
ông ba mươi sáu tuổi. Việc lên ngôi của ông biến chuyển như trò ảo thuật,
chuyện xảy ra cứ tưởng như chuyện ở cung điện Nga hoàng hay Thổ nhĩ kỳ.
Khi hoàng đế Treui-trĩ cảm thấy suy yếu và biết mình sắp
chết, ông dàn xếp mọi việc để đưa người con trai út lên ngôi. Mỗi lần người con
trưởng là Hoang-bao[17] muốn vào phòng thăm hoàng đế Treui-trĩ đều bị người
lương y của hoàng đế ngăn cản, bằng cách nói với ông rằng hoàng đế đã khoẻ sắp
đi đứng được. Trong khi dằng co như thế thì trong phòng bên cạnh di chúc của
hoàng đế đang được soạn thảo. Khi hoàng đế vừa qua đời thì hội đồng hoàng triều
được triệu tập, bản di chúc đem ra trình cho hai anh em trước mặt đông đủ hoàng
gia. Người con cả bị tác động mạnh đến nổi đã quỳ gối và úp mặt xuống đất tỏ ra
hết sức bối rối, mọi hy vọng của ông đã tiêu tan hết. Khi hoàng đế Tu-duc lên
ngôi, người anh tìm cách mưu phản nhưng không kết quả gì. Các âm mưu của người
anh mất ngôi đều bị khám phá; chẳng những âm mưu không thành, ông lại còn bị
nhốt vào một lâu đài tại Huế. Ông bị quản thúc yên ở đó đã sáu năm. Nhưng bỗng
có một biến cố xảy ra: sứ thần của vua Xiêm gởi đi bị quân triều đình bắt tại
biên giới giữa Cao miên và Nam kỳ tức là Tay-ninh, mật xứ mang theo phù hiệu
vương quyền để dâng lên người con cả của hoàng đế Treui-trĩ. Theo sự đồn đại
trong dân chúng thì vị hoàng thân này đã hối lỗi vì nghỉ rằng việc bất thành là
do ý trời không muốn cho ông trị vì, và ông đã thắt cổ tự tử sau đó. Nhưng có
lẽ ông bị thắt cổ thì đúng hơn. Ba ngày sau, con trai của ông cũng chết một
cách tương t21] một vùng lãnh thổ hình tròn giáp ranh với kinh Thương mại. Hắn
là tên trùm trong vùng tứ giác do quân ta chiếm giữ, có khi những toán quân của
hắn dám tiến sát vào gần ngay My-thô. Nhưng chúng đều bị ta ruợt đuổi và phải
phân tán ở Mi- cui [22]. Tên hắn có nghĩa là quan cọp. Thuộc hạ của hắn gán cho
tên đó vì hắn rất hung giữ.
Tên Quan-tou là một cựu đại tá Don-dien nổi danh vì tính
khí hào hùng. Trước đây hắn chỉ huy một trung đoàn dân quân tức Don-dien trong
thành Kì hòa. Sau khi thành Kì hòa bị mất, hắn lại xuất hiện ở các tiền đồn
chống giữ thành My-thô. Hắn chỉ huy đồn mà trong đó đại pháo đã bắn ra giết
chết đại úy hải quân Bourdais. Sau khi ta nã pháo bắn nát đồn, hắn buộc lòng
phải dẫn quân lính tháo lui, quân lính của hắn vẫn gồm dân quân Don-dien, hắn
rút vào vùng tứ giác phía tây; ta cho tàu Sham-Rock truy nã ở Kui-duc, đốt nhà
hắn và phá tan tành gia sản của hắn làm hắn phải bỏ trốn qua phía Cao miên
trong vùng ngang với ba tỉnh phía nam.
Tên Quan-suan thì nổi tiếng vì rất giỏi về hành chính Hắn
đóng ở phía tây kinh Thương mại trong suốt mùa mưa và ít khi xâm lấn vào lãnh
thổ của ta. Tên hắn có nghĩa là mùa xuân. Người An nam thỉnh thoảng mang tên
này, tên có gốc từ miền bắc, vì ở đây không có nghĩa gì hết vì không có mùa
xuân.
Những người cầm đầu kể trên tập hợp binh mã, vừa là lính
chính quy gom góp trở lại, vừa là dân quân Don-dien, vừa là nghĩa quân địa
phương. Trong vài trường hợp, nhất là ở Go-cung, trên bờ rạch Run-ngu và rạch
Mi-cui, quân chính qui, Don-dien và nghĩa quân hợp chung với nhau mà đánh. Tóm
lại, kháng chiến của người An nam chống lại người Pháp đã bắt đầu nẩy sinh và
có tính cách rất khác biệt tùy theo địa phương, phía đông hay phía tây kinh Bưu
điện. Trong vùng tứ giác phía đông, tức vùng đã nằm gọn trong lãnh thổ Pháp,
các cuộc nổi dậy gần như có tính cách bộc phát mà thôi. Những người chỉ huy
đánh liều mạng, các cuộc nổi dậy giống như vọt lên từ trong đất. Trái lại,
trong vùng tứ giác phía tây, người An nam có nhiều làng mạc nằm dọc theo mép
kinh Thương mại tiếp tay, những làng này không thần phục ta. Các tỉnh phía nam
chuyển lên cho họ thuốc súng, súng, đại pháo và cả gạo nữa. Chính quyền
Biên-hòa gởi cho họ mệnh lệnh, chứng từ, ấn dấu; vị quan phó vương sáu
tỉnh[23], khi thì đóng trong lều tranh đổ nát lúc thì lập tổng hành dinh nơi
đồn lũy kiên cố, lúc nào ông cũng khuyến khích và cổ võ các nhóm kháng chiến.
Sức kiên trì của người An nam đem lại sinh khí cho các tỉnh Ha-tien, Vinh-luong
và An-gian. Ðiều này chứng tỏ cho biết sau này dù ta có chiếm hết ba tỉnh phía
bắc Nam kỳ miền dưới tức My-tho, Saĩgon và Bien hòa, cũng sẽ khó lòng bình định
khi ba tỉnh cực nam vẫn còn áng ngữ trước mặt.’’Nếu tôi có thêm một ngàn quân
nữa, tôi sẽ lấy hết ba tỉnh đó; nhưng rồi tôi sẽ có đủ người để giữ những tỉnh
ấy hay không? Uy danh của chúng ta tùy thuộc vào đó.’’ (trích lời của phó thủy
sư đề đốc chỉ huy trưởng gởi lên bộ trưởng hải quân).
Kháng chiến của người An nam trong vùng tứ giác phía tây
là do tên Phou-cao cầm đầu, biệt danh hắn là quan-cọp. Có lúc ta nghĩ rằng quân
An nam rút về sào huyệt kiên cố để chống lại các đạo quân lưu động của ta xuất
phát từ My-thô, mượn hệ thống kinh rạch đổ thẳng vào sông Cambodge để di
chuyển, vì thế ta phải nỗ lực đánh tan chiến thuật này của địch, không cho
thiết lập đồn lũy cố thủ như trước. Ta bèn lấy quyết định gởi một đạo quân
chinh phạt [24] đi đánh phá Mi-cui.
Cuộc hành quân của ta không gặp sức kháng cự nào đáng kể
của địch; địch quân tiếp tục tháo lui như thường lệ, nhưng từ xa vẫn bắn loạn
lên bằng súng nhẹ. Mùa mưa lại bắt đầu trở lại, thật là khốc liệt, làm quân sĩ
di chuyển hết sức cực nhọc và nguy hiểm chết người.
Go-cung và Mi-cui là những địa danh mà ta biết để kể ra
đây làm điển hình cho một thứ chiến tranh mà kẻ thù hoàn toàn vô hình.
Nếu ta chỉ dựa vào sức cố gắng và kiên trì của địch khấy rối trong mùa mưa để
đánh giá tình hình thật sự của hai tỉnh vừa chiếm thì hoàn toàn sai. Không có
chút gì tương xứng giữa tổ chức trong bóng tối của địch so với những tai hại
nặng nề mà ta đang phải gánh chịu.
vài hành động kháng
cự trong một chiến trường giới hạn thật không đáng kể gì hết khi đem so với một
trận chiến khác đang dai dẳng: tức là trộm cướp. Chính sứ thần An nam cũng than
phiền về việc cướp bóc đã tăng lên gấp đôi từ khi có loạn. Các đề nghị hòa bình
vẫn tiếp tục được trao đổi giữa sứ thần An nam và vị chỉ huy trưởng của ta.
Nhưng những cuộc thương thảo này vụt ngưng vào tháng tám, sau khi ta tức dận
bắt được gần Tram-bam bản tuyên cáo của triều đình Huế. Hoàng đế Tu-duc treo
giá đầu của chúng ta và trách dân không biết tận dụng nghị lực và tiềm năng của
mình để tìm phương cách đánh đuổi ngoại xâm. Sau đây là lời lẽ của bản tuyên
cáo:
Ngày
thứ 3 trong tuần trăng thứ 3 (tức ngày 1 tháng 3, năm 1861)
‘’Từ ba năm nay người Pháp đến quấy rối ta tại Gia-dinh;
nơi đây họ đã phá thành, giết hại và đánh đuổi quân sĩ phòng thủ của ta. Tất cả
thần dân có thấy phẩn nộ hay không, tôi tưởng rằng toàn dân nhất là những ai ở
Nam kỳ miền dưới sẽ sẵn sàng hợp tác với quân sĩ để trả thù cho những nơi bị
địch đánh bại. Người Pháp không phải cùng một giống dân với ta, họ áp bức chúng
ta, hãm hiếp phụ nữ ta [25]. Tất cả những ai bất nhẫn vì những việc này hãy
quay về hợp tác với tôi.
‘’Trong số các ngươi có ai muốn thờ họ và theo đuôi họ
không?
‘’Trước đây, tôi đã đưa ra một bản tuyên cáo cho chính
quyền sáu tỉnh, trong đó tôi đã báo rằng
‘’Tất cả công bộc phải tuân lịnh tôi; phải lo kêu gọi dân
chúng nổi lên để tổ chức nghĩa quân theo những thể thức như sau:
‘’Ai kết nạp được 10 người thì được phong chức ba-bô;
‘’Ai kết nạp được 50 người thì được phong chức
chanh-luc-pham-suat-doi (đại úy). Ðược lãnh khẩu phần của nhà nước và được cấp
khí giới để tập luyện.
‘’Ai kết nạp được 100 người sẽ được phong pho-ve.
‘’Ai kết nạp được từ 200 đến 400, sẽ được phong chức tương
xứng với số người kết nạp.
‘’Ai kết nạp đưọc một đạo quân 500 người sẽ được phong làm
chanh-nguyen-pham-co (đại tá).
‘’Nếu ai bắt được một người Pháp, sẽ được thưởng bốn lượng
bạc.
‘’Nếu ai giết được một người Pháp, sẽ được thưởng hai
lượng bạc.
‘’Nếu ai giết được một người An nam theo Pháp sẽ được
thưởng một lượng bạc.’’
‘’Hứa hẹn như thế, tức chúng tôi muốn huy động toàn dân
chống lại người Pháp. Tại Gia-dinh đã có 308 người can trường theo về với quân
đội của chúng ta; ở Vinh-long đã có 140 người Chưa kể năm tiểu đoàn chính quy
và một trung đoàn nghĩa quân trước kia ở Saĩgon nay đã quy tụ về Bien-hoa,
ngoài ra còn có năm trung đoàn nghĩa quân đang được bí mật thành lập.
‘’Chẳng lẽ vận hạn của ta cứ đeo đẳng ta mãi hay sao?
‘’Hôm nay chúng ta hiểu rằng những khó khăn lớn nhất là ở
Gia-dinh và Dinh-thuong, chúng ta đã mất hai thị xã của hai tỉnh này. Chúng tôi
nghĩ rằng những ai đã quay về trong lòng gia đình họ là điều phải; nhưng đã đến
lúc cần đồng loạt đứng lên theo về với tôi; tôi sẽ hân hoan đón rước để cùng
nhau đánh đuổi người Pháp ra khỏi các tỉnh của ta. Sau này, khi chiến thắng, sẽ
được thăng thưởng xứng đáng để an hưởng trong hòa bình.
Hoàng đế Tu-duc’’
Sứ thần An nam đã lừa gạt ta rõ ràng. Có nhiều người trong
chúng ta coi đó là một chuyện đáng bất nhẫn hơn là hợp lý. Người An nam nói hòa
bình nhưng lại chuẩn bị chiến tranh với ta. Chuyện dối gạt này chỉ có thể xảy
ra với các dân tộc văn minh mà thôi và ta cũng phải thú nhận rằng giữa họ và ta
chưa hề có cuộc đình chiến nào chính thức được công bố? Sau hết, khi họ đưa ra
lý do bảo vệ lãnh thổ của họ tức đủ để bào chữa tất cả; một khi việc xâm lược
của ta chưa kết thúc, dân chúng chưa bị dẹp yên bằng vũ lực, thì bất cứ một
cuộc nổi dậy vũ trang nào cũng có thể gọi là chiến tranh dành độc lập được. Nói
chung ý thức đó giống như rễ cây ăn sâu vào lòng đất đã nằm sẵn trong
lương tâm của con người; ý thức như vậy rất đúng, đúng cả với những người nông
dân thiếu cả vũ khí và chỉ biết trồng lúa mà thôi. Biện pháp ra giá đầu của
chúng ta rõ ràng là một hành động bỉ ổi và khích động hành vi ám sát. Thật quả
là một chuyện đáng buồn khi ta không tìm thấy ở những dân tộc mà ta gọi là man
rợ những hành vi mềm dẽo hơn như ta đã thấy trong các trận giặc ở Ðức và Ý.
Nhưng chúng ta cũng phải chú ý tới ảnh hưởng của phong tục, tập quán của một xứ
quá xa và quá khác biệt với Âu châu. Giữa một giai đoạn suy xụp của giáo điều,
của nguyên tắc, của tư tưởng và giữa nhưng gì hôm nay ta gọi là bậc thánh, ngay
mai sẽ trở thành kẻ sát nhân, chẳng cò gì để tôn trong nữa, thì đương nhiên
phần ta, ta cũng có quyền tự vệ. Trong lúc việc thương thảo gián đoạn ta cứ xử
dụng quyền tự vệ của ta. Tuy nhiên tỉnh Gia-dinh vẫn hoàn toàn yên tỉnh. Vùng
tứ giác phía đông vẫn bình yên, dân chúng chỉ nổi dậy lẻ tẻ ở vùng tứ giác phía
tây.
Tình trạng yên ổn này chứng minh một sự kiện rõ ràng:
trong thâm tâm người An nam không bao giờ mất lòng tin. Họ vẫn mong đợi một
biến cố nào đó làm chúng ta mệt mỏi và phải nới tay không bóp nghẹt họ nữa. Tuy
rằng lòng tin có còn, nhưng thực tế không chối cải được là sau khi bại trân họ
đã phải đưa đầu vào gông nô lệ. Ta chỉ hy vọng bất cứ đâu, từ những nơi xa
Saĩgon và My-thô dù cho hẻo lánh hay cách trở, khi một người An nam nhìn thấy
ta tức họ phải hiểu ngay sự trừng phạt có thể giáng xuống đầu họ tức thời. Ta
cũng hy vọng thêm là hệ thống hành chánh mà ta hứa hẹn với họ sẽ tương xứng và
thích nghi với cái tôn giáo có nhiều an ủi của họ, tâm trạng của họ rồi cũng sẽ
thay đổi với thời gian. Về phần ta, ta cũng sẽ hy vọng gặt hái những kết quả do
sự phấn đấu, lòng quả cảm, sức chịu đựng mọi thiếu thốn của ta, và nhất là sự
hy sinh khiếp đảm nhất cho Thần Chết từ năm năm nay.
Những nhận xét mà ta vừa trình bày trên đây chỉ để áp dụng
cho việc thành lập thuộc địa của ta mà thôi, không thể dùng cho người sau, khi
lật lại lịch sử [26]. Trong vòng mùa mưa năm 1861, vì khuynh hướng cướp
bóc của người An nam, thêm cảnh các tàu chở lương thực và than bắt mang về
nhiều người có thói hung bạo, ta còn phải chận đứng việc buôn bán lén lút súng
đạn với Singapour vì thế ta phải đưa ra nhiều biện pháp đặc biệt; hoàn cảnh
khắt khe này thật sự không thích hợp chút nào để ta tìm kiếm giải pháp dung hòa
giữa sự thống trị của người Pháp và dân chúng An nam. Dù sao thuộc địa vẫn được
thành lập. Trước kia Saĩgon không có tòa án và quan tòa, ngay cả các vùng ta
thiết lập cũng vậy. Hoàn cảnh chiến tranh không cho phép để thực hiện. Vào giữa
tháng tư, một anh lính thủy người Mỹ bị một người đồng hương của mình giết chết
trong một cuộc ẩu đã. Chính quyền Pháp hoàn toàn bất lực trước những loại tội
phạm như vậy. Tóm lại một bộ luật dành cho người An nam sẽ phải được soạn thảo
trong tương lai; các người Pháp ta đưa về làm tỉnh trưởng, quận trưởng chỉ được
quyền xử phạt những tội phạm nhẹ, không quan trọng mà thôi. Vị chỉ huy trưởng
xin chính phủ Pháp phải gấp rút thiết lập tại Saĩgon một tòa án; nhưng trong
khi chờ đợi, toàn thể lãnh thổ do ta chinh phạt được phải đặt trong tình trạng
giới nghiêm bằng một bản tuyên cáo ghi ngày 19 tháng năm, bản tuyên cáo có nội
dung như sau:
‘’Phó đề đốc hải quân, chỉ huy trưởng các lực lượng
hải quân Pháp trên các vùng biển Tàu, các lực lượng bộ binh cũng như thủy binh
tại Nam kỳ;
‘’Nhận thấy rằng:
‘’Trong khi chờ đợi thiết lập tòa án có dủ thẩm quyền xét
xử trọng tội và thường phạm, thì ngay bây giờ phải trừng trị cấp bách các tội
phạm đó;
‘’Ngoài ra còn phải kể đến tình trạng chiến tranh giữa
chính phủ của Hoàng đế nước ta và chính quyền Hué;
‘’Tuyên cáo như sau:
‘’Chiếu theo luật ngày 9 đến 11 tháng 8 năm 1849, điều
khoảng 5, chương II, các tỉnh Saĩgon, My-thô và tất cả các vùng lãnh thổ do ta
chiếm phải đặt trong tình trạng giới nghiêm.
‘’Tuy nhiên, chiếu theo điều khoản 7, chương III của bộ
luật trên, chánh quyền dân sự vẫn tiếp tục như trước đây để thực thi quyền hạn
của mình, và khi nào quyền hạn đó xét thấy thiếu sót thì lực lượng quân sự sẽ
tiếp tay nếu có hiệu lịnh của vị chỉ huy trưởng truyền xuống.
‘’Vị chỉ huy trưởng toàn bộ đạo quân viễn chinh và các chỉ
huy trưởng đặc trách hai tỉnh Saĩgon và My-thô được giao phó dùng tất cả mọi
phương tiện để phổ biến bản tuyên cáo này.’
Hành động đó chứng tỏ uy lực và quyết tâm của nước Pháp
chiếm giữ vĩnh viễn không nhân nhượng vùng lãnh thổ Saĩgon và My-thô. Trong dịp
này, đại tá don Carlos Palanca Gutierrez, chỉ huy các lực lượng Tây ban nha và
cũng là đại diện toàn quyền của vương triều Tây ban nha, tự thấy phải phản đối
và dành quyền phản ứng của nước Tây ban nha trước sự việc này. Vị toàn quyền
Pháp ghi nhận sự phản kháng của phía Tây ban nha, nhưng ông vẫn giữ nguyên
quyết định của mình. Thái độ của vị chỉ huy trưởng Pháp trong sự tranh chấp này
phản ảnh thật sự bản tính của ông nhưng đồng thời cũng phù hợp với các chỉ thị
do chính phủ của Hoàng đế nước Pháp chuyển xuống cho ông. Chỉ thị này như sau:
’’Trình bày cho ông biết rằng ông đã nhận được lịnh đánh chiếm Saĩgon, chinh
phục và tổ chức một phần lãnh thổ tại đây, và nhắc cho ông biết Tây ban nha chỉ
được đền bồi cho sự hy sinh vẻ vang của mình tại một địa điểm khác ở Nam kỳ mà
thôi’’. Vấn đề này thật ra chỉ có thể giải quyết một cách toàn vẹn giữa hai
chính phủ. Quả đúng đã được giải quyết như vậy, nhưng mãi về sau mà thôi: hiện
nay vấn đề này gây ra bất đồng chính kiến giữa hai vị toàn quyền, mặc dù sự
liên hệ cá nhân giữa hai người không bị sứt mẻ gì vì chuyện này; tranh chấp
cũng không phải là một chuyện xấu xa đối với lịch sử, nếu ta cứ nhìn lại hai
thế kỷ trước đây, cơ đồ của một đại quốc gia hùng mạnh đã đi đến chỗ đổ nát chỉ
vì sự bất hòa giữa hai vị chỉ huy quân sự [27]Các biện pháp cực đoan của tình
trạng giới nghiêm đem lại cho ta kết quả tốt, nhưng đồng thời cũng gây ra những
hậu quả xấu là những hành động tàn bạo không thể tránh do giới nghiêm mà ra,
chẳng hạn như hành động xúc phạm quá sâu vào đời sống cá nhân và riêng tư của
người An nam trong xã hội của họ. Nhưng chính biện pháp này lại làm gia tăng
quyền uy của người Pháp, giúp cho vị phó đề đốc của ta rảnh tay tận dụng quân
lực để chuẩn bị cho việc chinh phục thêm những vùng đất mới.
Tình trạng thuộc địa của ta khi mưa lũ chấm dứt và khi
đồng ruộng khô cứng trở lại thật hết sức là huy hoàng. Uy quyền của người Pháp
trong các tỉnh đã chiếm không hẳn chỉ là uy quyền trên danh nghĩa. Từ Saĩgon
đến My-thô, uy danh của ta thật sáng ngời. Chỗ nào ta cũng thấy người Pháp, từ
Go-cung đến Tay-ninh, từ bờ biển Tàu đến biên giới Cao miên. Các đoàn tàu buôn
thật tấp nập nối liền Saĩgon và My-thô, có khi lên đến 200 chiếc một lúc. Giao
thương ở thành phố Tàu tăng lên mười lần hơn trước, bằng cớ là giấy tờ thương
mãi của thời này chứng minh rõ rệt. Hành động chống đối từ phía Bien-hoa thu
hẹp chỉ còn vài trận đụng độ lẻ tẻ, các thắng lợi lớn của người An nam chẳng
qua là những vụ đánh cắp trâu bò mà thôi. Có một số quân chính quy An nam đóng
trên một vùng cao nguyên là Mi-hoa, giữa Fou-yen-mot và Bien-hoa, nhưng không
gây áp lực gì đến hoạt động của ta. Một vài vụ kháng cự còn xảy ra về phía kinh
Thương mãi, nhưng ta đã quan tâm và chú ý, nên chỉ cần đưa ra vài biện pháp đàn
áp, trừng trị là xong.
Cái bản tính thông thường của trí tuệ con người là ghê tởm
những gì không chính xác, rõ rệt và công thức. Ta muốn tìm một lý do chính giải
thích sự xuất hiện của những nhóm kháng chiến rình rập chung quanh các đạo quân
của ta trong mùa mưa; họ xuất hiện phía sau khi ta tiến lên phía trước, ta lại
thấy họ phía trước khi ta quay lại điểm xuất phát lúc buổi sáng. Giống như họ
từ dưới đất chui lên. Phải moi óc để tìm ra địa điểm trung tâm xuất phát của
họ, từ đâu họ lấy lương thực để ăn, từ đâu họ lấy khí giới để đánh. Vì vậy mà ta phải nghĩ tới Bien-hoa. Sau Bien-hòa ta lại cho là Vinh-long.
Sự thật thì trung tâm xuất phát các cuộc đề kháng ở khắp nơi, chia cắt ra cho
tới con số vô cực, con số này tăng lên cho tới khi nào bằng với con số người
dân An nam[28] Nói một cách đúng hơn, thì phải xem mỗi một nông dân đang bó một
bó lúa trong ruộng là một trung tâm kháng chiến. Ðiểm bất lợi cho cuộc chiến
đấu của ta trên một vùng địa thế mà địch vẫn thản nhiên sinh sống và trốn lánh
dễ dàng,_ chiến tranh mang dần tính cách cá nhân, thay đổi mục tiêu và danh
nghĩa, trở thành một thứ chiến tranh đàn áp. Ta thấy thật rõ ràng từ ngày thất
thủ Kì hòa và My-thô người An nam chỉ tìm cách làm ta hao mòn mà không thiết
lập chắc chắn một chỗ nào nhất định để thách đấu với ta. Bắt đầu từ giờ phút
này, mỗi khi đem quân tấn công họ thì ta biết trước chắc chắn họ sẽ nhường bước
và tháo lui, rồi lại tiếp tục thiết lập sào huyệt phía sau hoăc phía trưóc địa
điểm ta dự đînh tấn công. Tuy nhiên đã đến lúc mà ta phải đánh chiếm Bien-hoa,
vì thị xã của tỉnh Bien-hoa đã nằm trong danh sách các mục tiêu bành trướng
thuộc địa của ta, gồm trong vùng đất kéo dài tới sát ranh giới dãy núi
Fan-thiet.
hiến thắng Kì hòa và My-thô đã chuẩn
bị sẵn cho việc đánh chiếm Bien-hoa, công tác này sẽ do người thay thế
phó thủy sư đề đốc Charner thực hiện. Khi chiến dịch năm 1861 chấm dứt, vị chỉ
huy trưởng cho rằng sức mạnh quân sự của người An nam đã bị đánh tan và việc
chinh phạt bước vào tình trạng giống như lúc đầu khi ta đánh chiếm Algérie.
Công trình này còn đòi hỏi thời gian và cố gắng của nhiều sĩ quan cao cấp khác
nữa, không phải chỉ nằm trong xứ mạng đã giao phó cho ông, phần ông đã làm tròn
trách nhiệm. Chuẩn đề đốc hải quân Bonard được chỉ định, bằng nghị định ký ngày
8 tháng 8 năm 1861, giữ chức toàn quyền và làm chỉ huy trưởng các lực lượng
Pháp tại Nam kỳ. Nhưng thật sự ông chỉ đến Saĩgon ngày 27 tháng 11, vì chuyến
vận hành của ông quá lâu và khó khăn. Chỉ trong vòng ba ngày là phó thủy sư đề
đốc Charner đã giao xong quyền hành cho chuẩn đề đốc Bonard. Ngày 30 tháng 11,
đúng chín giờ sáng, tất cả các trưởng sở đều tụ tập tại ngôi chùa, nay mang tên
ta đặt là Công sự Mới. Vị cựu chỉ huy trưởng ngỏ lời với các sĩ quan bộ binh và
hải quân đang vây quanh ông nhưng không còn dưới quyền ông nữa. Tóm tắt những
lời của ông như sau ’’rằng ông xin từ biệt họ, trong suốt sự nghiệp lâu dài của
ông từ thời đệ nhất đế ch3] Câu này có ẩn ý rất ngạo mạn: nếu khôn ngoan thì
phải chấp nhận. Nguyên văn là : à la sagesse du Nguyen. Cách dùng chữ rất lắc
léo vì chữ này có nhiều nghĩa trong tiếng Pháp, người đọc có thể tự hiểu theo ý
mình. Ðoạn này tác giả tóm tắt công hàm của dề đốc Charner trả lời phía An nam,
(ghi chú của người dịch).
[4] Phía Pháp ngưng thương thuyết vì
bắt được tuyên cáo của triều đình Huế kêu gọi dân chúng do hai đứa trẻ mang vào
Tram Ban, tác giả có nói ở chương trước, (ghi chú của người dịch).
[5] Trong nguyên bản là :
‘’piastres’’; tạm dịch là đồng bạc, giá trị một đồng bạc lúc đó đối với vàng
như thế nào thì không được rõ, (ghi chú của người dịch).
[6] Tôi nghĩ chữ này là ‘’quê quán’’,
có lẽ tác giả viết ngược thành ra là ‘’quan-quê’’ ? (ghi chú của người dịch).
[7] Mỗi bếp lửa là một gia đình. Còn
chuyện phân chia ruộng vườn thành từng miếng nhỏ theo tác giả là không thông
minh. Tôi mạn phép được nghĩ khác hơn, việc canh tác vẫn còn dùng sức người,
phân chia ruộng vườn ra từng mãnh nhỏ là tận dụng tối đa sức làm việc của từng
gia đình trên mãnh đất của mình, năng xuất sẽ cao hơn là làm tập thể hay có
tính cách quy mô, (ghi chú của người dịch).
[8] Người được phong chức này có nhiều
ưu đãi đặc biệt. Người vin-teut được hưởng trợ cấp và có quyền làm quan không
cần thi cử, (ghi chú của tác giả).
‘’Vin-teut’’ phiên âm ngược ra chữ
hán có lẽ là ‘’vinh tước’’ ?, vinh là vinh quang, vinh dự , tước là tước phong,
không có nghĩa gì là con quan, (ghi chú của người dịch).
[9] Dân quân gồm những người nghèo
hoặc lang thang trong vùng, đông nhất là sau thời kỳ giặc giã năm 1835. Hoàng
đế tại triều đình giúp đỡ họ đinh cư trong vài tháng đầu. Họ không làm sở hữu
chủ đất đai, chỉ hưởng huê lợi trên mãnh đất họ làm. Ngoài việc đồng áng, lúc
rảnh thì họ tập luyện với khí giới thật cổ lỗ. Khi có chiến tranh thì được tập
trung để chiến đấu. Các người chỉ huy là những người nổi danh can trường hoặc
những người giỏi trước kia từng giữ những chức vụ hành chánh. Dân quân trong
sáu tỉnh, tức là những người Don-dien, gồm cả thảy hai mươi bốn trung đoàn,
tính theo số lượng là mười ngàn người vũ trang ; khi lịnh tập họp ban ra thì
chính quyền có ngay một lực lượng rất chặt chẻ. Xem thêm ghi chú ở chương VII,
(ghi chú của tác giả).
[10] Theo tôi hiểu xử bắn là một vinh
dự của người chiến sĩ, treo cổ là dành riêng cho kẻ phạm pháp, (ghi chú của
người dịch).
[11] Ðúng vậy, chưa đầy một trăm năm
sau thì người Pháp ký hiệp định Genève, xin người đọc cũng chú ý đoạn tiếp theo
bên dưới, tác giả viết :’’Hình như địch cũng chọn một chiến thuật mới...’’ (ghi
chú của người dịch).
[12] Xin cám ơn tác giả, (ghi chú của
người dịch).
[13] Là một vùng lãnh thổ rộng lớn
gồm nưóc Pháp, nước Bỉ, Thụy sĩ, và một phần nước Ðức mà người La mã xâm chiếm
và đô hộ từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ IV, (ghi chú của người dịch).
[14] Tin tình báo này do chính miệng
của một người An nam biết rất rõ triều đình Hué, người này là con trai của vị
phụ tá tay trái ( Ta-tham-tri ) tức bộ trưởng Try-phy-hien.
[15] Ta thì lại nói khác, ví dụ để
chỉ những người hút thuốc phiện thì ta nói là hai vai rút lên. Người Tàu thì có
thành ngữ như sau :’’Nó có hai vai rút lên ngang hàng với hai lổ tai’’,(ghi chú
của tác giả).
Người dịch xin ghi chú thêm : đây là
cách viết cực kỳ kín đáo của tác giả, có lẽ tác giả muốn ám chỉ hoàng đế Tự-Ðức
có hút thuốc phiện nhưng không nói ra, chỉ giải thích một chuyện bâng quơ không
dính dấp vào đâu cả, lại đặt riêng vào một hàng ghi chú cuối trang sách. Theo
tài liệu ghi chép của quan tổng đốc Thân trọng Huề thì vua Tự Ðức hút thuốc lào
(không phải là thuốc phiện), bên cạnh lúc nào cũng có một người lính hầu dể châm
đóm,(ghi chú của người dịch).
[16] Thiệu-trị (ghi chú của người
dịch).
[17] Hoang bao = Hồng Bảo, (ghi chú
của người dịch).
[18] Theo quyển sử của Trần trong
Kim, thì Hồng Bảo ‘’đồ mưu với một nước ngoại quốc tranh ngôi vua. Chẳng may sự
lộ ra ông ấy phải bỏ ngục, rồi uống thuốc độc mà chết. Con ông ấy thì được tha
mà phải đổi tên là Ðinh Ðạo’’. Theo một tác giả Mỹ Stanley Karnow (S. Karnow,
Viêtnam, WGBH, 1983) thì Hồng Bảo bị một số người An nam theo đạo xúi dục và âm
mưu, (ghi chú của người dịch).
[19] Ðây là một tiếng lóng mà tác giả
không muốn viết thẳng ra, thật là khó đoán sau gần 150 năm. Tác giả có lối viết
lắc léo, mập mờ, lắm khi làm cho người dịch cũng bực mình, vì nếu giữ nguyên
cái ’’kín đáo’’ của tác giả thì bản dịch sẽ trở thành quái dị và tối om, không
hiểu nổi. Còn nếu như bật mí thì mất đi cái ‘’cố tình lắc léo’’ của tác giả.
Chẳng hạn như đoạn trẻ con An nam chửi lính Tây, hoặc hệ trọng hơn như việc
Charner nhúng tay vào việc nổi loạn cướp ngôi ở Cao miên. Còn tiếng lóng mà
quân viễn chinh dùng với nhau để chửi các quan triều đình Huế thì phải chịu,
đoán không nổi, (ghi chú của người dịch).
[20] Một người bạn, cháu năm đời của
cụ Nguyễn Tri Phương, cho tôi biết điều này không đúng. Người này là cháu cố
của phò mã Nguyễn Lâm, Nguyễn Lâm là con của cụ Nguyễn Tri Phương. Phò mã
Nguyễn Lâm là chồng của công chúa Ðồng Xuân, còn gọi là công chúa Phúc Lễ, em
khác mẹ với vua Tự Ðức. Vậy cụ Nguyễn Tri Phương không thể nào là ông ngoại của
Hồng Bào được; ông ngoại của Hồng Bào phải thuộc vào một thế hệ trên nữa. Thân
phụ của người bạn vừa kể là cháu nội của phò mã Nguyễn Lâm, đã lớn tuổi, hiện sống
ở Mỹ, cũng xác nhận điều này, (ghi chú của người dịch).
[21] Tức là phủ, nên người này có
biệt danh là Phủ cọp, phủ tạm xem như tương đương với tỉnh (préfecture) trên
đất Pháp, (ghi chú của người dịch).
[22] Có lẽ là làng Mỹ- Quý, gần Mỹ
tho ? (ghi chú của người dịch).
[23] Tức vị quan trấn thủ thành
My-thô trước đây, (ghi chú của người dịch).
[24] Ðạo quân viễn chinh này gồm một
phần quân lính đóng ở thành My-thô (đai úy Brière de l’Isle, trung úy
Champanhet, ba mươi người của đại đội 32 thuộc trung đoàn 3 thủy binh bộ chiến;
trung úy Chériner và hai mươi lăm người của đại đội 30, tăng cường thêm hai
mưoi lăm thủy binh chiến đấu); đại đội của tàu Duperré do trung úy hải quân
Carrade chỉ huy; một đạo thủy binh chiến đấu do trung úy hải quân Hanès chỉ
huy; trung úy hải quân Noẽl điều khiển một ca-nô lớn của chiến hạm Prégent và
chiếc sa-lúp Soledad. Ðại úy hải quân Devaux nắm quyền thống lãnh toàn bộ đạo
quân này; sĩ quan hành chính Tây ban nha là Olabe giữ chức chỉ huy tổng hành
dinh.
[25] 2 Người dịch không có tài liệu
bằng tiếng nôm của bản tuyên cáo này, chỉ xin dịch lại từ tiếng Pháp trong
sách. Từ tiếng nôm dịch sang tiếng Pháp, từ tiếng Pháp lại chuyển sang
tiếngViệt nam, tránh sao cho khỏi những sai lầm, xin tạ lỗi đến những nhà viết
sử. Nguyên văn trong sách tác giả dịch là : ‘’faire violence à nos femmes’’,
chữ violence trong tiếng Pháp xưa có nghĩa là hãm hiếp. Từ thượng cổ, hành động
đầu tiên của một đạo quân xâm lược sau khi thắng trận là hãm hiếp phụ nữ, nhưng
tuyệt nhiên không thấy tác giả nhắc đến chuyện này trong sách. Dù sao, lúc nào
tôi cũng cám ơn tác giả đã viết nhiều đoạn rất thành thực và khá khách quan,
tôi không dám đòi hỏi hơn, (ghi chú của người dịch).
[26] Thêm một lần nữa người dịch xin
ngã nón trước thái độ rất ý thức và khá khách quan của tác giả và cũng xin tạ
lỗi đã mạn phép lật lại một vài trang sử nhỏ mà tác giả đã ghi chép. Mặc dù một
thế kỷ rưõi cách nhau, nhưng trên phương diện con người ta có đủ sức hiểu nhau
và tha thứ lẫn cho nhau hay không? (ghi chú của người dịch).
[27] Người dịch cũng chẳng hiểu tác
giả muốn ám chỉ quốc gia nào, các vị tướng lãnh nào và trong trường hợp nào,
quả thật người dịch dốt đặc về lịch sử, (ghi chú của người dịch).
[28] Tôi mạn phép không đồng ý lắm,
vì nghĩ rằng ta phải trừ ra một số người vì lý do này hay lý do khác không phải
là một trung tâm kháng chiến. Dù sao tôi cũng xin cám ơn con tính quá rộng rãi
của tác giả và biết ơn tác giả với tư cách một nhân chứng trước lòng thương
nước của tổ tiên tôi, những người nông dân đang bó lúa trên những thửa ruộng
sình lầy. Gần đây khi phát xít Ðức xâm chiếm nước Pháp không biết có bao nhiêu
trung tâm kháng chiến nổi lên, chỉ nghe nói nhiều đến chính phủ Vichy.
[29] Ðệ nhất đế chế là chế độ chính
trị của Pháp từ tháng năm 1804 đến tháng tư 1814, Nã phá luân đệ nhất làm hoàng
đế. Ðệ nhị đế chế : từ tháng mười hai 1852 đến tháng chín 1870, Nã phá luân đệ
tam làm hoàng đế. Như vậy là sự nghiệp binh bị của Charner bắt đầu dưới thời Nã
phá luân đệ nhất, (ghi chú của người dịch).Kết luận
(một vài cảm nghĩ của người dịch)
Tôi ngồi im rất lâu trước khi viết
được những dòng này. Thật nhiều xúc cảm dâng lên trong tôi, vui buồn lẫn lộn,
có lúc lâng lâng trong thương nhớ, có lúc đớn đau và chua xót. Tôi cố len lỏi
giữa những xúc cảm, tìm lại một chút ánh sáng của lý trí để tóm tắt bản dịch
vừa làm xong.
Tôi chia kết luận ra làm nhiều phần:
Phần 1: Vài nhận xét về tác giả và tác
phẩm
Phần 2: Quân đội viễn chinh và quân
đội An nam
Phần 3: Con người và Xã hội An nam
Phần 4: Một vài cảm nghỉ về lịch sử
Phần 1: Vài nhận xét về tác giả và
tác phẩm
Một quyển sách, nhân chứng của một
người, hay kết quả suốt một đời nghiên cứu của một sử gia cũng chỉ là một giọt
nước trong đại dương mênh mông của lịch sử mà thôi Ta chỉ nên đánh giá tác giả
như một con người, một quyển sách là một tác phẩm, một bộ sử cũng chỉ là những
góp nhặt thiếu sót và méo mó xuyên qua cá tính của một người hay của một nhóm
người viết sử.
Xuyên qua tác phẩm vừa dịch tôi tìm
thấy Léopold Pallu. Tác giả có lúc khách sáo, có lúc thành thực, có lúc bồng
bột và hời hợt nhưng cũng có lúc rung động và sâu sắc Tôi kính trọng tác giả
trên phương diện con người, tôi biết ơn tác giả trên phương diện một nhân chứng
trong một giai đoạn lịch sử của quê hương tôi.
Vậy thì tác giả là ai? Trên đất Pháp
ta có thể tìm cách phăng lần lên gốc gác của một nhân vật trong quá khứ, nhưng
cũng phải khó khăn và mất rất nhiều ngày giờ, nhưng để làm gì và có ích lợi gì?
Trong chương một của quyển sách, tôi thấy tác giả có viết một câu: từ trên đỉnh
cột cờ của chiến hạm Impératrice-Eugénie ta có thể nhìn thấy thành phố Thượng
hải. Câu này giúp ta đoán tác giả đã từng có mặt trên chiến hạm của phó đề đốc
Charner. Tìm trong phần phụ lục và trong danh sách các sĩ quan trên tàu
Impératrice -Eugénie, tôi thấy có một người mang tên Pallu, trung úy hải quân
đại chiến hạm (lieutenant de vaisseau) thuộc ban tham mưu của tàu này.
Tác giả rất chính xác trong cách mô
tả và kể chuyện các trận đánh. Chắc hẳn là tác giả đã chép lại từ nhật ký của
mình. Tác giả đưa ra nhiều chi tiết về đoàn quân viễn chinh, các kế hoạch hành
quân và những dọ dẫm của người Pháp tìm kiếm một phương pháp cai trị người An
nam. Biết rõ các chuyện này hẳn tác giả là một người bên cạnh phó đề đốc
Charner. Ta cũng thấy tác giả ghi lại các lời chỉ thị của Charner cho các sĩ
quan dưới quyền, nhất là cách cử xử của hai sĩ quan lần lượt thống lĩnh đạo
quân viễn chinh đi đánh Mỹ tho, họ phải đối xử như thế nào khi gặp phó vương An
nam thống giữ thành Mỹ tho. Nhưng thật ra trận đánh cũng không xảy ra, mà
chuyện hội kiến với phó vương An nam cũng không cóTác giả cũng kể cho ta nghe
lời Charner chỉ bảo người sĩ quan đặc trách chính trị tại Trảng bàng về đường
hướng chính trị của Pháp đối với Cao miên và cách đối xử với người Cao miên
sinh sống trên phần đất Nam kỳ. Tất cả những huấn thị, dặn dò tác giả đã ghi
lại từ lời nói miệng của Charner. Vì vậy khó có một tài liệu lịch sử nào để
chứng minh. Tác giả là một nhân chứng quí báu là vì vậy.
Tác giả mô tả trận tấn công thành Kì
hòa, cảnh phá cừ cọc trên đường đánh Mỹ tho, cảnh lạc đường, quân lính cãi
nhau...thật là chi tiết. Phải chú ý lắm mới thấy sự hiện diện của tác giả trong
các hoàn cảnh đó, ông hoàn toàn xóa bỏ cái tôi của mình, tránh không bao giờ
nói đến bản thân mình. Từ trang đầu cho đến trang cuối cuốn sách, tác giả không
bao giờ dùng chữ tôi. Quả thật khéo léo và đáng kính phục. Tác giả mô tả chân
dung, dáng dấp, thái độ của vua Tự Ðức làm cho tôi nghĩ rằng chính ông đã yết
kiến vua Tự Ðức. Tháng 2 năm 1863 toàn quyền Pháp là Bonard và toàn quyền Tây
ban nha là Palanca Gutierrez có yết kiến vua Tự Ðức, có lẽ tác giả thuộc thành
phần của phái đoàn này. Tác giả cũng tỏ sự ngưỡng mộ của ông đối với vua Tự
Ðức, trong khi hầu hết người Pháp trong đoàn quân viễn chinh và cả người Pháp ở
mẫu quốc lại khinh thường và coi Tự Ðức như một tên khát máu vì ảnh hưởng của
những chiến dịch do báo chí và một số người phát động để hợp thức hóa cuộc viễn
chinh Nam Kỳ. Quả tác giả là một người can đảm và ngay thẳng.
Nói về cách hành văn và diễn đạt tư
tưởng, tác giả viết rất kín đáo, thích cách nói một nữa, còn một nữa để cho
người đọc tự tìm hiểu lấy. Ví dụ như khi ông muốn ám chỉ bàn tay của Charner
trong vụ cướp ngôi ở Cao miên, trợ cấp của hoàng đế Tự Ðức, hoàng đế Tự Ðức có
hút thuốc phiện... (mặc dù không biết có đúng hay không), nhưng nếu ta không
chú ý ta sẽ không hiểu được và thấy hết cái tinh vi của tác giả. Ông tả cảnh
một đàn gà chạy quanh đang bới đất ở sân chùa làm người lính thấy mà thèm,
trong chùa trên chiếc bàn của sĩ quan có vài chai rượu absinthe và vermouth.
Tác giả nói đến cái bất công trong quân ngũ một cách giản dị, hồn nhiên như đàn
gà đang bới đất.
Ông không bao giờ nói đến tên tuổi kẻ
địch của mình, tức là quan quân, tướng lãnh trong thành Kì hòa và Mỹ tho. Thật
là một sự tế nhị đáng kính nể. Ngay cả vị phó vương trấn giữ thành Mỹ tho mà
tác giả rất kính phục, ông cũng không nêu tên. Vị phó vương trước khi bỏ thành
đã trả tự do cho người thiên chúa giáo, một hành vi nhân đạo mà tác giả cho
rằng ngay cả người Pháp sau này cũng không ai làm nổi. Trong khi đó, trước khi
thành Mỹ tho bị chiếm, người thiên chúa giáo đã nổi lên đối xử với người ngoại
đạo như một thứ nô lệ. Kính trọng kẻ địch, không nêu tên tuổi những người bại
trận, thật anh hùng và cao quý biết bao nhiêu.
Tuy vậy tôi cũng hơi thất vọng khi
tác giả ca ngợi đoàn quân viễn chinh bằng những lời tán dương quá kêu, khách
sáo và rỗng tuếch Có thể thời đó là thông thường, cần thiết cho đời sống quân
ngũ? Dù sao thì lòng chân thật và lương thiện của tác giả cũng bị một chút tì
vết khi viết những đoạn quá công thức và rẻ tiền.
Tác giả là một người khá bộc lộ, nhạy
cảm và rung động. Ði đánh nhau nhưng vẫn cảm thấy cái thích thú khi bước trên
rêu. Cùng một cảnh Saigon nhưng có khi vui nhộn tưng bừng, có khi thấy buồn nản
chẳng có gì xem; cảnh đồng ruộng của Nam kỳ cũng thế, có khi xinh tươi và khả
ái, có khi buồn tẻ như một vùng đất Phật chẳng có gì để bám níu. Ông để lòng
mình trào ra theo nét bút.
Ông cũng hay dùng những hình ảnh
tương phản để diễn đạt ý tưởng của mình. Chẳng hạn những pho tượng trong chùa
với vẻ mặt trầm lặng và nụ cười nhân bản hơn là nhạo báng trước cảnh nhộn nhịp
ồn ào của quân sĩ đang chuẩn bị đánh nhau Trong cảnh chém giết sắt máu của trận
chiến Kì hòa, ông vẫn nhìn thấy một bầu trời thản nhiên và vô tình...
Tôi có hơi dài dòng, không phải để
tìm cách khen ngợi hay chỉ trích tác giả, điều này chẳng lợi ích gì, vì tác giả
hẳn phải nằm xuống với lịch sử từ lâu. Mục đích của tôi là trình bày cái chủ
quan trong một quyển sách, dù quyển sách đó là một quyển sách lịch sử. Một
quyển sách là một tác phẩm của một tác giả, dù tác giả là nhân chứng của một
giai đoạn lịch sử cũng vậy. Lời nói của một nhân chứng cũng giống như tiếng
đánh nhịp tích tắc của chiếc đồng hồ giữa cái thời gian vô tận của lịch sử mà
thôi. Tiếng tích tắc đâu phải là thời gian.
Tác phẩm của L. Pallu, dồi dào về dữ
kiện, linh động về chi tiết, quả là một tài liệu góp thêm cho những người viết
sử. Cái nhìn của một người ngoại quốc về chủng tộc, văn hoá, hành chính và luật
pháp của xã hội Nam kỳ vào giữa thế kỷ mười chín, tuy có phiến diện và hời hợt,
nhưng cũng có một chút giá trị nào đó cho các nhà xã hội học Một cái nhìn thật
quý báu cho mỗi người trong chúng ta dựa vào đó để tìm thấy một chút cội nguồn
của tâm hồn và bản tánh mình.
Trải qua một trăm năm đô hộ và sau đó
là giặc giã tiếp nối triền miên, tránh sao khỏi những mất mát. Nhưng ngày nay
ta vẫn còn tìm thấy trong xã hội Việt nam một chút rơi rớt của quá khứ, giúp
cho gia đình và xã hội không tan rã, tuy rằng xã hội Việt nam đang lâm vào
những khó khăn khác, phải tiếp tục chiến đấu một cách khác, để bảo tồn những gì
gọi là nguồn gốc của tổ tiên.
Lắm khi ta phải can đảm và trầm tĩnh
đứng về phía kẻ địch để nhìn lại ta. Cái nhìn dù có đau đớn và nhục nhã ta cũng
không lấy đó làm một sự phẩn uất, ta hãy để cho lòng lắng xuống, nhìn thật kỷ
những ưu điểm và khuyết điểm. Tuy rằng tác phẩm của L.Pallu chỉ là một giọt
nước của quá khứ, nhưng ta cố tìm trong giọt nước đó cái gương can đảm của
những người nằm xuống, cái trong sáng của tâm hồn một dân tộc, mặc dù giọt nước
đó giống như một giọt máu của tổ tiên.
Phần 2: Quân đội viễn
chinh và quân đội An nam
Tôi rất do dự khi thêm phần này vào
kết luận, vì sợ là một chuyện thừa. Quân đội viễn chinh là một đạo quân nhà
nghề, từng đi đánh chiếm thuộc địa khắp nơi. Quân của triều đình An nam lúc bấy
giờ chỉ để canh giữ biên thùy chống lại giặc Cao miên và giặc Xiêm la mà thôi.
Có một chi tiết cần nêu lên là theo
tác giả tổng số quân đoàn viễn chinh là 8 000 người, trong khi ấy các sách về
sử của ta ước tính chỉ 3 000 hay 3 500 như Viêt Nam sử lược (Trần Trọng Kim),
Việt sử toàn thư (Phạm văn Son) v.v.
Âu châu ở thế kỷ 19 đã hết sức tiến
bộ về kỷ nghệ, cần nguyên liệu thiên nhiên và thị trường để tiêu thụ sản phẩm.
Xã hội Âu châu bị nạn nhân mãn trầm trọng, dân quê đổ về thành thị tìm công ăn
việc làm. Thất nghiệp lan tràn. Các nước Âu châu phải cấp bách tranh đua nhau
đánh chiếm thêm thuộc địa. Ta cũng để ý trong sách tác giả cho biết lính viễn
chinh hầu hết là những người tình nguyện, nhiều người học tiếng An nam để ở lại
vĩnh viễn không trở về mẫu quốc nữa, một số chỉ biết đọc qua loa không đủ sức
dùng quyển tự điển có tiếng la tinh và tiếng An nam duy nhất lúc bấy giờ.
Súng ống của người Âu châu đã cực kỳ
tối tân, nòng súng có khía bên trong để hướng dẫn đường đạn chính xác hơn, xa hơn,
xuyên phá mạnh hơn. Ðạn đại pháo là những viên đạn bộc phá, thuôn dài chứa
thuốc nổ. Trong khi ấy đại pháo của quân đội An nam vẫn còn dùng đạn tròn và
đặc, đúc bằng gang hay sắt, đạn nạp từ đầu súng để bắn ra. Súng cá nhân thì
quân đội viễn chinh đã có loại súng cac-bin trong khi ấy quân An nam còn dùng
súng hỏa mai.
Về chiến thuật thì từ trước ta chỉ
biết xây thành đắp lũy để chống với giặc Cao miên và Xiêm la, chưa biết cách
trải rộng sức phòng thủ trong dân chúng. Nhưng theo sách của L.Pallu, thì chiến
thuật du kích đã phát sinh rất sớm từ năm 1861, tức chỉ vài tháng sau khi thành
Kì hòa và thành Mỹ tho bị mất. Ðịch quân thì cũng đánh bừa nhờ vào sức mạnh của
súng đạn. Ðịch đóng quân ở hậu tuyến thành Kì hòa, dựa vào bìa rừng, chưa kịp
dựng lều nấu ăn đã bị phục kích. Mặc dù chưa hề đi đánh nhau với ai, nhưng tôi
nghĩ quân An nam quen thuộc địa thế chờ giữa đêm xông vào mà đánh, cướp lấy
súng đạn có lẽ hay hơn. Hai bên cứ ngủ yên lấy sức hôm sau sẽ hay, tác giả
quyển sách có nói là suốt đêm thật yên tĩnh không có một tiếng súng. Nếu trong
thành ta cứ bắn ra đồm độp sáng đêm, địch ngủ không được có lẽ sáng hôm sau
cũng bớt hăng?
Ðề đốc Charner chọn một căn nhà trống
trong ngôi làng bỏ hoang cạnh ngay thành địch để lập tổng hành dinh có lẽ cũng
không thuộc sách lược nhà binh cho lắm, nên bị ngay một quả đạn xuyên qua mái
nhà. Ðạo quân đi đánh Hốc môn cũng vậy, chọn miếng đất cao ráo mát mẻ cạnh bìa
rừng để cắm quân mà nghỉ. Cũng may quân An nam đã bỏ chạy
hết rồi. Suốt ngày lính viễn chinh hành quân cực khổ, bị nắng như thiêu như
đốt, ngã lăn bất tỉnh phải nhờ nông dân giúp tay khiêng những quân lính đi
không được, chọn một nơi mát mẻ mà nghỉ ngơi là hợp lý.
Trận khởi nghĩa đầu tiên của người
An nam xảy ra tại Gò công. Sáng sớm, quân An nam từ dưới ruộng đánh trống đánh
chiêng vang lừng, dùng giáo, mác, súng ngắn cầm tay, xông vào sân chợ ở giữa
tỉnh mà đánh. Ðầu cây lao có cột thêm một cái pháo thăng thiên để bắn. Xông lên
thì hăng, nhưng rồi chỉ biết cầm giáo đứng nép vào tường chung quanh chợ để cho
quân Pháp cứ từ từ mà bắn, như chơi trò bắn bia.
Nhưng thôi, nếu ta cứ lấy cái lạnh
lợi xảo trá ngày nay, rút tỉa từ kinh nghiệm xương máu, để đánh giá người xưa
qua cái hào hùng và ngay thẳng của họ thì thật là sai. Nhưng trong những đống
xác người tắc nghẽn đường phố Gò công, ta vẫn thấy hình như có phảng phất linh
hồn của một quốc gia. Trong đống xác người có một vị lãnh đạo bị thương nhưng
chưa chết, vẻ mặt vẫn trầm tỉnh, rắn rõi và ngang nhiên. Tây kéo đem đi sử bắn.
Tiếc rằng tác giả không cho biết tên người này, chỉ nói rằng linh hồn của một
quốc gia trong ông đã thở hơi cuối cùng với ông. Tôi không tin lắm, vì hình như
cái linh hồn đó vẫn còn thoi thóp trong tôi.
Phần 3: Con người và Xã hội An nam
Vóc dáng, tập quán, phong tục của
người An nam, tác giả trình bày trong sách, chắc cũng có nhiều đìều đúng, nhiều
điều thiếu sót. Tác giả đến Nam kỳ để đánh nhau vào năm 1861. Sách xuất bản năm
1864. Thời đó đường xá xa xôi, ông Bonard đến thay ông Charner cũng phải mất
mấy tháng để đi từ Pháp sang xứ An nam. Sách còn phải đưa cho nhà xuất bản đọc
và ưng thuận,lại phải xếp từng chữ để in, đâu có mau lẹ như bây giờ. Trong sổ
tang ở cuối sách tác giả ghi tất cả những người Pháp đã ngã gục ở Nam kỳ đến
hết năm 1862. Tôi nghĩ rằng tác giả viết xong quyển sách này trong khoảng thời
gian 1863. Vì thời gian khá ngắn như thế, ta cũng không nên đòi hỏi tác giả nhiều
hơn.
Phần tôi là cháu chít cũng chẳng
biết gì để phê phán phong tục, tập quán của ông bà mình ngày xưa. Chỉ xin đề
cập đến vài vấn đề hành chính và luật pháp mà tác giả trình bày khá chi tiết
trong sách
Hành chánh nhà nước áp đặt chỉ đến
cấp huyện. Quan huyện do triều đình tuyển chọn bằng thi cử. Từ cấp huyện trở
xuống hoàn toàn tự trị. Làng xã hoàn toàn do dân quản lý bằng bầu cử Cả một hệ
thống liên đới chịu trách nhiệm với nhau: từ ông cai tổng, ông xã, ông lý
trưởng, ông phó lý, ông cả, ông hương thanh, ông hương hào, ông cai đinh, ông
hương gióng, ---cho đến anh áp. Ðây là một cách phân quyền hết sức rộng rãi,
ngay cả huyện cũng không bắt buộc thường xuyên nhận lịnh và phúc trình với phủ.
Họ tự quản lý lẫn nhau.
Việc cai trị dựa vào đạo đức và răn
dạy. Hình phạt chỉ tượng trưng để cho dân sợ mà thôi. Hòa giải nhiều hơn xử
phạt. Tác giả quyển sách, tuy có nêu lên nhưng không hiểu hết ảnh hưởng các
điều này nên đánh giá quan quân An nam là nhu nhược, bộ luật An nam (thời Gia
Long) có nhiều điểm ‘’thật thà’’. Tác giả cũng công nhận là nền hành chánh và
pháp lý từ hạ tầng cơ sở cho đến các cấp quan quân của triều đình bổ nhiệm gần
như hoàn hảo không tìm thấy chỗ sơ hở. Trước khi người Pháp đến, cả Nam kỳ miền
dưới chưa có quá ba vụ án mạng trong một năm. Người Pháp đến xử tử nhiều lắm,
nhưng toàn là tội chính trị. Quân cướp An nam chỉ lột sạch nạn nhân nhưng không
giết người như ở Âu châu theo tác giả kể trong sách.
Tác giả có viết là căn nhà lợp lá
dừa lùn của người nông dân được triệt để tôn trọng, nếu quan quân nào bước khỏi
ngưỡng cửa là người đàn bà đánh liền. Khi người đàn bà nông dân ẳm con lên tìm
quan phủ hay quan huyện thì không ai cản nổi. Ảnh hưởng của người phụ nữ An nam
trong gia đình và xã hội làm cho tác giả phải ngạc nhiên.
Tác giả cũng công nhận người nông
dân An nam biết luật lệ, quyền lợi, tranh luận, kiện thưa, hơn hẳn người nông
dân Âu châu. Người An nam còn có quyền đưa đơn khiếu nại trực tiếp lên hoàng
đế, không cần qua bất cứ một cấp bực hành chính hay pháp lý nào.
Tôi không hiểu tổ chức các nhà tù
như thế ra sao, chưa nghe ai nói, hay phần lớn chỉ phạt theo luật rồi thả về
hoặc là đày đi xa nếu là tội nặng? Ðiều làm tôi vô cùng ngạc nhiên là tác giả
cho biết trong hệ thống tư pháp và hành chính An nam không bao giờ có bóng dáng
một người lính. Như vậy là một tổ chức như cảnh sát ngày nay không có trong xã
hội An nam ngày xưa?
Khi ta nhìn thấy chế độ quản lý hạ
tầng ngày nay bằng tổ trưởng, đại diện khu phố, phường, quận, công an tổ, công
an khu vực, công an phường v.v. và v.v. ta thấy đau đớn cho xã hội Việt nam
biết bao nhiêu.
Nếu ta không đề cập tới vấn đề tín
ngưỡng, thì có thể là một thiếu sót hay chỉ là một cách tránh né thiếu can đảm
và lương thiện, vì điều khoản số 1 người Pháp đưa ra cho triều đình Huế là phải
cho tự do hành đạo Thiên Chúa giáo. Mặc dù thế vấn đề này không phải là thắc
mắc của cuốn sách, tác giả chỉ nêu lên một vài sự kiện có liên hệ thế thôi,
chẳng hạn như vài người bị chặt đầu vì tín ngưỡng, vị phó vương trấn giữ thành
Mỹ tho trả tự do cho những người theo đạo Thiên Chúa và bảo các người này hãy
đi theo các người bạn Pháp của họ. Theo tác giả hành vi của vị phó vương thật
nhân đạo, những người An nam sau này không ai làm nổi kể cả những kẻ thù của họ
là người Pháp. Ta cũng không quên kể đoạn tác giả nói bóng gió những người
truyền giáo trách đám quân viễn chinh là mưu mẹo, lạm quyền..., quân viễn chinh
mở trường dạy tiếng An nam đào tạo thông ngôn để tránh khỏi phải nhờ vả vào các
người truyền giáo (xem chương VII).
Tôi chỉ xin đưa ra một vài sự kiện
làm đề tài suy nghĩ về những đổi thay của lịch sử. Thật sự thì tín ngưỡng phật
giáo đã xâm nhập vào Âu châu rõ rệt nhất từ giữa thế kỷ thứ 19, tức vào thời kỳ
Pháp bành trướng thuộc địa tại An nam. Ngày nay trên nước Pháp có 11% dân trên
15 tuổi, tức khoảng 5.000.000 người ‘’cảm tình’’ (sympathisants) với phật giáo
(thống kê ngày 24-25 tháng 9 năm 1999) Trong số này có nhiều người ‘’gần’’
(proches) với phật giáo và lui tới chùa chiền. Một số hành đạo tại gia, một số
đi tu hẳn. Có hơn 200 chùa và trung tâm ngồi thiền (dojo) tại Pháp. Kết quả
thống kê thăm dò 903 người tới lui các chùa chiền ( 648 người thuộc chùa tây
tạng, 255 người thuộc chùa phái thiền học) cho thấy trình độ học vấn (một trong
các kết quả thăm dò) gồm có 5,9 % cấp trung học đệ nhất cấp, 8,7 % trung học đệ
nhị cấp, 20.0 % trình độ tú tài, 23,1 % trình độ tú tài + 2 năm đại học, 36,4 %
tú tài + 4 năm đại học hay cao hơn nữa, 5,9 % linh tinh. Tính chung 79,5 % là
những người trí thức. Nếu suy rộng ra trên con số 5 000 000 người thì ta cũng
có thể ước chừng được là bao nhiêu người trí thức trong tổng số chưa đến 60 000
000 dân.
Có những quyển sách về phật giáo
xuất bản gần đây, bán được 200 000 đến 250 000 số mỗi quyển. Có một quyển sách
bán đến 1 000 000 số sau nhiều lần tái bản. Trong 80 tác phẩm của ông Thích
nhất Hạnh, hai mươi quyển đã được dịch ra tiếng Pháp. Ðài truyền hình số 2 của
chính phủ Pháp mỗi sáng chúa nhật đều có chương trình về phật giáo.[30]
Quả thật lịch sử đã dành cho ta
nhiều trớ trêu và bất ngờ. Người An nam không đưa ra bất cứ một điều khoản nào
bắt người Pháp phải thực thi.
Phần 4: Một vài cảm nghĩ về lịch
sử
Tôi có nói qua ở lời tựa là ngày
nhỏ tôi không thích lịch sử chút nào, ngay bây giờ cũng thế. Ðối với tôi lịch
sử luôn luôn bị méo mó vì người viết sử, chính một sự kiện cũng trở nên méo mó
qua nhân chứng. Những năm tháng đánh dấu lịch sử cũng chỉ dựa vào một mốc thời
gian nào đó để tính ra thành năm, thành tháng. Ta không thể nào biết quá khứ
một cách đầy đủ. Cũng dễ hiểu, vì ta không thể nào đem toàn vẹn quá khứ đặt vào
hiện tại để quan sát và nghiên cứu; giản dị là hiện tại không đủ chỗ. Vì vậy
lịch sử không thật sự là một khoa học theo định nghĩa thông thường của nó. Mặc
dù không gian hiện tại trống rỗng, ta cũng không thể đem cái không gian quá khứ
đặt vào đó vì tự nó đã trống rỗng rồi. Hoặc nói ngược lại, không gian hiện tại
đã đầy ắp, không gian quá khứ cũng còn nguyên vẹn và đầy ắp. Ví dụ như một chén
nước đầy, nếu ta cố thêm một giọt cũng làm cho nước trào ra ngoài, làm thế nào
để mang quá khứ về hiện tại? Khoa học ngày nay, từ thuyết tương đối của
Einstein, cơ học lượng tử (mécanique quantique) đến vật lý thiên văn
(astrophysique) cho ta thấy thời gian chỉ vỏn vẹn là một kích thước thứ tư của
không gian Quá khứ, hiện tại hay tương lai cũng chỉ nằm gọn trong một không
gian, mặc dù không gian có thể cong (ảnh hưởng từ tính), teo nhỏ (trou noir),
hay trương nở (big bang); khoa học đã chứng minh như vậy. Cứ nhìn hiện tại ta
thấy quá khứ, hay ngược lại. Ðối với tương lai cũng thế, nếu ta đủ trầm tĩnh và
sáng suốt để nhìn vào hiện tại ta cũng có thể thấy thoang thoáng một chút tương
lai.
Quyển sách của L.Pallu cũng như
một giọt nước có thể làm tràn bát nước, nhưng bát nước vẫn là một bát nước. Nếu
bát nước trong veo, biết đâu khi nhìn vào đó ta cũng thấy được thoang thoáng
hình bóng ta sau này, mặc dù bát nước đã đầy ta không thể nào thêm vào đó một
giọt nước của tương lại.
Những cảm nghĩ của tác giả với tư
cách một nhân chứng, tuy méo mó và chủ quan, cũng đã gây cho tôi nhiều xúc cảm
Chính xúc cảm mới có thể vượt qua không gian và kích thước thứ tư của nó là
thời gian, để len lén chen vào tim ta và tâm hồn ta Hiện tại không có chỗ cho
quá khứ mà chỉ có chỗ cho xúc cảm mà thôi.
Vì vậy tôi xin trả cho quá khứ
những gì thuộc quá khứ, tôi xin trả những gì thuộc lịch sử cho lịch sử. Tôi xin
cám ơn và trả lại quyển sách này cho Léopold Pallu. Tôi cám ơn ông đã cho tôi
những xúc cảm thật trong sáng và thanh cao. Tôi biết ơn tổ tiên tôi, nhưng tôi
vẫn trả lại những gì của tổ tiên tôi Tôi xin bỏ tất cả, tôi xin quên tất cả, từ
oán hận cho đến thương yêu, từ ước vọng cho đến kỷ niệm của một ngày xưa lịch
sử. Tôi chỉ xin giữ lại một chút hơi ấm của xúc cảm trong tim, cái hơi ấm bốc
lên từ những thửa ruộng sình lầy, từ xương thịt của tổ tiên xưa.
Lắm khi một tiếng tích tắc của thời
gian cũng đủ làm vang lên trong lòng ta một bản hùng ca của giống nòi. Một giọt
quá khứ rơi vào tâm hồn cũng làm tim ta rạt rào muôn ngàn ngọn sóng của đại
dương lịch sử mênh mông.
Bures-Sur-Yvette, 12.03.01
(Hết)