Thứ Tư, 30 tháng 7, 2014

TRUYỀN  HÌNH GIÁO DỤC ĐẮC  LỘ  TRƯỚC 1975



Trước 30 tháng 4 năm 1975 ở miền nam Việt Nam ngoài các đài truyền hình của chính phủ VNCH và đài truyền hình quân đội Hoa Kỳ còn có một đài truyền hình nói cho đúng hơn là một studio truyền hình của một đoàn thể Thiên chúa giáo, đó là truyền hình giáo dục của trung tâm Đắc Lộ đặt tại số 171 Yên Đổ, quận 3, hoạt động bắt đầu từ năm 1972 và chấm dứt vào 30 tháng 4 năm 1975. Đài này được lập ra nhằm mục đích tạo ra những chương trình giáo dục thanh thiếu niên và cung cấp cho đài truyền hình Việt Nam 9. Riêng tôi có một thời gian làm trong phòng sinh viên vụ tại đây nên ít nhiều cũng có hiểu biết về trung tâm này. Bài này tôi lấy từ trang web Dòng tên Việt Nam.





                    Vì hoàn cảnh chiến tranh và một phần lớn là do “Tâm lý chiến”, làn sóng Truyền hình đã du nhập vào Sài-gòn giữa thập niên 1960. Năm 1966-1967, điểm phát sóng đầu tiên phát xuất từ máy bay Mỹ, phủ sóng TP Sài-gòn, từ PhanThiết đến Cần Thơ. Rồi cơ sở phát sóng được xây dựng từ 1970 đến 1975 nhưng nội dung ít đề cập đến lãnh vực giáo dục. Trong bối cảnh đó, đã ra đời :


TRUYỀN  HÌNH GIÁO DỤC ĐẮC  LỘ


 Bước đầu : Vào năm 1968-1969, các linh mục Dòng Tên được Chính phủ đương thời đề nghị mở một trường Đại học công giáo để tiếp nối công tác giáo dục của các trường Tiểu học và Trung học công giáo đã có từ nhiều năm, song chưa hề có cấp Đại học. Các linh mục liền nghiên cứu tình hình dân chúng, mức sống cùng trình độ kiến thức của quần chúng thì thấy rõ là số người mù chữ và thất học còn rất đông. Do đó mở Đại học không phải là một nhu cầu cấp bách bậc nhất trong thời điểm này. Giáo dục ưu tiên phải dành cho người dân nghèo đang sa đọa  trong bùn lầy của dốt nát. Chỉ có giáo dục qua làn sóng điện tử mới đến được các vùng nông thôn hẻo lánh, vùng núi khắc khổ và xa xôi. Từ nhận định này, Dòng Tên đã khép lại dự kiến Đại học để mở một trung tâm chuyên nghiên cứu và phát sóng truyền thông những kiến thức cơ bản giúp sự phát triển và thăng tiến những người nghèo đói, không có công ăn việc làm, bệnh hoạn… vì thất học.
Người có sáng kiến trong lĩnh vực này là cha Desautels. Trong các cha thì cũng có những người có kinh nghiệm về giáo dục truyền hình, quan trọng nhất là cha Sesto Quercetti, cha người Ý, rất thông minh. Cha học tiếng Việt ở Giáo Hoàng Học Viện. Khi cha đến Đắc Lộ làm việc thì đã nói được tiếng Việt rất giỏi. Tôi[2] lấy một ví dụ: Cha lấy tên Việt Nam là Hoàng Văn Lục, Lục là Sáu, Sesto là sáu. Tôi khá thân với cha, vì lúc đó muốn mở trường giáo dục truyền hình thì phải có người được đào tạo chứ không phải tự nhiên mà làm được. Các cha Dòng Tên lúc đó kêu gọi sơ bề trên của dòng tôi là Dòng Đức Bà cho người cộng tác với các cha. Làm sao mà cộng tác khi chưa được đào tạo?
Và để thực hiện dự kiến trên, không những cần có hệ thống  trang thiết bị kỹ thuật để lên chương trình phát sóng mà còn cần có đội ngũ sản xuất chuyên môn từ kỹ sư điện tử đến biên tập, đạo diễn, kỹ năng dàn dựng, âm nhạc, diễn xuất, kịch nghệ v.v. Ở đâu tìm ra những tay nghề này ?
Vì hội Dòng chúng tôi chuyên lo giáo dục, các linh mục Dòng Tên ngỏ lời kêu mời cộng tác vào ngành Giáo dục truyền hình. Để đáp lời yêu cầu đó, tôi được chị Phụ trách Tỉnh dòng Việt Nam đề nghị đi Anh quốc theo học một khóa huấn luyện của cơ quan CETO thuộc Anh quốc (Center for educational television overseas) là một trung tâm đào tạo những nhà giáo dục truyền hình nắm được nghệ thuật và kỹ thuật chuyên môn cần thiết cho ngành sư phạm mới mẻ này. Đặc biệt là về công tác đạo diễn.
Lúc đó tôi đang ở Pháp. Muốn học truyền hình phải giỏi tiếng Anh, mà lúc đó tôi không biết tiếng Anh (biết rất ít). Vì vậy tôi phải sang Anh ba tháng, học để thi bằng “lower certificate of cambridge”. Đây là cấp thấp nhất (tú tài), sau đó mới đến cấp cử nhân. Học xong khóa này thì tôi học khóa về giáo dục truyền hình. Chính cha Desautels giới thiệu cho tôi học chương trình này. Tôi học khá lắm vì biết tiếng Pháp, Latinh, Anh  và có kinh nghiệm giáo dục nữa. Muốn vô cái trung tâm này thì phải có thâm niên đi dạy, có kinh nghiệm giáo dục chứ không dễ mà vào được.
Ngày đầu tiên họ không dạy học nhưng dẫn đi coi các trang thiết bị, rồi họ giới thiệu các nhà hàng thuộc từng quốc gia, … chương trình giáo dục rất thực tế. Sau khoá học, tôi được đi tham quan để học thêm về Giáo dục truyền hình ở vài nước tiền phong về ngành này như : Nhật Bản, Chi Lợi, Mỹ  như đã trình bày ở trên …  để tiếp thu những gì có thể hữu ích cho bối cảnh xã hội Việt nam.
Về nước năm 1972, tôi được mời làm phó giám đốc trung tâm truyền hình Đắc Lộ, tọa lạc tại đường Yên Đổ, bây giờ là đường Lý Chính Thắng. Giám đốc là linh mục Sesto Quercetti[3]. Cùng cộng tác với ngài có một đội ngũ chuyên môn gồm các tu sĩ Dòng Tên người Iphanho, Pháp, Canada và một số đồng nghiệp Việt Nam. Chúng tôi cùng nhau lên kế hoạch chương trình đáp ứng nhu cầu của đại đa số quần chúng ở nông thôn cũng như thành thị, tại đồng bằng cũng như vùng núi. Công tác này đòi hỏi điều tra, nghiên cứu, học hỏi, tiếp thu từ mọi giới, mọi cảnh ngộ. Rồi lần lượt, sau nhiều mày mò cố gắng, những loạt chương trình sau đây đã ra mắt với khán thính giả :
Loạt “BÓNG MÁT GIA ĐÌNH ” triển khai phương pháp giáo dục gia đình.
Loạt “SỨC KHOẺ LÀ VÀNG ” nhắm giáo dục vệ sinh , y tế, bảo vệ sự sống, kế hoạch hóa sinh sản, phòng bệnh, chữa bệnh kể cả những bệnh phức tạp như lao phổi, phung cùi …
Loạt “THỰC PHẨM VÀ CHÚNG TA” phương pháp dinh dưỡng để bảo vệ sức khoẻ cho từng lứa tuổi, đặc biệt cho giới bình dân.
Loạt  “HỒN NƯỚC ” trình bày lịch sử và địa lý đất nước Việt Nam.
Loạt “SƠN CA” hướng về giáo dục thiếu nhi.
Loạt “EM YÊU KHOA HỌC” nhắm đến giải thích vật lý cho thiếu niên.

Phương Pháp Dàn Dựng :
Để giúp khán thính giả dễ tiếp thu nội dung chương trình, chúng tôi không “lên bục giảng bài” trên màn ảnh, mà truyền đạt bài học bằng những hoạt cảnh, những vở kịch, những câu chuyện dễ gây hứng thú, để mọi người sau khi nghe – nhìn các  sinh hoạt trên màn ảnh, dễ dàng kể lại cho ngườl khác những gì mình đã chứng kiến. Vì khán thính giả bình dân không thể ngồi nghe giảng dạy như học sinh trong trường lớp, chúng tôi thành lập một nhóm diễn viên cùng chúng tôi dựng kịch, kể cả hài kịch, có khi đệm cải lương , vọng cổ… để gây hứng thú giúp khán giả dễ nhập tâm hơn.

Phương Pháp Làm Việc Tại Phim Trường
Nhờ có một phim trường – studio – rộng thoáng 50m vuông, trang thiết bị tương đối đầy đủ, sau khi kịch bản được thảo luận và thông qua, chúng tôi xông vào “chiến trường” để mỗi người cùng “ tác chiến”, thi hành nhiệm vụ của mình : từ dựng cảnh, chuẩn bị âm thanh, ánh sáng, máy thu hình, trang trí, thiết kế, trang phục, diễn xuất… dưới sự điều khiển của đạo diễn và của phụ tá đạo diễn. Bao giờ có lệnh “Stand by” ( Hãy sẵn sàng ) là các bộ phận chuẩn bị phát động theo lệnh của đạo diễn, từ tập dượt đến thu hình…
Cứ  sáng thứ hai mỗi tuần, các tác phẩm đã hoàn thành được chiếu lên màn ảnh để đội sản xuất cùng ban Giám đốc kiểm duyệt, lượng giá (có người nói chỗ này rất tốt, nhưng thiếu chỗ này, thêm chỗ kia, bỏ cái này… ), nếu cần sửa chữa trước khi đưa đi phát sóng.
Trong studio thì cha Desautels lo về máy móc.
Tôi là người phụ trách tất cả các kịch bản: viết + kiểm duyệt các kịch bản do người khác viết. Lúc đó ít người viết lắm.
Vấn đề sức khỏe trong các chương trình thì chúng tôi nhờ ông nha sĩ.
Tại trung tâm truyền hình Đắc Lộ, cha Quercetti chỉ là giám đốc thôi chứ không xuống làm cái này cái nọ trong các công đoạn làm phim. Cách làm phim như sau: thứ nhất trung tâm có một đội ngũ diễn viên, chúng tôi chọn một vài người có tinh thần (vì những người có lý tưởng mới làm cái nghề này được), biết đóng kịch, biết hát vì nhiều khi trong cái băng đó nhân vật phải biết hát vọng cổ, cải lương (vì như vậy dân mới thích), phải biết đóng vai này vai kia. Thực tế dàn viễn viên chỉ có bốn, năm người thôi nhưng họ có tài diễn xuất, là những diên viên chính. Còn diễn viên phụ thì tận dụng nhiều người khác nhau, ví dụ nhiều khi đem thằng con nít vào cho nó đóng vai bị mẹ đánh. Biên tập viên thì ít lắm, chỉ có tôi và thêm một hai người nữa là nhiều rồi.
Tôi phải đọc hết các kịch bản, rồi đưa cho cha Quercetti đọc, sau đó xuống phân công các vai và phân chia trách vụ (người lo ánh sáng, âm nhạc, thu thanh…). Thường thì đóng phim trong phim trường (studio), nhưng nhiều khi cần thì đi quay ở ngoài, ví dụ như ngoài chợ, trên bờ sông, trên đồng ruộng nơi những người nông dân đang làm việc cực nhọc. Để trình bày cho người dân biết cách trồng lúa, chăn nuôi, trồng cây v.v… thì chúng tôi phải đi quay thực địa. Thành ra các chương trình truyền hình rất gần với đời sống chứ không chỉ trên sân  khấu mà thôi. Sân khấu là nơi diễn tả lại những thực tại nơi cuộc sống của con người, đưa ra những giải đáp cho những khó khăn mà con người gặp. Cho nên khi các cán bộ nhà nước qua xem các chương trình chúng tôi đã làm, đến chỗ em yêu khoa học, họ phục lắm: “trình độ khá quá, có kiến thức, có tâm hồn”. Vì mình làm vì ích lợi người dân chứ không vì lợi cho ai hết.

Câu Lạc Bộ Truyền Hình Giáo Dục
Phim tốt rồi thì đem đi đâu chiếu? Trước hết là nhắm đài truyền hình thời đó (do Mỹ quản lý). Nhưng điều này thì không dễ vì đài Truyền hình Sàigòn thời đó quan tâm đến tình hình chính trị nhiều hơn là giáo dục, chương trình Đắc Lộ chỉ được phát sóng rất ít và rời rạc. Chúng tôi phải lập những “Câu lạc bộ truyền hình” (téléclub) với những nhóm đi chiếu dạo ở một số điểm thuận lợi, mang theo đủ thứ dụng cụ cần thiết như màn ảnh, ống loa, máy phát điện, bàn đạo diễn… Vì tình hình chiến sự, “câu lạc bộ truyền hình không thể ra miền Trung, Nam Trung Bộ nhưng chủ yếu là về các tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long như: Tiền Giang, Mỹ Tho.
Quan trọng nhất là chương trình “nhà giáo truyền hình”, người hướng dẫn khán thính giả nắm bắt và khai thác mọi khía cạnh hữu ích của bài học xuyên qua màn chiếu. Đồng thời  người phát hình cũng trao đổi để tiếp thu phản ứng của người xem. Điều nầy là cần thiết vì giáo dục không phải là nhồi nhét, mà là một cuộc đối thoại giữa người nói và người nghe. Nhờ vậy mà Câu lạc bộ học được nhiều ở quần chúng qua những phản ứng bất ngờ của họ, có khi được khán giả “sửa sai”, hai bên đều là đối tác có khi giúp chúng tôi dàn dựng lại đầy đủ và phù hợp hơn đối với bối cảnh, tâm lý người địa phương. Khi có  những trường hợp thuận lợi, chúng tôi mời một vài khán giả đóng vai và phát biểu trực tiếp trong chương trình được tái bản. Phương pháp đối thoại này tuyệt vời vì nó không độc thoại mà là đối thoại. Nhiều khi mình phê phán mê tín dị đoan thì họ cãi lại. Mình thu điều họ cãi lại đó (vì họ cũng có cái lý của họ) để lần sau mình bổ túc cho chương trình của mình, và mình tôn trọng cảm nghĩ của họ. Mình nhận những cảm nghĩ của họ, nếu tốt thì mình lưu trong chương trình. Các chương trình của mình hoàn toàn không đả động gì tới tôn giáo cả.
Trước cố gắng năng động và kiên nhẫn của Truyền hình Đắc Lộ, đài truyền hình Sàigòn thỉnh thoảng lại đề nghị cho vài chủ đề của Đắc lộ được phát sóng. Sau đây là nhận xét của tác giả cuốn “ Tiến trình du nhập TRUYỀN HÌNH vào Sàigòn và sự phát triển kỹ thuật truyền hình tại TP Hồ Chí Minh” (trang 27) của kỹ sư Đặng Tấn Mầu, năm 2007:  “Đài Truyền hình Đắc Lộ đã làm cho số lượng các chương trình Sàigòn phong phú hơn, đa dạng hơn. Một số các chương trình văn hoá, khoa học, giáo dục, y tế, phổ biến kiến thức, có những yếu tố tích cực nhất định.”

TRUYỀN  HÌNH  GIẢI  PHÓNG
Đến bước ngoặt lịch sử 30 tháng 4 năm 1975, liệu Truyền hình Đắc Lộ là một  tổ chức của linh mục và tu sĩ công giáo có thể tồn tại không? Vì mục tiêu giáo dục phục vụ giới bình dân, Truyền hình Đắc Lộ hy vọng rằng chế độ mới chú trọng đặc biết đến tầng lớp lao động, nên những gì Đắc lộ đã và có thể thực hiện không phải là “dã tràng xe cát”. Những cuộc trao đổi bắt tay với ban quản trị Truyền hình giải phóng được thực hiện trong bầu khí hữu nghị. Đài truyền hình giải phóng phái một cán bộ đến Đắc lộ để tìm hiểu cơ cấu , đặc biệt là nội dung các loạt chương trình đã thực hiện.
Sau khi xem xét , cán bộ tỏ ra vui vẻ và hết sức ngạc nhiên là kho băng của Đắc Lộ không hề đề cập mảy may đến Tôn giáo, mặc dầu ban lãnh đạo Truyền hình Đắc Lộ hầu hết là tu sĩ công giáo. Toàn thể nội dung đều nhắm truyền đạt kiến thức cơ bản để nâng cao cuộc sống và phẩm giá người nghèo, giới lao động vô sản là chính.
Sau những cuộc trao đổi chân tình, Truyền hình Đắc Lộ được tiếp quản với danh hịệuTruyền hình giải phóng cơ sở II . Cuộc bắt tay này là một nỗ lực “tiếp tay ” phục vụ dân tộc, hoà mình trong một làn sóng phục vụ mới, rộng hơn, mạnh mẽ hơn, đạt đến toàn dân hơn.
Mở cửa lại vào sáng 3.10.1975. Cơ sở 2 Truyền hình giải phóng, mừng rỡ đón tiếp những ai trong đội ngũ nhân viên Đắc Lộ tình nguyện tiếp tục phục vụ Truyền hình giáo dục. Một ban quản lý mới được đề cử : Giám đốc là anh Hồ Vĩnh Thuận, Trưởng phòng Chuyên mục là anh Khái Hùng, Phó phòng là nữ tu Mai Thành đặc trách Giáo dục Thiếu nhi.
Điều thật đáng tiếc là các linh mục tu sĩ ngoại quốc trên khắp cùng đất nuớc nam cũng như nữ đều phải vĩnh biệt Việt Nam. Linh mục Quercetti[4] mặc dầu rất muốn tiếp tục ở lại phục vụ Truyền hình Việt Nam đã phải bay sang Đài Loan, học tiếng Hoa để góp phần cộng tác với Truyền hình Đài Loan, rồi sau đó vài năm được mời phục vụ ở Đài phát thanh tiếngViệt tại Rôma.
(…)
                                                                 Kết:
                     
Trước khi khép lại màn ảnh quá khứ của truyền hình Đắc Lộ cùng một ít suy tư, tôi xin trích mấy câu thơ “giải trí” cảm hứng từ kinh nghiệm làm việc với ống kính truyền hình, được ghi lại trong Hồi ký Truyền hình Đắc lộ, Xuân 1973 :

NHÌN ĐỜI QUA ỐNG KÍNH TRÁI TIM
Có phải đời là phim trường lớn rộng
Mà tim tôi là ống kính đặc thù:
Ảnh thế trần sáng chói hoặc âm u,
Cũng bởi tôi chỉnh hình chưa đúng độ.
Mặt tha nhân vuông tròn hay méo mó,
Tại kính tôi di động lệch sai chiều.
Miệng bạn cười duyên dáng hoặc đáng yêu,
Phải chăng tôi chọn được hình góc tốt .
Nếu tính bạn sáng chiều không như một,
Tôi sẽ đo khoảng cách bạn xa gần,
Khi giận hờn trán bạn nổi đường gân,
Tôi *pan left *(1) để tránh hình trực diện,
Tôi đợi chờ tâm tình dần biến chuyển,
Bạn mỉm cười, tôi xáp diện* zoom in *(2)
Khi bạn vui, hóm hỉnh hay dịu hiền ,
Tăng khẩu độ, tôi lấy hình *close up*(3).
Có phải đời là môi trường diễn xuất,
Nơi chúng ta cùng  đóng một vở tuồng,
Bạn và tôi, tiền cảnh hoặc hậu trường,
Đều chiếm giữ một vai trò độc đáo.
Cảnh show đời lạnh lùng hay huyên náo,
Tùy chúng ta diễn đạt tốt hay sai.
Luật xướng ngôn là cả một thiên tài,
Im phải chỗ và ngỏ lời đúng lúc.
Toàn vở  kịch hiện lên, đầy thanh- sắc,
Lúc bạn vui, diễn đạt đúng vai mình,
Không rộn ràng chói lọi tựa minh tinh,
Mà hòa  với “kép đào” đồng giai điệu.
Phải chăng đời là phim trường huyền diệu,
Kẻ đa sầu chỉ phát tiếng lâm ly.
Để chương trình bớt nặng nét sầu bi,
Tôi với bạn sẽ cười trong vở kịch,
Xóa trong tim những giận hờn thù nghịch,
Mở *boom*(4) ra, phát khúc nhạc yêu đời.
Nhiều tiếng cười yếu ớt nở trên môi
Nếu gom lại sẽ trở thành tràng pháo Tết.

Phút hân hoan vội vàng thu vào *tép* (5)
Để vang âm chuyển động mãi thật xa,
Trên băng tần xuân rộng toả bao la,
Xuân Huynh đệ là trường xuân bất diệt.
Mai Thành, kỷ niệm Xuân 1973

1/ Pan left : quay ống kính sang trái
2/ Zoom in: tăng khẩu độ ống kính để hình lớn lên
3 /Boom : micro
4/ Close up : lấy cận ảnh, để hình thêm rõ nét
5/ Tape : băng thu hình

                                                                       Nguyễn Huy Hoàng biên tập


[1] Bài Viết này là một tổng hợp từ hai nguồn: bài viết “GIÁO DỤC QUA LÀN SÓNG ĐIỆN TỬ – KÝ ỨC VÀ SUY TƯ” của Soeur Mai Thành (Dòng Đức Bà) (viết theo đề nghị của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam) và những chia sẻ của Soeur vào ngày 14 tháng 9 năm 2010 với người biên tập bài viết.
[2] Trong những chia sẻ ngày 14 tháng 9 năm 2010, Soeur Mai Thành xưng hô là “Soeur”, trong bài viết này, người biên tập xin mạn phép đổi thành “tôi” cho thống nhất trong toàn bản văn.
[3] Khi cần giảng dạy chỗ này chỗ kia (về truyền hình) mà cha Quercetti bận thì ngài thường nhờ tôi đi. Ví dụ Đức cha Nha Trang muốn cha Quercetti truyền đạt cho các linh mục trong giáo phận thông điệp Inter Mirifca (giữa những điều kì diệu) về truyền thông đại chúng, tôi phải đi thay cha vì cha quá bận (vừa là giám độc trung tâm truyền hình vừa là bề trên cộng đoàn Đắc Lộ).
*Con người cha Quercetti: Cha trẻ hơn tôi nhiều ( trẻ hơn khoảng 7 hay 8 tuổi gì đấy). Ngài rất thông thạo tiếng Việt. Cha phản ứng giống người Việt lắm, và cha nghịch lắm. Có một kỉ niệm: khi chuẩn bị ăn tết, nhóm tổ chức chơi bốc quà, cha bốc được  một cái áo phụ nữ. Cha mở ra cho anh chị em coi, và cha nói để đem cái này về cho bà xã. Ông cha mà nói là đem về cho bà xã, mọi người cười quá trời. Và một điều hay hơn mà có thể kể được là: một lần tôi đi ngang phòng làm việc của cha thì thấy trên bàn có mấy viên aspirin, tôi hỏi: “cha Lục ơi, cha mệt hả?” Cha nói:
“Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa”
Đó là hai câu Kiều nói khi bị lưu đày, để diễn ta cha trót mang cái nghiệp giám đốc của trung tâm, rồi lại làm bề trên, vì thế mệt thì chẳng thể trách ai, chỉ có uống thuốc thôi.
Sau ngày giải phóng thì có mấy ông cán bộ bên trung tâm truyền hình sang để xem trung tâm Đắc Lộ đã phát sóng những chương trình gì, trung tâm tổ chức một tiệc nhỏ có ít bánh kẹo và nước uống. Tôi chọc cha: “cha ơi, trước nay làm việc mấy năm mà chưa bao giờ con được uống nước và ăn kẹo”. Cha trả lời: “con hơn cha là nhà có phúc”. (…). Cha thật thông minh, thấu triệt tiếng Việt, thuộc Kiều, Cung oán ngâm khúc.
[4] Khi quân giải phóng tiếp quản, tôi được giao cho việc đối thoại với những người có trách nhiệm bên đài truyền hình chính phủ. Một chi tiết hết sức cảm động là cha Quercetti, lúc ấy rất tha thiết ở lại Việt Nam để tiếp tục việc phục vụ giáo dục qua truyền hình nên đã nói cùng tôi: “Chị Thành ơi, ráng xin cho tôi ở lại nhé!” Tuy nhiên điều này đã không thể xảy ra được. Khi Vatican muốn có một chương trình phát thanh bằng Việt ngữ, cha về Vatican để làm việc trong chương trình này (observatore romano).





Thứ Sáu, 25 tháng 7, 2014



Đường  Impériale
Đường  Nationale
Đường Paul Blanchy
Đường Trưng Nữ Vương

ĐƯỜNG HAI BÀ TRƯNG




Vị trí :  Đường nằm trên địa bàn quận 1 và một phần của phường Hiền Vương nay là phường 6, 8 quận 3, từ bên Bạch Đằng nay là đường Tôn Đức Thắng đến cầu Kiệu, dài khoảng 2967 mét, qua ngã tư Hồng Thập Tự (Nguyễn Thị Minh Khai), Trần Cao Vân, Phan Đình Phùng (Nguyễn Đình Chiểu), ngã ba  Tự Đức (Nguyễn Văn Thủ), ngã tư Phan Thanh Giản, Hiền Vương (Điện Biên Phủ, Võ Thị Sáu), các ngã ba Nguyễn Văn Mai, Trần Văn Thạch (nay là Nguyễn Hữu Cầu), Trần Quốc Toản, Bà Lê Chân, Trần Quang Khải, Yên Đổ (Lý Chính Thắng).

Lịch sử : Thời Pháp đường mang tên Impériale. Năm 1870 đổi tên là Nationale. Từ ngày 4 tháng 4 năm 1902 đổi là đường Paul Blanchy. Ngày 28 tháng 11 năm 1952 cắt đoạn từ đường Thống Nhất đến cầu Kiệu đặt tên là đường Trưng Nữ Vương. Ngày 22 tháng 3 năm 1955 nhập hai đường làm một và đặt tên là đường Hai Bà Trưng cho đến nay.
Bây giờ chúng ta bắt đầu từ hướng bến Bạch Đằng là đầu đoạn đường Hai Bà Trưng. Ở đầu là công trường nơi có tượng Trần Hưng Đạo. Hồi xưa nó là công trường Rigault de Genouilly, tại nơi đây có Tượng kim tự tháp tưởng niệm Douard de Lagrée và tượng Rigault de Genouilly nhìn từ đường Paul Blanchy (Hai Bà Trưng).






             Sang thời Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam, rue Paul Blanchy đổi tên thành đường Hai Bà Trưng và công trường đó được gọi là công trường Mê Linh. Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa cho xây tượng đài Hai Bà ở đó. Tượng đài này vì khuôn mặt được tạc theo chân dung của Trần Lệ Xuân và con gái Trần Lệ Thủy nên trong cuộc đảo chánh lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm vào năm 1963 tượng bị phá đi



 Tượng Trưng Trắc và Trưng Nhị








Công trường Mê Linh sau khi tượng Hai Bà Trưng bị lật sập năm 1963



Không ảnh công trường Mê Linh và đầu đoạn đường Hai Bà Trưng


Năm 1966 đương kim thủ tướng Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Cao Kỳ giao cho mỗi binh chủng của Quân lực Việt Nam Cộng hòa dựng biểu tượng ở một vườn hoa công cộng trong đô thành Sài Gòn thì binh chủng Hải quân chọn bến Bạch Đằng để dựng tượng Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, người được xem là thánh tổ hải quân. và điêu khắc gia Phạm Thông lãnh nhiệm vụ đó. Tượng đài hoàn tất năm 1967.




Tượng Trần Hưng Đạo nhìn từ hướng đường Hai Bà Trưng





             Đứng từ phía đường Hai Bà Trưng, ta thấy ngoài bức tượng ra còn về phía bên trái là bộ tư lệnh hải quân VNCH. Trước đó đọan vào bộ tư lệnh hải quân không bị cấm, xe vẫn lưu thông từ đó ra đường Thông Nhất được. Từ năm 1968 sau trận Mậu thân vì lý do an ninh đoạn này đã bị chận lại. Cũng về phía bên trái còn có văn phòng và dépot của hảng bia Larue và nước ngọt Seigi, bên phải là khu buôn bán, khách sạn, ở đây có vài tiệm bán các phê nguyên hạt moka rất ngon. Tới giao lộ Thái Lập Thành giờ là Đông Du nhìn vào đường này ta thấy thánh đường Hồi giáo của người Ấn Độ đối diện có một phòng thú y chuyên chăm sóc các vật nuôi như chó ,mèo,v.v..



















                                            
Đường Hai Bà Trưng chụp từ hotel Martin




                                       
Dãy quán bar trên đường Hai Bà Trưng



Quán bar khá nổi thời SG xưa Nữu Ước, nằm trên đường Hai Bà Trưng


Tháng 3/1969. Quang cảnh nhìn từ công trường Lam Sơn. 
Hai chiếc xe chở đầy lính quân dịch mới tuyển.


















 Nhà hàng Cheong Nam đối diện cư xá Brink



Giao lộ Nguyễn Siêu - Hai Bà Trưng, phía trước là trụ sở điện lưc CEE



               Tới một chút là công trường Lam Sơn bên trái với khoảng trống dành cho xe hơi đậu và là phía sau lưng của trụ sở hạ nghị viện mà thời Pháp thuộc là nhà hát. Bên trái vẫn là khu buôn bán khách sạn, qua nơi này là văn phòng của công ty điện lực CEE (compagnie des eaux et electricite) ở giao lộ Nguyễn Siêu. Nằm về phía phải góc của công trường Lam Sơn là khu cư trú của nhân viên Mỹ gọi là cư xá Brink. Cư xá Brinks cao 6 tầng có 168 phòng nằm ở số 103 đường Hai Bà Trưng. Bộ Chỉ huy Viện trợ quân sự Mỹ tại Việt Nam thuê cư xá Brinks làm nơi trọ cho nhiều sĩ quan cao cấp của mình. Vụ đánh bom cư xá Brinks (hay khách sạn Brinks) là một vụ tấn công diễn ra vào ngày 24 tháng 12 năm 1964 làm chết 2 người và bị thương hàng chục người khác. Nơi đây vào ngày 29/4/1975 khi người Mỹ rút lui dân Sài Gòn đã vào đây hôi của cải rất nhiều.




 Cư xá Brink sau vụ đánh bom


   Ngày nay là khách sạn Patt Hayatt







                        Tới một khoảng nữa qua giao lộ Cao Bá Quát bây giờ là một khu dân cư. Nơi đây ngày xưa là xưởng chế biến thuốc phiện của Pháp.



                     Vị trí của nhà máy chế biến thuốc phiện trên bản đồ Sài Gòn do người Pháp vẽ. Theo đó, xí nghiệp “nàng tiên nâu” này nằm ở số 74 Rue Paul Blanchy, nay là nhà hàng The Refinery số 74 đường Hai Bà Trưng, gần phía sau Nhà hát Thành phố xưa là trụ sở Hạ nghị viện.




 Nhà máy chế biến thuốc phiện


  Bây giờ là khu dân cư



                  Qua giao lộ Cao Bá Quát ta thấy hai bên là khu cơ quan VNCH và một vài nhà hàng (tôi sẽ cập nhật sau) rồi tới giao lộ Lê Thánh Tôn - Hai Bà Trưng. Qua đoạn này tới giao lộ Đồn Đất giờ là đường Lý Tự Trọng. Về bên đoạn đường này ta thấy bệnh viện Grall nay là nhi đồng 2 và trung tâm văn hóa Pháp (centre culturelle fracaise). Bên trái đường Hai Bà trưng là phía hông của trường Lasan Taberd giờ là trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa. Đến ngả tư Nguyễn Du - Hai Bà Trưng chúng ta thấy về phía trái là mặt lưng của bưu điện Sài Gòn với cột anten cao nhất miền nam vào thời đó.


                                                    
    Góc Hai Bà Trưng-Gia Long





 Thư viện USIS góc Hai Bà Trưng-Gia Long

                 

United States Information Service (USIS) hồi xưa là tiền thân của phòng thông tin Hoa Kỳ và thư viện Abraham Lincoln thành lập năm 1956 trước khi dời về tại rạp Rex năm 1962 cơ quan số 82 chỉ còn là cơ quan phụ. Năm 1965 Cơ quan phụ này sáp nhập với cơ quan joint US Public Affairs Office (JUSPAO) và thường được gọi là JUSPAO 2.


 Đường Paul Blancy năm 1951


Saigon 1951 đường Paul Blanchy (Hai Bà Trưng) phía sau Sứ quán Pháp vẫn còn đường Tramsway - Pháp kéo máy bay của Mỹ F8F Bearcat chi viện từ cảng SG lên TSN. 



Bệnh viện Grall







Trường Lasan Taberd


 Cột anten bưu điện Sài Gòn nhìn từ quãng trường J.F.Kenedy




              

Gần ngả tư Thống Nhất - Hai Bà Trưng có một cây xăng bên phải kề bên là một biệt thư lớn. Ngả tư Thống Nhất - Hai Bà Trưng hiện ra với trụ sở Hảng xăng Esso nằm phía bên trái và khu vực của tòa tổng lãnh sự Pháp bên tay phải của bên kia đường.








 Ngả tư Thống Nhất - Hai Bà Trưng


 Vị trí này về sau là tòa tổng lãnh sự Pháp



Xe bò quẹo từ đường Paul Blanchy qua Norodom góc của Hotel du général



 Tòa tổng lãnh sự Pháp nằm ở góc trái của hình



 Tòa tổng lãnh sự Pháp bây giờ





 Đường Paul Blancy khi xưa













Số 113 Hai Bà Trưng

                Tới ngả tư Hồng Thập Tự - Hai Bà Trưng nhìn về phía trái ta thấy câu lạc bộ tennis nằm đâu lưng với trung tâm sinh hoạt thanh niên (tổng hội sinh viên) đi tới có mấy căn nhà bằng gỗ. 


Câu lạc bộ tennis







  Mấy căn nhà bằng gỗ bây giờ




          
           Qua ngả tư này đến đoạn giao lộ Trần Cao Vân, về bên tay phải có một chung cư. Quẹo đường Trần Cao Vân về trái là vô hồ Con rùa. Tôi còn nhớ hình như ở đầu ngả tư này về tay phải có một cây xăng. Khu này hồi xưa chủ yếu là các villa ít có hàng quán mở ra.
 Đi tiếp ta đến ngả tư Phan Đình Phùng (giờ Nguyễn Đình Chiểu) - Hai Bà Trưng. Tại đây ta thấy hotel Liberty (Tự do). 




 Cây xăng góc ngả tư Hai Bà Trưng - Trần Cao Vân






Ngả tư Hai Bà Trưng - Phan Đình Phùng


Tới gần giao lộ Tự Đức (giờ là Nguyễn Văn Thủ), ta thấy bên tay trái là tòa đại sứ Trung Hoa dân Quốc (Đài Loan). Bên này đường hồi xưa có một trường tên là La Provudence ở đầu đường Tự Đức. Qua giao lộ có một khu nhà gỗ, khu này trãi dài qua đường Tự Đức. Những nhà bằng gỗ này do người Nhật xây dựng lên khi Nhật xâm chiếm Việt Nam. giờ thì không còn nữa. Cũng về bên phải đi tới gần ngả tư Phan Thanh Giản (giờ là Điện Biên Phủ) - Hai Bà Trưng có một xưởng chế tạo đồng hồ nằm cập một hẽm lớn trong hẽm có một building lớn.







Tòa đại sứ Trung Hoa Dân Quốc





Ngả tư Hai Bà Trưng - Phan Thanh Giản




             Qua ngả tư này bên trái là các cửa hàng buôn bán kéo dài tới chợ Tân Định trong đó có một tiệm chuyên bán xe đạp đua nằm đối diện qua nghĩa trang , bên trái là mặt hông của nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi (giờ là công viên Lê Văn Tám).



Đường Paul Blancy xa xa là nhà thờ Tân Định




            Khu vực sầm uất là bắt đầu từ ngả tư Hai Bà Trưng - Hiền Vương (nay là Võ Thị Sáu). Bên trái góc ngả tư có một căn nhà đã thay đổi chủ nhiều lần do lời đồn bị ém không mua bán được. Tới là khu vực trường Thiên Phước và nhà thờ Tân Định.













                           Mời các bạn xem qua lịch sử trường Thiên Phước Tân Định


Thiên Phước


Trường Thiên Phước Tân Định Sài Gòn




Công-đoàn Nữ-tu Thánh Phao-Lồ,
 thành phố Chartres và Trường Thiên Phước

Vào năm 1877, để đáp lại lời mời của Đức Cha Colombert, Giám-mục Địa-phận Đàng Trong, Mẹ Benjamin cho lập một nhà dục-anh tại Tân-Định và cơ-sở này được gọi là “Sainte Enfance de Tân-Định” Soeur Ignace lúc bấy giờ phụ trách Công-đoàn tiên khởi tại Viễn-Đông.  Hằng năm bà và các nữ-tu đón nhận cả trăm em sơ-sinh bị bỏ rơi để săn sóc và nuôi dưỡng chúng.  Nhưng có một số trẻ vì quá yếu, bệnh tật không cứu sống được.
Vào năm 1881, Cha Sở Eveillard mời các chi em Dòng Thánh Phao-Lồ đến dạy giáo lý cho các em trai và gái của giáo xứ.
Ba mươi năm sau, dưới sự huớng dẫn của Soeur Suzanne, nguời phụ trách Công-đoàn, các chi em đảm nhiệm luon việc giáo dục các thiếu nhi nam nữ tai cơ-sở cạnh Công-đoàn.  gia đình trong ho. đạo gởi con em đến cơ-sở của cac Nữ-tu để vừa hoc giáo lý vừa hoc van hoá theo chuong trinh của Bộ Giáo Dục.  Các con em của họ học đạo chung với các cô nhi, cũng có 1 số em của ho đạo xin vào nội trú hoặc bán trú tại truờng.
Vào khoảng các năm 1918-1938, song song với sự phát triển của họ đạo, Công-đoàn có những buớc tiến đáng ghi nhớ trong thời kỳ Soeur Andréa Amé phụ trách.  Lần luợt các lớp Sơ cấp được mở ra, học sinh đến mỗi ngày một đông.  Soeur Elisée quản lý các Soeurs Georges, Aristide, Scholastique, Bernard và Irène phụ trách dạy.  Soeur Joakim phụ trách nhà may và thêu.  Soeur Jean-Marc tiếp đón phụ huynh nơi phòng khách;  Soeur marie de Ľassomption phụ trách phần nội trú và bán trú, và Soeur Isaic phụ trách Hội con Đức Mẹ.
Vào năm 1941, Soeur Marie Rose lúc bây giờ đang day ở Truờng Jeanne d’Arc, Ngã Sáu Chợ Lớn, được mời đến phu trách Công-đoàn Tân Định thế cho Soeur Amé.
Vào khoảng 1946-1948, lúc tình hình Đệ Nhị Thế Chiến lắng dịu, các lớp Nhì và Nhất đuợc mở thêm để bổ túc chương trình tiểu học.  Soeur Marie Rose cũng dần dần cho mở thêm cac lớp day theo chương trình Pháp.   Đuoc 1 năm thì Soeur phải về Pháp chữa mắt và không trở lai.  Soeur Alice de Jésus phụ trách tiếp Công-đoàn.
Năm 1950, Soeur Alice de Jésus đã xây cất thêm các lớp học bên cánh phải của cơ sở, lên lầu viện cô nhi, mở ký túc xá cho cac nữ sinh ở tỉnh len học.  Lúc bấy giờ nhà truờng Sainte Enfance đã có đủ các lớp mẫu giáo, các lớp tiểu học Việt-Pháp dọn thi Certificat d’Études Primaries Franco-Indigènes (CEPFI) và mở năm đầu để dọn thi bằng trung-học Pháp BEPC.
Năm 1954, Soeur Alice rời Tân-Định lãnh công tác mới, và Soeur Marthe de St Jean tiếp nối công việc Tân-Định.  Bà cho sữa chữa nhà bếp và các phòng xung quanh truờng lớp và Công-đoàn.  Chẳng bao lâu Soeur Aimée de Marie lên thay thế Soeur Marthe.  Soeur Aimée cho tu bổ một phần tu-viện, cho xây hồ lớn chứa nuớc ngoài thành rào.  Năm 1956, bà trao nhiệm vụ Hiệu-truởng trung học cho Soeur Aimée de Jésus.
Giờ đây Trường Sainte Enfance có hai chương trình trung học Việt và Pháp.
Vào tháng 8 năm 1957, Công-đoàn Tân-Định đón tiếp Soeur Pétronille de Marie, nữ tu sĩ Việt –Nam đầu tiên đến phụ trách .
Ngày 6 tháng Giêng năm 1958,  Truờng Sainte Enfance de Tân-Định được giấy của Chính quyền qua sở giáo dục cho phép đi tên là “TRƯỜNG THIÊN PHƯỚC” và màu hồng nhạt được chọn cho đồng phục của trường.



Lớp 5 A niên khóa 1973-1974


Lớp 5B / 1973-1974



Class 1960


Lớp 5C / 1973-1974




Class 1960


Thiên Phước 1972


Lớp Mẫu Giáo





Đường Imperiale (Hai Bà Trưng) khi chưa mở

Bên phải ta có bưu điện Tân Định rồi đến tiệm bán hòm Tô Bia (đây là tiệm bán hòm dám đăng quảng cáo trên báo Sài Gòn thời đó) tới một chút là hẽm 250 trong đó có nhà của bạn Nguyễn Thị Anh Thư lớp 10 năm 1975 thường gọi là Tư mắt kiếng. Qua ngả ba Đinh Công Tráng ta thấy một cửa hiệu chuyên bán tem sưu tầm, tiệm thuốc Kính Tiên. tới nữa có hiệu thuốc Kim Khuê. Còn bên kia đường là các cửa hiệu bán đồ gôi văn phòng phẩm và đồ lưu niệm, ở dãy này có nhà thuốc Kim Tân, bán thuốc cải lão hoàn đồng, có bày một tủ kính một chàng lực sĩ vai u, thịt bắp đang cung tay gồng mình. Đầu ngõ hẻm Kim Tân có một chiếc xe nhỏ với tủ kính bán dây nịt da, viết Bic, viết máy Parker, Calot, hộp quẹt Zippo và nhiều thứ linh tinh khác..(Kỷ niệm thời thơ ấu: Đoạn Đường Hai Bà Trưng – Tân Định của Trần Đình Phước).

                                                                 
 Bưu điện Tân Định



 Khu Tân Định ngày nay


             
Bên này giao lộ Nguyễn Văn Thạch (nay là Nguyễn Hữu Cầu) nhìn xa xa là rạp Moderne và nhà sách Yễm Yễm thư quán. Bên hông chợ Tân Định là dãy quán nước mà đặc biệt là sâm bổ lượng và khu bán cá kiểng. Còn ai muốn mua thuốc rê Gò Vấp thì bước vào trong hông chợ. 




 Chợ Tân Định thời Pháp




Qua chợ Tân Định là bệnh viện thí chuyên môn nhổ răng nơi đây tập hợp đội ngũ bác sĩ nha khoa loại giỏi của thời đó, bây giờ là bệnh viện quận 1.

 

Bệnh viện Tân Định nhìn về phía phải của hình


Bên ngả ba Trần Quốc Toản - Hai Bà Trưng có hai tiệm người Hoa bán cà phê trong đó có một tiệm chuyên bàn thịt heo quay và xá xíu.




              Đi tới tại một hẽm lớn là lối dẫn vô cổng sau trường Đồ Chiểu buổi sáng, trường Trần Lục buổi trưa và cũng là cổng sau của trường tiểu học con trai Tân Định. Đến rạp Kinh Thành đây là rạp hạng c trong rạp có một tiệm sản xuất kem cây. Kế bên rạp là một con hẽm ăn thông qua đường Nguyễn Văn Mai .Bước tới là đường Nguyễn Văn Mai là Pháp Hoa Ngân Hàng, rồi tới tiệm may Thái Lai, chuyên may âu phục, veston cho nam giới. Bên cạnh là tiệm thuốc Bắc của ông Thần Bút mà hai bàn tay của ông để các móng dài cả tấc, nhìn giống như rễ tre. Trẻ con trong vùng thường đi lượm vỏ quit đem phơi khô gọi là Trần Bì, bán cho ông để mua quà bánh. Bên cạnh là phòng mạch của Giáo Sư Bác Sĩ Y khoa nổi tiếng Trần Ngọc Ninh chuyên về xương.(Kỷ niệm thời thơ ấu: Đoạn Đường Hai Bà Trưng – Tân Định của Trần Đình Phước).

                                                              
 Rạp Kinh Thành

           Tới nữa có một bảo sanh viện của người Hoa, được mang tên chủ nhân là Lương Kim Vy, Ngoài ra còn được gọi là nhà thương cô Mụ Lé. kề bên là một Villa cổ với những hòn non bộ trước sân và cây cảnh um tùm. Có lúc được dùng làm trường Tư Thục Vạn Hạnh do thầy Thích Đức Nghiệp làm Hiệu Trưởng. Về sau trường biến thành cư xá cho quân đội Mỹ thuê. Đây là giao lộ giữa Đường Yên Đổ (nay là Lý Chinh Thắng) - Trần Quang Khải - Hai Bà Trưng cũng là phần cuối của đoạn đường Hai Bà Trưng với hai bên là khu mua bán kéo dài tới cầu Kiệu. Nhìn về phía đầu đường Trần Quang Khải ta thấy một con đường nhỏ là nơi dẫn vô công ty hảng sáo. Cầu này năm 1965 chứng kiến một vụ rơi trực thăng ngày dốc rất may không có thiệt hại gì cả.



Ngày tết múa lân tại ngã 3 Hai Bà Trưng Và Trần Quang Khải



                                                           Ngã 3 Hai Bà Trưng Và Yên Đổ



 Đoạn hai Bà Trưng nhìn từ hướng cầu Kiệu



Dốc cầu Kiệu hướng từ đường Hai Bà Trưng



  Tết Sài Gòn trăm năm trước ra sao?   Biết những gì xảy ra trong quá khứ xa xưa dường như là mơ ước muôn đời của con người. Bởi trong c...