Thứ Tư, 29 tháng 5, 2013

SUNDAY, MAY 26, 2013

Chuyn mt người yêu phượng v


Sau 30/4 trường chúng ta xuất hiện một số bạn có những phong cách tỏ vẻ như cán bộ nòi. Chúng tôi (lớp 12B) lúc đó cũng có chân trong ban đại diện học sinh nhưng chúng tôpi không có tỏ vẻ gì hết, tôi nhớ bạn Thiên Thụy, lúc kết nạp vào đòan, mặt mũi lúc nào cũng vênh váo, làm ra vẻ quan trọng. Xin lỗi bạn Thiên Thụy chuyện đã 38 năm rồi nếu có đọc những dòng này cũng đứng giận tôi, tôi chỉ nói lên cảm nghĩ của tôi lúc đó thôi. Dưới đây là câu chuyện của bạn Nguyển Đạt viết về một bạn học cũng có tư tưởng như vậy


Mỗi độ hè về thì tôi lại có thể nhìn thấy những tàn cây jacaranda nở đầy hoa tim tím dọc theo nhiều con đường ở California và hoa jacaranda đã khiến tôi nhớ nhiều hơn màu hoa phượng vỹ (Royal Poinciana/ Caesalpinia) ở quê nhà, nhất là hai cây phượng vỹ thật to ngay trước cổng trường Lê Quí Đôn của tôi. Ai đã từng “mài đũng quần” trên ghế nhà trường ở Việt Nam chắc hẳn không thể không nhớ loài “hoa học trò” này. Cứ mỗi khi thấy hoa phượng nở đỏ rực trên cành, cùng với tiếng ve kêu vang rền là biết hè về, mùa thi đã đến và ngày bãi trường đã gần kề. Cánh phượng đỏ, hình trái tim, vừa mềm mại lại mượt mà như nhung vậy. Giữa trưa hè mà ngồi học bài hay ăn hàng dưới gốc cây phượng vỹ thì thật là thú vị nhưng hình ảnh mà tôi thích nhất vẫn là được ngắm các cô bạn tụm ba tụm năm lại trao nhau những cuốn lưu bút với một vài cánh hoa phượng đỏ ép vào giữa những trang giấy trắng học trò thật dễ thương. Đã có rất nhiều người yêu thích và ca tụng hoa phượng, trong số đó có Dũng - thằng bạn học đa tài và quá ư “lý tưởng” của tôi. Ngay từ năm học lớp 6 và có lẽ đến cuối đời, nó vẫn là người yêu phượng đến ...điên cuồng nhất! Dũng đã viết rất nhiều bài luận văn, nhiều bài thơ, bài nhạc để ca tụng vẻ đẹp của phượng. Không những vậy, nó còn vẽ tranh, chụp rất nhiều tấm ảnh để “miêu tả trọn vẹn nét đẹp của phượng”! Nó có cả một “công trình” sưu tầm, nghiên cứu về phượng với hy vọng sẽ “để lại cho đời sau những tác phẩm bất hủ về ...phượng”!!! Chưa hết, có lần nó đã đùa với chúng tôi:”Tao mà làm tổng trưởng giáo dục thì tao sẽ yêu cầu tất cả trường học ở Việt Nam trồng phượng khắp sân trường, hay ít ra cũng có 2 gốc phượng ngay trước cổng trường. Tao sẽ cấm học trò khắc bậy bạ lên thân cây phượng...” 

Tôi còn nhớ trong một lần cô giáo dạy văn ra đề thi lục cá nguyệt cho môn tập làm văn của chúng tôi là “hãy miêu tả một loài hoa mà em thích nhất” thì bài văn của Dũng đã được điểm cao nhất. Khi cô giáo cho Dũng đứng lên đọc bài văn của nó, chúng tôi nhìn nhau cười khúc khích trước thái độ “trịnh trọng” và giọng đọc say sưa của nó nhưng nó vẫn cứ tỉnh bơ đọc. Đến khi cô giáo bảo chúng tôi lần lượt đọc những bài văn miêu tả hoa hồng, hoa lan, hoa cúc, hoa lục bình, hoa thược dược, hoa hướng dương... của chúng tôi xong thì nó mới đứng lên phê bình từng đứa chúng tôi sát sạt khiến cả lớp chúng tôi tranh cãi rùm beng lên với nhau. Dũng cứ một mực nói: “là học trò thì phải yêu hoa phượng vì hoa phượng là hoa học trò”, còn tụi tôi thì khăng khăng cãi lại: hoa nào cũng có những nét riêng, có hoa thơm nhưng có gai, có hoa đẹp mà không thơm, có cái tốt, cái xấu của từng loại, không thể bắt buộc phải “yêu” mỗi một loài hoa như Dũng nghĩ được, dù cho hoa phượng là “hoa học trò” đi nữa thì đâu thể nào bắt buộc tất cả học trò phải yêu chỉ mỗi một loài hoa phượng vỹ mà không có quyền tự do yêu thích loài hoa khác? Chưa kể là trình độ cảm nhận thẩm mỹ, sở thích, hoàn cảnh, điều kiện sống của mỗi người cũng khác nhau thì suy nghĩ của mỗi người không thể giống nhau như “người máy” được! Nói thế nào, Dũng cũng chẳng thèm nghe, cứ cãi bướng cho đến khi cô giáo nổi sùng phạt cấm túc hết cả lớp và bắt buộc mỗi đứa phải chép phạt 200 lần chỉ một câu: “Từ nay em không được cãi nhau trong lớp học”! Từ đó, chúng tôi cứ mặc kệ cho nó “si tình” với phượng. 


Vậy mà nó vẫn không tha tụi tôi. Ngay sau ngày 30/4/75, Dũng đến trường với mảnh vải đỏ quấn quanh cánh tay, cùng với ban quân quản tập họp các thầy cô và học sinh trường tôi lại để chào mừng “cách mạng thành công” và bước vào giai đoạn học tập “cải tạo tư tưởng.” Lúc đó, tụi tôi bắt đầu thấy sợ nó, không còn coi nó là bạn học từ bé nữa vì nó đã ngang nhiên trở thành “cán bộ Đoàn,” với lý lịch bây giờ chúng tôi mới biết ba nó là một ông thợ mộc lỡ bị xe nhà binh Mỹ đụng gãy chân nên uất ức mà tham gia làm “nằm vùng,” đến sau Tết Mậu Thân bị lộ nên bị bắt và đày ra Côn Sơn. Cuối năm 1972, ông đã chết trong nhà tù Côn Sơn, được chôn cất bên cạnh những cây phượng vỹ và sau 30/4/75 thì gia đình nó trở thành “gia đình liệt sĩ.” Có lẽ từ quá khứ đó mà nó hoạt động tích cực trong mọi phong trào từ trường đến phường khóm; trong khi tụi tôi chưa biết tương lai sẽ ra sao khi mà cha vừa phải “tập trung cải tạo” và số phận “con Ngụy” của mình sẽ đau khổ như thế nào dưới chế độ mới. Ngay cả thầy cô cũng ái ngại trước một người học trò đang hừng hực “nhiệt tình cách mạng”!

Cuối học kỳ I của năm lớp 12, khi mà ngày lễ Giáng Sinh & Năm Mới không còn làm chúng tôi háo hức nữa mà phải ráo riết “làm
 quen” với những “danh từ cách mạng” rất mới mẻ trước khi thi thì Dũng lại đến lớp với vẻ mặt hí hửng, mở tờ giấy ra khoe với chúng tôi: “ Các bạn, tôi vừa xin phép Ban Giám Hiệu cho phép tụi mình trông thêm 2 cây phượng ngay 2 bên cổng chính như là một “công trình” nhân dịp “Tết trồng cây nhớ Bác” sắp đến, vừa là một kỷ niệm tốt đẹp để lại cho đàn em của mình sau này. Các bạn có “nhất trí” không?” Eo ơi, nghĩ ngợi gì nữa cơ chứ, cả lớp chúng tôi đều vỗ tay trước “sáng kiến” vô cùng hay ho này của Dũng. Thầy chủ nhiệm cũng cười hớn hở đến bắt tay khen ngợi Dũng. Cho dù sắp đến ngày thi tốt nghiệp phổ thông cấp 3 (tú tài 2), tụi tôi vẫn phải thay phiên chăm sóc, tưới bón cho 2 cây phượng vỹ sao cho tươi tốt và làm vui lòng thằng bạn trưởng lớp của mình. Lắm lúc bực mình nó với đủ thứ phong trào văn nghệ, thể thao, báo chí, học tập, sinh hoạt nọ kia nhưng tụi tôi vẫn phải khâm phục nó ở chỗ nó rất khỏe, ăn uống kham khổ nhưng bao giờ nó cũng xung phong đi đầu trong mọi sinh hoạt, công tác mà điểm môn nào cũng cao nhất lớp. Hay nhất là cứ sáng thứ hai đầu tuần là nó lại đến chăm sóc 2 cây phượng để coi cây phượng có lớn lên thêm được vài phân nào hay không! 

Ngay như đám đoàn viên TNCS. và con em cán bộ ngoài Bắc mới vào trường tôi cũng không thể nào trội hơn Dũng về mọi mặt nên cũng thường tỏ thái độ ganh tị, ghen ghét Dũng mỗi khi có dịp “phê & tự phê”. Khi trường tôi đi công tác thủy lợi, nó xắn đất, bắn leng rất “thiện nghệ”, lại còn “biểu diễn” nấu cơm, rồi đàn hát, ăn nói lưu loát như một cán bộ nồng cốt rất mẫu mực và tài giỏi, khiến biết bao cô bạn trong trường tôi cảm mến và bọn con trai tụi tôi cũng phải thán phục. Ai bảo “gươm lạc giữa rừng hoa” là sướng chứ nguyên cả lớp tôi chỉ có 11 đứa con trai thì con trai lại bị “lép vế”, cứ phải gánh hết mọi việc cho các o con gái chỉ hay làm điệu với mấy thằng con trai ...lớp khác nhưng lại giỏi “bắt nạt”, “ăn hiếp” và biết cách “đì te tua” đám con trai học cùng lớp - trừ với Dũng! Mấy o thường làm bộ hỏi bài hay nhờ Dũng làm giùm đủ thứ chuyện tào lao trên đời chứ hiếm khi nào thèm ngó đến 10 thằng “cù lần” còn lại trong lớp. Buổi tối cuối cùng trước khi trở về trường ôn tập chuẩn bị thi học kỳ 2, cô bí thư chi đoàn Thúy Liên vẫn cố lôi kéo đám con trai theo phe cô ta để moi móc phê bình Dũng là có “quan hệ nam nữ ...linh tinh,” có tinh thần “anh hùng cá nhân ...tiểu tư sản”(!) khiến cả bọn tụi tôi chỉ biết cười thầm mà ngao ngán. Tuổi học trò của chúng tôi đã không còn vô tư, ngây thơ trong trắng nữa khi mà người ta đã nhồi nhét vào đầu óc chúng tôi về chủ nghĩa Mác-Lê và tinh thần “đấu tranh giai cấp”, dạy chúng tôi phải biết phân biệt rạch ròi giữa ta và địch, gieo vào chúng tôi lòng “căm thù kẻ địch” và môn chính trị trở thành môn học quan trọng nhất quyết định kết quả đánh giá cả một quá trình học tập chứ không còn là những môn khoa học tự nhiên, nhân văn, xã hội thuần túy nữa. Tình bạn giữa chúng tôi cũng đổi thay rõ rệt khi mà trong lớp học đã có những đoàn viên TNCS. từ Bắc mới chuyển vào trường chúng tôi nhưng cái mặt của họ dường như lúc nào cũng vênh váo, ăn nói xấc xược, thái độ kiêu căng của kẻ chiến thắng nhưng cách ăn mặc thì hết sức ...quê mùa lạc hậu! Chính họ đã tạo ra một khoảng cách, với tật ưa soi mói, đố kỵ, ánh mắt họ cứ như dò xét từ lời nói, cử chỉ đến ...tư tưởng của thầy cô lẫn bạn bè. Sợ nhất là những buổi “phê & tự phê,” mỗi người làm phải một tờ tự kiểm, cứ cố moi ra cái xấu nào đó để bày tỏ thái độ thành khẩn rồi nghe họ “góp ý” bằng giọng dạy đời, kẻ cả rất khó ưa trước khi mình “rút kinh nghiệm để phấn đấu tốt hơn”! Có lẽ cũng phải cám ơn “cách mạng” đã sớm chỉ cho chúng tôi thấy được những kịch cỡm và dối trá của trò đời mà trước kia chẳng ai trong nhà trường và gia đình thèm dạy cho chúng tôi biết !
Thi tốt nghiệp phổ thông cấp 3 (tú tài 2) xong, tụi tôi lại bù đầu ngay với việc ôn thi vào Đại Học nên đứa nào cũng viện đủ lý do để “đào ngũ”, mặc cho trưởng lớp của mình muốn làm gì với 2 cây phượng vỹ thì làm! Bẵng cho đến khi có kết quả, tụi tôi lại chưng hửng: 8 đứa “con Ngụy” có cha “học tập cải tạo” đều “trợt vỏ chuối,” chỉ có Dũng và 2 đứa có cha mẹ là công nhân hay buôn bán nhỏ là “qua ải”. Thế mà Dũng lại xin “tạm hoãn” việc vào học ở đại học Y Dược để tình nguyện đi thanh niên xung phong. Nó giải thích với tụi tôi:”Đất nước đang cần mình xăn tay áo lên đắp đập, làm thủy lợi, đem nước ngọt về tưới cho đồng ruộng để có đủ lúa gạo nuôi dân, xây dựng và phát triển đất nước. Thanh niên phải lên đường ngay hôm nay, trước là đáp lời sông núi cống hiến tuổi trẻ cho đất nước, sau là qua lao động sẽ tự cải tạo chính mình trở thành con người mới tiến bộ hơn. Còn việc học của mình đợi vài năm nữa cũng đâu có muộn.” Thấy nó “bôn-sê-vích” quá nên ngày nó đi lên nông trường Lê Minh Xuân cũng không có mấy đứa bạn cùng lớp đưa tiễn nó lên đường. Thực tình chúng tôi không ngờ nỗi Dũng lại thay đổi đến như vậy, nhất là qua những hành động và suy nghĩ quá ư ...“lý tưởng” của nó. Từ những ngày chúng tôi tham gia phong trào hướng đạo với thầy Linh vào năm lớp 6 cho đến lúc chúng tôi tổ chức được một đội túc cầu(soccer) đầu tiên của trường vào năm lớp 8, Dũng vẫn là một thằng bạn rất tốt và xuất sắc trong mọi lãnh vực. Hình ảnh của một đội trưởng nhất với nhiều chuyên hiệu, vừa biết đàn ca, vừa làm bích báo hay mà đẹp đã khiến cả trại hè Suối Tiên phải thán phục thiếu đoàn LQĐ của chúng tôi mới dạo nào. Chưa kể đến vai trò thủ quân đá vai tiếp ứng lên công về thủ hết sức dẻo dai, xông xáo luôn làm cho chúng tôi mến phục Dũng. Nó đến nhà đứa nào cũng được cha mẹ chúng tôi ân cần giữ lại ăn cơm vì sự lễ độ, khiêm tốn, bình dân và tánh thành thật tốt bụng của nó. Bất cứ điều gì người ta cần đến sự giúp đỡ của nó, nó đều vui vẻ, sốt sắng làm tới nơi tới chốn. Vậy mà chỉ một vài ngày sau 30/4/1975, Dũng đã trở nên một thanh niên tràn đầy “nhiệt tình cách mạng” và “lý tưởng” đến mức chúng tôi đâm ra dè dặt khi gặp nó và hầu hết thầy cô cũng...”hết ý” với nó!
Cuối năm 1981, khi tôi vừa ra khỏi trại giam Cây Gừa đến bến xe Hộ Phòng để về Sàigòn sau hơn 18 tháng “gỡ lịch” vì tội vượt biên ...hụt, bất chợt tôi gặp lại Dũng. Nó vừa đen sạm và dày dạn phong sương hơn cả tôi vừa ở tù lao động cải tạo ra mà còn ăn nói y hệt cán bộ nên tôi phải tỏ ra dè dặt hơn với nó chứ không còn dám giỡn chơi thoải mái như trước nữa. Dũng khoe nó đã “chuyển ngành” sau khi hoàn thành “nghĩa vụ quốc tế” trên chiến trường Campuchia, vừa học xong lớp “cán bộ kiểm sát nhân dân” và chuẩn bị cưới vợ. Tôi cứ tưởng vợ nó là Vân, là Nga, hay là Thủy - những cô bạn học cùng trường, cùng lớp ngày xưa vẫn “ái mộ” Dũng. Ai dè “cô dâu” lại là cô Phụng nào đó, lớn hơn nó đến 2 tuổi, từng là “dân chơi” có tiếng ở các vũ trường Saigon trước khi bị bắt vô trường “phục hồi nhân phẩm” Bình Triệu, rồi được chuyển qua đơn vị thanh niên xung phong của Dũng. Trong những ngày lăn lộn trên các nông trường và chiến trường biên giới Tây Nam, chú nai tơ Dũng đã bị lọt vào bẫy tình và nó đã về Cà Mau để “ra mắt” bên vợ của nó. Không biết cuộc tình này “lý tưởng” đến cỡ nào chứ nghe nó kể mà tôi cứ lo cho nó bởi tôi vẫn suy nghĩ hết sức cổ hủ: dù lấy vợ làm điếm hay lấy điếm làm vợ thì ...cũng vậy thôi! Dù biết tôi mới được “tạm tha,” nó chỉ biết “động viên” và “nhắc nhở” tôi phải cố gắng “phấn đấu” chứ không đãi tôi được một tô mì hay hủ tíu mà tôi thèm không chịu được khi ngó thấy mấy người khách cứ húp xì xụp hết sức ngon lành ngay trong một quán trước phòng vé của bến xe. Dũng “trưởng lớp” hết sức “chịu chơi” trước 1975 đã không còn nữa. Trước mặt tôi giờ đây là một cán bộ tên Dũng đã bị “nhuộm đỏ” từ đầu đến chân! Thật khó mà tin nỗi chủ nghĩa cộng sản đã làm bạn tôi thay đổi đến độ cuồng tín và ngây thơ đến như vậy. 


Sau đó tôi lại vượt biên thất bại một lần nữa, phải “nằm ấp” ở Bà Rịa. Bạn học cũ biết được tôi sắp phải lao động cải tạo tận Phước Long nên mày mò đến nhờ Dũng tìm cách cứu tôi nhưng nó thẳng thừng từ chối “bảo lãnh,” còn nhắn với tôi là “học tập cho tốt rồi hãy về xây dựng cuộc sống mới cho đàng hoàng hơn!” Nghe kể lại mà tôi tức giận nó thì ít nhưng lo cho sự cuồng tín của nó thì nhiều, không chừng nó sẽ là Paven trong “Thép đã tôi thế đấy” hay “Ruồi trâu”(best seller về tuyên truyền trong thanh niên) của Liên Sô thì khổ cho nó. Bạn bè đều thương nó nhưng chưa ai dám nói thật với nó những suy nghĩ thầm kín từ đáy lòng mình về chế độ mới. Nói nôm na, chúng tôi cứ phải tập “nín thở” đểû “qua sông”!
Trốn tù, tôi lên Đà Lạt làm phó nhòm và bỏ luôn Saigon cho đến khi vượt thoát qua Mã Lai sau 23 ngày lênh đênh trên biển, vừa đói khát, vừa bị hải tặc Thái Lan cướp bóc te tua. May mắn khi một thuyền đánh cá Singapore đã cứu giúp chúng tôi để đưa vào Johor trước khi chuyển về đảo tị nạn Pulau-Bidong. 9 tháng sau, tôi đến Mỹ với 2 bàn tay trắng. Tất cả đều phải làm lại từ đầu trên xứ này, tuy cực khổ nhưng tôi vui mừng khi bước vào trường đại học - một ước mơ mà tôi đã bị “nhà trường xã hội chủ nghĩa” từ khước một cách tàn nhẫn khi còn ở trên quê hương mình chỉ vì tôi là một đứa “con Ngụy”! 


Cuộc sống mới ở Mỹ cũng không cho tôi thời gian rỗi rảnh để tìm hỏi xem Dũng biến đổi dường nào. Tôi vừa “cày” full-time, vừa học 15, 16 units nên cũng chẳng cần biết cuộc sống của Dũng bây giờ ra sao? Thỉnh thoảng lái xe trên đường về nhìn thấy những tàn cây jacaranda nở đầy hoa tim tím vào đầu hè, tôi lại nhớ về mái trường Lê Quí Đôn năm xưa của tôi, với kiến trúc Pháp thật đẹp, với những cây phượng vỹ nở hoa đỏ rực rồi tôi lại nghĩ đến bạn bè cũ, trong đó có Dũng: Nó có còn yêu phượng vỹ nữa hay không? Nó có nhớ chăm sóc 2 gốc phượng năm xưa hay không? Thật tình mà nói, chúng tôi đã xa nhau không chỉ trong một khoảng cách địa lý mà cả trong cách nghĩ, cách sống từ khi Dũng quyết định chọn “con đường Bác đi”, còn tôi lại không muốn cuộc sống của mình cứ ngày càng bi đát!

Mãi đến cuối năm 1988, tôi nhận thư gia đình từ Việt Nam cho biết hôm đi lãnh quà do tôi gửi về, em tôi đã gặp vợ Dũng. Cô ấy được “chuyển ngành” qua Hải Quan - một ngành “béo bở” nhất ở Việt Nam hiện nay. Tình cờ khi xét thùng quà, cô thấy tấm hình tôi chụp chung với các thầy cô và bạn cũ trong buổi họp mặt cuối năm các cựu học sinh trường LQĐ., cô ấy liền hỏi thăm và khoe chồng cô ấy cũng là một cựu học sinh LQĐ. Qua chuyện trò và sự “gợi ý” của vợ Dũng, em tôi mới có dịp đến thăm vợ chồng Dũng tại nhà riêng, trước là “xã giao”, sau là “biết điều” một chút để lãnh cho xong mấy món quà “quý hiếm” từ Mỹ gửi về mà bớt ít thuế! Em tôi còn kể, Dũng đinh ninh tôi qua Mỹ mấy năm rồi thì bây giờ chắc cũng khá lắm. Nó không ngờ là tôi phải vừa “cày” toát mồ hôi với đồng lương tối thiểu của một assembler, vừa tằn tiện sống bám vào tiền student loan, scholarship, grant... để học cho xong một cái bằng cấp lận lưng hòng kiếm job khá hơn một chút để vừa nuôi sống bản thân, vừa còn giúp đỡ gia đình còn kẹt lại bên nhà. Nó mà biết tôi khổ sở như thế này thì chắc nó sẽ chửi tôi ngu khi cố “ôm chân đế quốc” để kiếm chút “bơ thừa, sữa cặn” (!). Thế cho nên tôi lập tức viết thư về bảo em tôi nên tránh tiếp xúc với vợ chồng Dũng, nhất là đừng cho nó biết gì về tôi, cả địa chỉ của tôi cũng nên giấu kín.
Bặt tin hoàn toàn cho đến năm 1992, tôi gặp lại Đạo - một hậu vệ trứ danh của lớp tôi ngày xưa vừa đến Mỹ theo diện di dân. Đạo cho tôi biết một tin giật gân: Vợ Dũng đã bỏ nhà đi theo một cán bộ thượng nghiệp cỡ gộc. Con gái Dũng, nó đặt tên là Phượng như dạo nào nó đã yêu thích hoa phượng, bây giờ cũng đã 10 tuổi. Phượng cũng không muốn sống với một ông bố nghèo mà “gàn”, cứ khư khư ôm mãi mớ “lý tưởng” cũ rích mà không chịu thay đổi theo trào lưu “đổi mới”! Đạo khuyên tôi nên viết thư thăm Dũng, hùn tiền mua ít quà tặng nó vì dũng bây giờ “rách” lắm rồi mà vẫn cố “giữ lấy lề”! Đạo cho biết 2 gốc phượng đã bị ban giám hiệu đốn bỏ vì nhà trường cần làm bãi giữ xe để thầy cô có thêm điều kiện “cải thiện đời sống.” Ngay cổng sau trường LQĐ cũng cho tư nhân thuê mặt bằng để mở quán cà phê và nhiều loại dịch vụ khác. Ngày xưa, trường tôi nổi tiếng nề nếp kỷ luật, thầy cô nghiêm khắc, phòng ốc khang trang. Vậy mà cuộc sống khó khăn đã làm thay đổi quá nhiều, trường tôi cũng không tránh được tai kiếp. Chính Dũng cũng không ngờ được tai kiếp lại đến với nó một cách bất ngờ và thảm thương! 


Chỉ trong vòng 6 tháng, Dũng liên tiếp lãnh trọn nhiều cú đau điếng. Phượng, con gái của Dũng, vừa bị ông chồng Đài Loan bỏ rơi sau khi có bầu vừa gần 2 tháng! Dũng giận lắm mà không biết làm sao hơn khi mà chính vợ Dũng cũng sa lầy trong bùn nhơ: Phụng đã cùng lão giám đốc công ty ngoại thương nhận bao che cho nhiều vụ buôn lậu lớn. Qua nhiều chuyến hàng béo bở, Phụng cùng lão ta vui hưởng nhà cao, xe mới, áo quần sang trọng, du hí đó đây, xài tiền vung vít, làm nhiều trò chướng tai gai mắt nên một số “chóp bu” bực mình ngầm ra lệnh cho điều tra và bắt trọn ổ. Oái oăm thay, Dũng lại được giao trách nhiệm xử lý vụ án kinh tế có liên can đến nhiều “ô lọng” tầm cỡ này. Nó lại trở chứng gàn bướng, cứ muốn làm cho tới nơi tới chốn để “trong sạch hóa” hàng ngũ cán bộ, đảng viên như các đồng chí cấp cao trong Bộ Chính Trị vẫn ra rả kêu gọi, nhắc nhở. Mặc kệ những lá thư nặc danh, những cú điện thoại cảnh cáo, bỏ qua cả những lời khuyên can chân tình, Dũng cứ điên cuồng lao vào điều tra vụ án - nói đúng hơn là một vụ tranh ăn, trả thù lẫn nhau giưã các phe phái “cá mập” trong hàng ngũ lãnh đạo Cộng Đảng Hà Nội. Có lời đồn là Dũng ghen tức với lão giám đốc cướp vợ mình nên mới cố tình lợi dụng cơ hội này nhằm triệt hạ “tình địch”. Hư thực ra sao chưa rõ thì tôi nhận được một lá thư từ các bạn bên nhà gửi qua kèm theo mẫu tin trên báo Tuổi Trẻ về việc một cán bộ Viện Kiểm Sát Nhân Dân thành phố đã bị một xe hơi đụng phải ngay trên đường từ cơ quan về nhà. Dũng chết ngay tại chổ. Đám tang của Dũng cũng chỉ có vài người trong gia đình quyến thuộc và ít bạn bè tiễn đưa nó đến nơi an nghĩ cuối cùng ở Thủ Đức, không có mặt của vợ lẫn con gái của nó. Thế là tôi đã vĩnh viễn mất đi một người bạn học cũ. Không biết Đảng có đau lòng khi mất đi một cán bộ gương mẫu, trung kiên như Dũng hay không mà chỉ nghe đâu vụ án đã “chìm xuồng” sau khi vài con cờ thí đã chịu vô tù thế cho các xếp lớn. Đau lòng cho Dũng là những tên tù loại này lại được ăn ngon, nằm giường nệm, có cả video và karaoke để giải trí trong lúc nằm khám nữa chứ! Dũng ơi, tao không hiểu giờ đây mày nghĩ sao về chế độ mà mày đã tận tụy cống hiến, hy sinh? Mong rằng giờ phút này, mày đã hiểu vì sao tụi tao phải bỏ nước ra đi, bất chấp tù đày, hải tặc, bão biển, đói khát và cả kiếp sống nhục nhằn của một người tị nạn phải chịu lưu vong. Trước ngày Dũng mất, Dũng đã uống rượu và than thở với một người bạn học cũ: Có không ít người vẫn hoài nghi là Đảng có thật sự sẽ xây dựng đất nước giàu mạnh, dân tộc ấm no, hạnh phúc; hay là Đảng chỉ muốn củng cố và bảo vệ địa vị lãnh đạo độc tôn của Đảng? Tiếc là Dũng chưa kịp tỉnh ra thì nó đã yên giấc ngàn thu. Những cán bộ trẻ có trình độ, lương thiện như Dũng hiện còn được là bao? Họ có làm được những gì mà họ mong ước sẽ làm cho đồng bào và quê hương của họ hay không? Bao nhiêu “chất xám” đã mất đi hay trôi dạt xứ người, chế độ “vắt chanh bỏ vỏ” vẫn cứ tồn tại với những tệ nạn tham nhũng, quan liêu hống hách, đĩ điếm, ma túy, cướp giật ngày càng lộng hành. Tuổi trẻ Việt Nam sẽ đi về đâu? Tương lai Việt Nam sẽ ra sao khi mà người ta chỉ muốn chụp giựt rồi bỏ chạy mà không cần đến lương thiện tối thiểu? Đất nước Việt Nam sẽ như thế nào khi mà cứ phải vơ vét rồi bán đổ bán tháo, bất kể ngày mai sẽ còn lại gì?
...Hè lại về, mùa hè năm 2000. Tôi không biết học trò ở Mỹ có thích hoa jacaranda hay một loài hoa học trò nào không chứ chúng tôi thật khó quên hoa phượng vỹ. Có lẽ một ngày nào đó, chúng tôi sẽ về trồng thêm nhiều cây phượng vỹ cho trường chúng tôi sẽ rợp mát hơn và sân trường sẽ đỏ tươi rực rỡ những cánh phượng giữa trưa hè. Chúng tôi cũng sẽ trồng bên mộ Dũng một gốc phượng hồng để một người yêu phượng vỹ như Dũng sẽ còn chút an ủi vì ít ra một trong những mơ ước của nó cũng có thể thành sự thật chứ không quá ảo tưởng như cái chủ nghĩa cộng sản mà nó đã lầm lỡ đi theo đã chết bất đắc kỳ tử mà người ta vẫn cứ dựng bảng tôn thờ để tiếp tục lừa mị và ...mộng du! Dũng đã nằm xuống, chúng tôi vẫn không sao ngăn được nước mắt thương tiếc cho một người bạn tài hoa, một người yêu phượng vỹ - nên cứ để cho chuyện của nó đi vào quá khứ như một câu chuyện cổ tích và tình bạn giữa nó với chúng tôi vẫn đẹp như thời còn cắp sách đến trường. Những đúng -sai. tốt - xấu, hay - dở của nó sẽ là bài học cho thế hệ đàn em của chúng tôi. Tuổi trẻ vốn dĩ nhiệt tình, lý tưởng nhưng cũng không thể suy nghĩ hay hành động một cách cuồng tín, nông cạn, bốc đồng, thiếu nhận định, phân tích, tổng hợp một cách kỹ càng, sáng suốt thì dễ dẫn đến những quyết định sai lầm, tai hại khó lường như chính cuộc đời Dũng. Dù sao, một người trẻ như Dũng đã có những nét đáng yêu bởi nói cho cùng, Dũng cũng đã sống trọn vẹn cho điều mà nó vẫn tin là tốt đẹp, không chút tự tư tự lợi, không hề tính toán hơn thiệt. không giống như chủ nghĩa cộng sản đã chết ở Nga và Đông Âu cả chục năm rồi mà đến bây giờ vẫn cứ làm khổ đồng bào tôi. Tuy Dũng không còn nữa nhưng chúng tôi vẫn hy vọng mơ ước của nó được thấy tất cả trường học tại Việt Nam sẽ trồng thật nhiều phượng vỹ, ít ra cũng có 2 gốc phượng ở 2 bên cổng trường sẽ sớm thành hiện thực bởi phượng vỹ đã là hoa học trò ở Việt Nam của chúng ta. Những cánh phượng hồng sẽ vừa góp phần tô điểm cho những mái trường, vừa lưu giữ những hình ảnh và kỷ niệm đẹp nhất về tuổi học trò của một đời người. (7-1991)


 VĂN NGH   


Thứ Hai, 27 tháng 5, 2013

 Khi lướt trên mạng mấy năm trước tôi đã bắt gặp bài này, xem qua cũng rất hay và khá đầy đủ. Tôi đưa bài này lên đây để bổ túc cho phần còn thiếu nhất là đối với các bạn một thời sống vùng Gia Định. 

SAIGON - Khung trời quá nhiều Kỷ Niệm

Đường làng 15 (đường Lê Quang Định) lúc bấy gìờ hầu hết chỉ có người đi xe đạp, thỉnh thoảng có vài chiếc mobylette hay xe nhà binh của Pháp chạy qua, lẫn tiếng xe thổ mộ lóc cóc trên đường. Khoảng đầu thập niên 50, phưong tiện di chuyển chính là thổ mộ. Xe thổ mộ (xe làm bằng gỗ có hai bánh cũng bằng gỗ hai bên thùng xe, thường sơn màu nâu đậm rất thịnh hành ở vùng Bà Điểm, Hóc Môn, Chợ Cầu, Gó Vấp, Bà Chiểu, chợ Đất Hộ (Đakao), Tân Định ra tận đến Sài Gòn. Xe nào cũng có 4 cái mốc, mỗi bên hai cái bên hông xe để người đi treo dép hoặc gồng gánh. Ai đi xe thổ mộ củng phái ngồi xếp bằng, co ro trong thùng xe, xe chật dĩ nhiên chuyện cọ sát với nhau là thường, anh nào còn trai tráng thường phải ngồi phía sau, hoặc ngồi phiá trước đối diện với anh lái xe thổ mộ.
Người đi thường là bạn hàng mang hàng xuống từ Hóc Môn, Bà Điểm, chợ Cầu, trái cây, hoa, rau, trầu cau, thuốc rê Gò Vấp. 
Trước khi tới quận lỵ Gò Vấp, có ga xóm Thơm (tên địa phương, nhưng cũng gọi là tên ga Gò Vấp). Ga Gò Vấp là một ga nối vì từ ga này đi ra các tỉnh miền Trung, Nha Trang, đi Lái Thiêu, Thủ Dầu Một, dĩ nhiên đi ra Sàigòn (ngừng tại ga xe lửa Mỹ (Mỹ Tho, cũng gọi là ga Sàigòn, bây giờ là công viên 23/9 gần chợ Bến Thành)-rồi từ ga Saigon đi Chợ Lớn, Bình Tây hay đi Mỹ Tho. Tuyến đường Gò Vấp Sàigòn được đưa vào xử dụng ngày 7/9/1897, lúc đầu chạy bằng nưó'c sau bằng điện, từ năm 1913.
Cũng từ sau 1913, các tuyến đường khác được xây dựng từ Gò Vấp đi Hóc Môn, Gò Vấp đi Lái Thiêu-Thủ dầu Một. Từ chợ Bình Tây Chợ Lớn đi Phú Nhuận-Đakao-Tân Định.
Tuyến xe đi từ Gò Vấp ra Sàigòn qua Ga Đông Nhì, lúc rạp Đông Nhì (cùng chủ với Đại Đồng Nguyễn văn Học và Đại Đồng Cao thắng, Bàn cờ, cũng là chủ rạp Đại Đồng Hà Nội di cư vào Nam, có tài liệu cho biết Đại Đồng Hà Nội là rạp chiếu bóng đầu tiên của người Việt Nam cho người Việt Nam) Rạp Đông Nhì là rạp bình dân, chiếu toàn phim cũ nhưng mới hơn Lạc Xuân, có đặc điểm hát thường trực, lúc nào mua vé vào xem và xem bao lâu cũng được
Sau khi bỏ khách xuống thì xe điện chạy đến ga Bình Hòa, ga này nằm đối diện với cây xăng Bình Hòa hiện tại vẫn còn, mỗi lần xe lửa chạy là có cây chắn ngang hạ xuống chận lưu thông trên đường Nguyễn Văn Học, xe điện tiếp tục chạy qua khu chợ Ngã Tư Bình Hòa, dọc theo đường làng 15-đường Lê quang Định ra Bà Chiểu.
Trước 1960, nơi đây vẫn còn dấu vết ga Bình hòa trên tuyến đường Gò Vấp-chợ Bến Thành
Từ Ngã tư Bình Hòa, nếu ta đi trên đường Nơ trang Long (Nguyễn văn Học) hướng về Thủ Đức và Bình Dương sẽ phải qua ngã Năm Bình Hoà nơi đây đã xày ra cuộc oanh tạc khốc liệt của máy bay trực thăng năm Mậu Thân 68. Ngã năm là giao điểm của hai đường Nơ Trang Long và Phan văn Trị và một đường đi vào xóm Lò Vôi thẳng ra luôn tới rạch nước mà bây gìờ gọi là rạch Bến Bôi. Từ Ngã Năm đưòng Nơ Trang Long đi thẳng qua cầu Băng Ky đến Cầu Bình Lợi.
Đường Nguyễn Văn Học đoạn gần cầu Bình Lợi trước 75 có hãng Vissan-Việt Nam Kỹ nghệ Súc Sản-” sản xuất sản phẩm gia súc theo đường lối dây chuyền và xưởng kỷ nghệ mền len Sakymen (Sài-gòn Kỹ nghệ Mền Len). Từ Nguyền văn Học quẹo trái về Phan Văn Trị hướng Gò Vấp có công ty lớn may dệt Vinatexco.
Đường Phan văn Trị có hai ngôi chùa với đồng mả bao quanh, chùa Thập Phước (Tập Phước) và chùa Bảo An. Hai chùa này cổ này gìờ vẫn còn tuy nhiên đồng mả bao quanh không còn nũ'a và đất chùa bị thu hẹp rất nhiều. Ngày xưa, ban đêm ít ai đến vùng này vì nghe tiếng nhiều ma. Má tôi kể lại chuỵện ngay cả ban trưa, chú tiểu thường thấy bóng người đưa võng cho mình ngủ mà chùa thì vắng lặng chỉ có một mình.
Đường Nơ trang Long (Nguyển văn Học cũ) đi về hướng trường Vẽ, sau này lại đổi nhiều tên khác như Mỹ nghệ thực hành, Cao Đẳng Mỷ Nghệ, rồi sau 75 là trường cao đẳng Mỹ Thuật nằm ngay cuối đường Nơ Trang Long-trên đường Phan Đăng Lưu (Bạch Đằng). Đường Nguyễn văn Học đầu này này có hàng điệp, phượng vỹ xen lẫn với me. Mùa hè đoạn đường rất đẹp vì Điệp, Phượng nở đỏ.
Trên đường này có sân vận động Lê Văn Duyệt (không còn nữa, tiếc thay!) kế đó khu vực nhà thương Nguyển Văn Học, trước 75, khu bịnh viện được xây dựng lại với Viện Ung Thư và bịnh viện Nguyễn Văn Học, Gia Định. Khoảng năm 64, khu đất kế bên được người Mỹ giúp xây theo mô hình hiện đại làm trung tâm thực tập Y khoa cho Đại học Y khoa Sàigòn, trang bị máy móc tối tân để dạy và trị bệnh, sau đổi thành bệnh viện Gia Định-sau 75 có tên là bệnh viện Nhân dân Gia Định. Viện Ung Thư là cơ quan y tế chuyên về ung thư cho cả nước. Viện Ung Thư nay gọi là Viện Ung Bướu đang trong tình trạng quá tải, nên người dân nói vào cửa trước, ra cửa sau thẳng vào nhà Xác. Thật sự phía sau các bệnh viện này là nhà Xác chung. Gần sân Vận Động Lê Văn Duyệt, thì có rạp chiếu phim Đại Đồng
Cạnh rạp Đại Đồng có cả một khu hồ bơi, rất nổi tiếng thời này, có nhiều hồ bơi kích thước khác nhau cho đủ mọi hạng người và cả các quán ăn nhỏ. Khu này đúng ra là một địa điểm giải trí khi xưa- hơn cả hồ tắm Chi Lăng, nếu ai còn nhớ.
Đầu đường Lê Quang Định đối diện với chợ Bà Chiểu, ở góc đường trường Nam Tỉnh lỵ, có lúc tên là trường Trương Tấn Bửu, những ngày đầu mới khai sinh trường nũ' sinh Lê Văn Duyệt tá túc ở trường này và trường Hồ Ngọc Cẩn trước khi chuyển đến vị trí hôm nay-trên đường Đinh tiên Hoàng (trước 1975 là Lê văn Duyệt) với cái tên xa lạ Võ Thị Sáu.
Xe lửa chạy dọc Lê Quang Định ra Bà Chiểu rồi ngừng cho khách lên xuống, tấp nập. Kẻ đi Đất hộ (Dakao), Saigon, người xuống chợ Bà Chiểu, đi thăm Lăng Ông, đi xin xâm vì tin rằng Đức Tả Quân Lê Văn Duyệt hiển linh.
Cuối Lê Quang Định, đối diện chợ Bà Chiểu quẹo trái đi vào đường Hàng Xanh (sau là Bạch Đằng) để đi Thị Nghè hoặc Cầu Sơn Bình Qưới. Nếu đi thẳng là đường Bùi Hửu Nghỉa (xưa là đường Nhà Thờ (Rue de L’Eglise)
Rời ga Bà Chiểu xe lửa chạy dọc hông chợ theo đường Bùi Hửu Nghỉa (l’Eglise), qua khu nhà thờ Bà Chiểu qua cầu Sắt tới Đất hộ (Đa kao) thuộc quận nhất.
Cuối đường Lê Quang Định quẹo phải đi đến Toà Bố (Uỷ ban ND Quận Bình Thạnh bây giờ) , đối diện với tòa bố là cửa sau Lăng Tả Quân Lê văn Duyệt, kế đó là chợ Bà Chiểu. Đường Chi Lăng (bây giờ là Phan đăng Lưu) đi ngang trường vẽ (Mỹ Nghệ Thực Hành) đi về hướng Phú Nhuận ngày xưa gọi là đường hàng Keo vì đường này có trồng hàng cây keo và cũng nổi tiếng vì bót công an Hàng keo và trường trung học tư thục Đạt Đức.
Đường Bạch Đằng có tên là Hàng Xanh đi ra hướng Thị Nghè, Cầu Sơn. khúc Cầu Sơn, Bình Qưới xưa là đồng ruộng it ngừo'i ở chỉ có hãng sắt kỹ nghệ của ông Vỏ Hồng Nho (một thời bầu gánh cải lương Trăng Mùa Thu với cô đào chánh Bích Sơn, em cô Bích Thuận) thông ra đến sông Sài gòn. Bây giờ mùa mưa, vùng Thanh Đa, Cầu Sơn, Bình quới thường bị ngập là chuyện khó tránh, vì nước không có chỗ thoát.
Trên đường Bạch Đằng có rạp chiếu bóng Cao Đồng Hưng, rạp này sinh sau đẻ muộn so với rạp Huỳnh Long trên đường Châu Văn Tiếp (nay Vũ Tùng), gần cửa chính của Lăng Ông. Rạp Cao Đồng Hưng trang bị toàn ghế bằng sắt có lỗ nhỏ, phía sau gần cửa vào thì có cả vài hàng ghế cây, học trò Hồ ngọc Cẩn rất “thân quen” với rạp này.
Đi xa hơn cổng lăng về hướng chợ Bà Chiểu thì sẽ thấy rạp Huỳnh Long. Đây là một rạp hát bình dân, hay chiếu phim Việt Nam và Ấn Độ. Rạp này lúc chiếu phim Tề Thiên Đại Thánh họ cho đốt nhang ở một góc trước màn chiếu có lẽ vì trong phim có xuất hiện phật bà Quan Âm và Đường Tam Tạng.
Phía Lăng Ông hướng về Đakao, trước khi đến Cầu Bông có một khu vực có cái tên rầt huyền hoặc “Khăn đen Suối Đờn”
Đây là khu xóm ngày xưa đối diện với trường Lê văn Duyệt. Khu xóm này kéo dài đến gần Cầu Bông, chiều ngang từ ranh giới đường Lê Văn Duyệt (Đinh Tiên Hoàng) đến đường Bùi Hửu Nghỉa. Cả khu này và khu trường Lê Văn Duyệt nằm trong khu đất ruộng nên có nhiều cầu ván để đi, chính trường Lê Văn Duyệt cũng nằm trên khu dất bồi để giảm thiểu chuyện ngập nước thường xảy ra trong mùa mưa và do thuỷ triều của rạch Thị Nghè- mà người địa phương vẫn gọi là sông Cầu Bông. Người xưa cho biết nơi đây là nơi buôn bán loại khăn đen làm ở Suối Đờn, tên một khu du lịch nổi tiếng thời trước 1945 ở Thủ Dầu Một (Bình Dương). Loại Khăn Đen Suới Đờn này được dân Nam ưa chuộng, họ đến đại lý ở đây mua hàng, lâu dần truyền khẩu thành khu Khăn Đen Suối Đờn, chớ không có điển tích gì đặc biệt cả.
Trường Lê Văn Duyệt lúc mới xây xong giống nằm trên một hòn đảo vì hầu như xung quanh trường là ruộng nước. Một hai năm đầu trường chưa cất phải tá túc với trường Nam Tỉnh lỵ (rồi Trương Tấn Bửu) và Hồ Ngọc Cẩn.
Tên Cầu Bông bắc ngang rạch Thị Nghè, nhưng đối với dân xưa ai cũng gọi là sông Cầu Bông không biết do đâu mà có, nhưng có thể ngày xa xưa người ta tụ tập ở bến sông buôn bán bông? Ai là người Saìgòn xưa có lẽ còn nhớ bài này, nhại theo bài Trăng Rụng Xuống Cầu, một thời nổi tiếng với đôi danh ca cũng là cặp vợ chồng ngoài đời Ngọc Cẩm-Nguyễn Hũ'u Thiết:
“Ai đang đi trên cầu Bông,
Té xuống sông ướt cái quần ni lông
Vô đây em dù trời khuya anh vẫn đưa em về“ (hay là: "Vô đây em chò' quần khô kêu xích lô em về.")
Cho tới bây gìờ không ai biết xuất xứ của nó và vì sao, chỉ có điều nặng mùi Nam rặt, bình dân giáo dục nhưng hậu ý tốt.
Qua khỏi cầu Bông là vào quận Nhất, khu Đakao.
Đa Kao còn gọi là Đất Hộ, thuộc quận nhất Sàigòn, Đakao có rất nhiều trường tư thục nổi tiếng như Huỳnh Khuơng Ninh (Đường Huỳnh Khương Ninh) giờ vẩn còn, Huỳnh thị Ngà (đường Trần Nhật Duật), Les Lauriers sau đổi tên Tân Thịnh (đường Đinh Công Tráng), Văn Hiến, Việt Nam Học Đường (đường Đặng Tất), trên đường Phạm Đăng Hưng bây giờ là Mai Thị Lựu ngày xưa có trường chuyên dạy Anh Ngữ Trần Gia Độ, có lẽ mở cùng thời với trường dạy Anh Văn Ziên Hồng của hai anh em Lê Bá Kông, Lê Bá Khanh ở đường Kỳ Đồng.
Xuống dốc cầu Bông trước khi đến Trần quang Khải có tiệm thịt quay, heo, gà vịt vẫn còn mở đến ngày nay, nhìn xuống sông khoảng thập niên 50s có trại cưa Trần Pháp. Quẹo phải vào đường Trần Quang Khải, phía bên trái có đình thờ với hình ông cọp trên tường và cây da bên trong sân, đối diện xéo một chút là bót TQK và đường hẻm đi vô xóm Vạn Chài, phía ngoài đầu hẻm có trường tư thục Văn Hiến (hiệu trưỏ'ng là Phan Ngô). Kế đó là rạp Văn Hoa và tiệm cà phê Văn Hoa rất thanh lịch kế bên. Rạp Văn Hoa sang trọng, có máy lạnh và hệ thống âm thanh tối tân, màn ảnh lớn nhưng gía rẻ hơn Eden hay Rex.
TQK quẹo vào Nguyễn huy Tự là chợ Đakao, gần chợ có con đường nhỏ Trương Hán Siêu nơi đây có đền thờ của cụ Phan Chu Trinh, đi thẳng PCT băng qua Đinh Tiên Hoàng thì gặp bánh cuốn Tây Hồ, thực sự không có gì đặc biệt nhưng giá bình dân, nơi đây có bán dầu cà cuống. Nối dài Nguyễn Huy Tự là Phạm Đăng Hưng bây giờ là Mạc thị Lựu, trên đường này có một chùa cổ, chùa Đakao hay là chùa Ngọc Hoàng .Nguyển Huy Tự quẹo trái sẻ vào đường Bùi Hũu Nghĩa qua cầu Sắt về Bà Chiểu. Quẹo phải sẽ gặp đường Nguyễn văn Giai băng qua Đinh Tiên Hoàng, gần cuối Nguyễn văn Giai là trường Huỳnh Khương Ninh cuối Nguyễn Văn Giai là Phan Liêm, chạy dọc theo nghĩa địa Mạc Đĩnh Chi (bây gìờ là công viên Lê Văn Tám) Đoạn Đ T Hoàng giới hạn bởi Phan Đình Phùng (Nguyễn Đình Chiểu) và Phan Thanh Giản (Điện Biên Phủ) có nhà hàng Pháp rất nổi tiếng như Chez Albert, La Cigale và hai quán café nổi tiếng Hân và Duyên Anh.
Trước 75, nếu ai có đến vùng này nhất là đám sinh viên, học sinh lớn ngày xưa chắc đã đến thăm thường Thạch chè Hiển Khánh, tiệm này nằm sát Casino Đakao, chuyên bán thạch sợi nhỏ trắng với đá bào, chè đậu xanh nấu đặc, chè thạch đựng trong chén nhỏ, nên đôi khi phải gọi chè thạch mới đã, bánh xu xê, bánh gai. Mùa nóng đi đâu về ghé đây là tuyệt, chủ người Nam trung niên lịch sự với khách (đã lâu rồi không nhớ tên được.) Sau 75, có tiệm chè thạch Hiển Khánh ra mắt bà con -goị là Thạch chè nhưng nơi đây bán đủ bánh chè và cũng không phải là chủ xưa.
Qua khỏi Casino Đakao về phía đường Hiền Vương (bây giờ Võ thị Sáu) rồi quẹo phải vào Nguyễn phi Khanh, nơi đây có một quán cơm tấm bì chả nổi tiếng, sau có tiệm bán bún thang Như Ý, đặc biệt có dầu cà cuống. Chỉ cần nhỏ môt hai giọt tinh dầu cũng đủ hương vị. Mùi cà cuống khá mạnh nên không được thông dụng. Cà cuống là một trong những nhóm côn trùng có kích thước lớn nhất hiện nay, có cơ thể dẹt, hình lá, màu vàng xỉn hoặc nâu đất, dài trung bình từ 7-8 cm, có con lên đến 10-12 cm.
Khi còn non cà cuống giống như con gián, mình dài khoảng 7-8cm, rộng 3cm, màu nâu xám, có nhiều vạch đen, đầu nhỏ với hai mắt tròn và to, miệng là một ngòi nhọn hút thức ăn. Ngực dài bằng 1/3 thân, có 6 chân dài, khỏe. Bụng vàng nhạt có lông mịn, ở phía trên có một bộ cánh mỏng nửa mềm nửa cứng. Cà cuống có một bộ máy tiêu hóa dài khoảng 45cm, gồm có một ống đầu trên nhỏ là cuống họng, đầu dưới phình to chứa một thứ nước có mùi hôi. Sát ngay bầu chứa nước nầy là hai ngòi nhọn mà con cà cuống có thể thò ra thụt vào được. Ở dưới ngực, ngay gần phía lưng, có hai ống nhỏ gọi là bọng cà cuống. Mỗi bọng dài khoảng 2-3cm, rộng 2-3cm, màu trắng, trong chứa một chất thơm, đó là tinh dầu cà cuống. Nhưng chỉ có con đực mới có tuyến này phát triển.
Nếu ai muốn thử đến tiệm bánh cuốn Tây Hồ trên góc đường Đinh Tiên Hoàng-Huỳnh Khương Ninh. Bánh cuốn nơi đây được làm tại chỗ nên đông khách. Quán Tây Hồ có từ lâu, trước ở trong khuôn viên đền thờ cụ Tây Hồ Phan Chu Trinh, nên người ĐaKao gọi là Bánh cuốn Tây Hồ. Cũng đặt tên như vậy, tiệm mì nổi tiếng Cây Nhãn, lấy tên cây nhãn được trồng trong sân rộng dùng làm tiệm mì đối diện với khu trường tiểu học Đakao. Phía đầu đuờng Hiền Vương trước khi đến nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi (nay Công Viên Lê Văn Tám) Đa kao có đền đức thánh Trần. Những dịp Tết hay giỗ Ông, người ta đổ xô vào lễ, gây trở ngại lưu thông trên đường huyết mạch dẫn vào Ngã Sáu -Công Trường Dân Chủ- Theo các nhà khảo cổ, Công Trường Dân Chủ là vùng Mả Ngụy- Mồ chôn tập thể của những người theo Lê Văn Khôi 1833-1835 .
Đền đức Thánh Trần tên thật là Trần Quốc Tuấn là con trai của An Sinh vương Trần Liễu, cháu gọi vua Trần Thái Tông bằng chú, sinh năm 1231 tại Kiếp Bạc, xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, nguyên quán ở làng Tức Mặc,huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Vốn có tài quân sự mà cũng không màng ngôi vua mặc dù được thôi thúc bỏ'i thân sinh Trần Liễu. Ông giúp các vua Trần ba lần đánh tan quân Nguyên – Mông tấn công Đại Việt. Đặc biệt những lần chống Nguyên – Mông Cổ lần thứ 2 và thứ 3, ông được vua Trần Nhân Tông phong làm Tiết chế các đạo quân thủy bộ. Dưới tài lãnh đạo của ông, quân dân Đại Việt chiến thắng ở Chương Dương, Hàm Tử, Vạn Kiếp, Bạch Đằng, đuổi quân Nguyên – Mông ra khỏi đất nước.
Sau khi kháng chiến chống Nguyên – Mông lần thứ 3 thành công. Đất nước thanh bình Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn lui về sống ở Vạn Kiếp. Ông đã dựa vào địa thế vùng Vạn Kiếp mà Kiếp Bạc là trung tâm để lập thành phố, bản doanh làm phòng tuyến chiến lược giữ mặt Đông Bắc của Đại Việt. Ông là một anh hùng đởm lược, được nhân dân trong vùng tôn vinh, qúy mến. Muà thu tháng 8, ngày 20 năm Canh tý, Hưng Long thứ 8, tức ngày 5-9-1300 ông mất. Theo lời dặn, thi hài ông được hoả táng thu vào bình đồng và chôn trong vườn An Lạc, giữa cánh rừng An Sinh miền Đông Bắc, không xây lăng mộ. Sau khi ông mất triều đình phong tặng là Thái sư Thượng Phụ quốc công Tiết chế Nhân Võ Hưng Đạo Vương. Nhân dân vô cùng thương tiếc người anh hùng dân tộc đã có công lao to lớn trong cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên-Mông bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và độc lập dân tộc nên lập đền thờ Ông trên nền Vương phủ gọi là đền Kiếp Bạc. Dân ta kính trọng vinh danh Ông là Đức thánh Hưng Đạo Đại Vương lập đền thờ Đức Thánh Trần ở nhiều nơi.
Từ đền đức thánh Trần, quẹo trái vào đường Phan Tôn bên hông nghĩa địa Mạc Đĩnh Chi. Đường Mạc Đĩnh Chi ngày xưa có trạm xe đìện
Trên đường Mạc Đĩnh Chi còn có Hội Việt Mỹ dạy tiếng Anh từ lớp 1 đến lớp 12 để lấy Certificate of Effiency in English. Trụ sở Hội Việt Mỹ bây giờ là Mặt Trận Tổ Quốc thành phố HCM. Song song với đường Mạc Đĩnh Chi có đường Phùng Khắc Khoan có tư gia tòa Đại Sứ Mỹ. Đây là con đường đẹp với nhiều dinh thự, hai bên đường có hàng me to. Khu Dakao, trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm có Thảo Cầm Viên và hai trường trung học nối tiếng Võ Trường Toản (nam) và Trưng Vương (nữ).
Trên đường Đinh Công Tráng bây gìờ nổi tiếng môn bánh xèo, trước có trường tư thục Tân Thịnh (trước nửa là Les Lauriers), tiệm chụp hình nổi tiếng Văn Minh và Duy Hy (không còn nũ'a) Xe điện rời ga Đất Hộ (Đakao) chạy dọc theo đường Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu) rồi quẹo vào đường Mạc Đỉnh Chi (rue de Bangkok) ra đường Thống Nhất (Norodom thời Pháp, nay Lê Duẩn) rôí dọc theo Cường Để, Bến Bạch Đằng (nay Tôn Đức Thắng) rồi quẹo vào Hàm Nghi (de la Somme) về chợ Bến Thành.
Ngày xưa dường Phan Đình Phùng nằm cuối khu vực Nguyễn Bỉnh Khiêm (kho đạn cũ, sau lưng đài phát thanh Quân Đội) và kéo dài ra đến đường Lý Thái Tổ (nay Nguyển đình Chiểu) Sô 3 Phan Đình Phùng là đài phát thanh Sàigòn Đường Đinh Tiên Hoàng bắt đầu từ đường Hồng Thập Tự (bây gìờ là Nguyễn thị Minh Khai + Sô Viết Nghệ Tĩnh) về phiá Đakao có sân vận động Hoa Lư, về phía đường Thống Nhất (Lê Duẩn) có khu đại học trước là thành lính Pháp rôi thành của Lũ' Đoàn Phòng Vệ Phủ Tổng Thống.
Đường thẳng vào cửa chính là Cường Để (thời Pháp Boulevard Luro, sau 75 là Tôn Đức Thắng, phía trước là đường Norodom -Thống Nhất- sau Lê Duẩn, Kiến trúc bên trái sau 1963 xây dựng lại thành Đại Học Dược Khoa, bên trái là Văn khoa, phía sau hai kiến trúc này là Cao Đẳng Nông Lâm Súc có lúc đổi tên là Học Viện Quốc Gia Nông Nghiệp. Nơi đây người ta sẽ tìm thấy sinh họạt chính trị và văn nghệ sôi nổi của một thời sinh viên thập niên 60 và đầu thập niên 70, chúng ta sẻ thấy Khánh Ly, Hoàng oanh, Thanh Lan, Trịnh Công Sơn và các tay lãnh đạo tổng hội Sinh Viên Saigon.
Xe điện chạy dọc theo Cường Để qua xưởng Ba Son, xưởng đầu tiên ở Sài Gòn, do Nguyễn Ánh lập ra để đóng chiến thuyền. Xưởng Ba Son nằm trên ngã ba sông, nơi tiếp giáp giữa sông Sài Gòn và rạch Thị Nghè, có diện tích 26 hecta, có đường ven sông 2000m, trong đó có 6 cầu cảng tổng cộng 750m. Ngày xưa nơi đây vùng sình lầy nước đọng nên thường được dùng làm nơi đậu tàu và sửa chữa tàu. Sau khi chiếm được Sài Gòn – Gia Định, năm 1861 Pháp cho làm ụ tàu trên thủy xưởng đã có, tức là mảnh đất Ba Son bây giờ. Ngày 28/4/1863, Pháp chính thức thông qua dự án xây dựng thủy xưởng Ba Son tại Sài Gòn trực thuộc Bộ Hải quân Pháp. Năm 1884, Pháp cho đào và xây ụ lớn bằng đá, chi phí gần 8 vạn quan. Nhiều công nhân người Việt, trong đó có thợ máy Tôn Đức Thắng đã làm việc ở đây.
Xe điện sau khi rời đường Cường Để (Luro thời Pháp, nay Tôn Đức Thắng) đi dọc theo Bến Bạch Đằng, thời Pháp Le Myre de Vilers, nay Tôn Đức Thắng), Công trường Mê Linh, công trường này thời Pháp khoảng 1910 có tượng của Đô đốc Rigault de Genouilly và Doudard de L’Agree). Thời VNCH có tượng Hai Bà Trưng. Đây là địa điểm hẹn hò, hóng gió mát từ sông Sàigòn của dân trẻ.
Nếu xuống xe điện trạm Mạc Đĩnh Chi bước ra đường Norodom phía rạch Thị Nghè -Thảo Cầm Viên thì gặp Bào Tàng Viện thời Pháp Thuộc nằm trên đường Norodom gần phía đại học Dược khoa trước 75. Con đường lịch sử, tráng lệ và quan trọng nhất miền Nam: Thống Nhất, thời Pháp thuộc gọi là Norodom (nay Lê Duẩn) Ở hai đầu đường này là Dinh Toàn Quyền và Sở Thú-Thảo Cầm Viên
Sau lưng dinh Đôc Lập nay là Hội trường Thống Nhất là công viên Tao Đàn, người xưa gọi là vườn ông Thượng hay là vuờn Bồ-Rô. Ngày xưa cả dinh và vưò'n nằm trong khuôn viên dinh Toàn Quyền. Năm 1869, người Pháp cho xây con đường Miss Clavell (đường Huyền Trân Công Chúa) tách khu vườn khỏi Dinh. Ba mặt còn lại là rue Chasseloup-Laubat (trước 75 là Hồng Thập Tự) về phía bắc, rue Verdun (Trần Cao Vân) về phía tây, và rue Taberd ( Nguyển Du) về phía nam. Người Pháp gọi khu vườn là “Jardin de la Ville” hay Jardin Maurice Long (Toàn quyền Pháp)
Trong khuôn viên vườn có khu Câu lạc bộ Thể thao (Cercle Sportif Saigonais) năm 1902 gồm sân đá banh (túc cầu hay bóng đá), hồ bơi, và sân quần vợt. Sân đá banh đó lúc bấy giờ là sân duy nhất đủ tiêu chuẩn đón những đội banh ngoại quốc đến, người viết đã có dịp xem trận đá đèn giũ'a đội AJS Saigon và đội banh người Áo (Austria), lâu quá không còn nhớ đến kết quả nhưng kỷ niệm này vẫn hằn sâu trong tâm tưởng. Tiện đây cũng nên biết trường trung học đầu tiên được pháp xây dựng gọi là Chasseloup-Laubat nằm trên đường Chasseloup Laubat (trước 75 Hồng Thập Tự, sau 75 Nguyễn thị Minh Khai) sau đổi thành Jean Jacques Rousseau rời Lê Quý Đôn tới ngày nay.
Tưởng cũng nên nhắc lại trên đường Phan Đình Phùng (nay Điện Biên Phủ) có trường nữ trung học đầu tiên ở Sàigòn-trường Gia long được xây cất 1913, xưa gọi là trường áo tím, vì nũ' sinh mặc áo dài máu tím đi học. Trường thay đổi nhiều tên chính thức nhưng người Việt luôn gọi là trường Gia Long. Đi về phía Đông Nam (phiá đường Lê Lợi) la 2 hai toà nhà lịch sử quan trọng. Pháp Đình Saigòn- còn gọi là toà Thượng thẩm Sàig̀on nằm trên đường Công Lý (nay Nam Kỳ Khởi Nghĩa) Góc đường Công Lý và Gia long có dinh Gia long, nơi đây là chỗ ở dành cho thượng khách viếng thăm VNCH, trước đó là dinh thự của Thủ Hiến Cochinchina Sở Thú nằm trên đường Nguyên Bỉnh Khiêm, cuối đường Thống Nhất (Lê Duẩn) về phía Đông, đối diện với dinh Toàn Quyền Trên đường -Thống Nhất- Lê Duẩn về phía dinh Độc Lập (nay Hội trường Thống nhất) có nhà thờ Đức Bà được bắt đầu xây dựng năm 1877 và được khánh thành 1880, nhưng mãi đến năm 1895 mới xây thêm hai tháp chuông. Phía trước nhà thờ Đức Bà người Pháp cho xây tượng đồng Giám Mục Pigneau de Béhaine (Adran) và hoàng tử Cảnh.
Nhà Thờ Đức Bà thập niên 1940- Garage Jean Comte nằm trên đường Norodom sau đối thành Saigon Xe hơi công ty. Ngày nay là tòa nhà thương mãi Diamond Plaza Bên hông nhà thờ là Bưu Điện Saigòn thời Pháp. Phiá sau nhà thờ Đức bà có bùng binh và tượng Gambetta Tượng Gambetta trên đường Norodom, mặt quay về phía sau lưng của nhà thờ Đức bà, phía sau lưng của Gambetta là đường Duy Tân (nay Phạm Ngọc Thạch). Con Đường “Trả lại em yêu” Duy Tân cây dài bóng mát của một thời sinh viên thơ mộng, mơ mộng. Nơi đây có hồ Con Rùa, có Viện Đại Học Saìgon, đại học Luật khoa, nơi Tô Lai Chánh đã từng làm chủ tịch sinh viên Liên khoa trong biến cố đau buồn của lịch sử Việt Nam 1963.
Sau khi ghé thăm con đường lịch sử Norodom-Thống Nhất, chúng ta trở lại trạm xe điện trên đường Mạc Đĩnh Chi để ra chợ Bến Thành, Xe điện chạy dọc theo Cường Để, dọc theo bến Bạch Đằng (nay T ĐT) quẹo phải vào đường Hàm Nghi (De La Somme), chạy ngang trước chợ Bến Thành rồi về ga Saìgòn.Từ ga Saigon còn gọi là ga xe lưả Mỹ đi Mỹ Tho) có tuyến đường đi Chợ Lớn –Bình Tây, đi Mỹ Tho
Xuống ga Sàigòn đi về đường Lê Lợi, con đường tình sử, con đường xưa em (anh) đi, con đường của những buớc chân chiều chủ nhật và thành ngữ bát phố. Chiếu cuối tuần nào cũng thế là chiều của riêng minh, của học sinh sinh viên, của em hậu phương anh tiền tuyền, của những tà áo như cánh bướm muôn màu, của những bộ đồng phục chải chuốt, của mọi người không phân biệt giai cấp của quán kem Mai Hưong, Bạch Đằng, Pole Nord, của nước miá Viễn Đông hay chỉ một vòng ngắm cảnh. Trưóc 75, cơ sở nghĩ từ trưa thứ bảy, chiều nào thiên hạ cũng đổ xô ra đường, mỗi người tìm vui trong cái ồn ào náo nhiệt cho riêng mình. Thú vui tùy túi tiền, ngay cả hoà mình vào dòng người bát phố chỉ cần một cây kem hay môt ly nước mia, kẻ vào nhà hàng Thanh Thế, Kim sơn, Thanh Bạc , kẻ giàu sang có máu mặt vào Continental, Caravelle, kẻ ngắm nhìn mẫu hàng mới trong Passage Eden để ước mơ, để ước gì mua được tặng nàng.
Cũng có những người tìm vui trong sách vở với nhà sách Khai Trí, Vĩnh Bảo trên đường Lê Lợi, hay nhà sách Xuân Thu đường Tự Do. Nhà sách này chuyên bán những loại sách đặc biệt, sách ngọại quốc, nhà sách có gắn máy lạnh, giá cao, khách lai vãng thường là người ngoại quốc hoặc dân sang, thời Pháp thuộc nơi đây là tiệm thuốc Tây Pharmacie Normal. Sinh Viên học sinh có chút vốn Anh ngũ' thì vào thư viện Abraham Lincoln ở góc đường Nguyển Huệ và Lê Lợi vừa thoải đọc sách vì thư viện có gắn máy lạnh. Vào thời pháp chổ này là hãng vừa bán và sửa xe hiệu Citroen Bannier (1930)

                                                        YA-Sưu-tầm Internet


Thứ Sáu, 10 tháng 5, 2013


Thời đại vi tính

Trước năm 1975, nêu chúng ta nói những tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện nay có thật thì chưa chắc có người tin chúng ta. Nhưng điều đó thực tế đã xảy ra, ở đây tôi chỉ đề cập đến một lĩnh vực đã thay đổi cuộc sống con người triệt để nhất đó là máy vi tính. Lĩnh vực này đã xuất hiện từ lâu nhất là trong cuộc đại chiến lần thứ hai khi những máy điện toán khổng lồ được bộ quốc phòng Mỹ dùng vào việc thống kê quân số, quân trang quân dụng. Dần dần về sau điện toán được ứng dụng vào các lĩnh vực khác trong các ngành của chính quyền. Điện toán đến Việt Nam trong thời kỳ quân Mỹ vào và được ứng dụng trong các cơ quan trọng yếu của chính quyền VNCH. Thời đó chỉ có những người đào tạo để làm công việc này mới có khả năng điều khiển chứ không phổ thông như hiện nay. Để đưa dữ liệu vào máy điện toán, người ta phải dùng những thẻ (phiếu) đưa vào máy đánh đục lỗ, rồi để in dữ liệu ra giấy người ta đem xấp dữ liệu đí đưa vào máy, máy bắt đầu đọc dữ liệu và in ra giấy. Giấy ở đây là giấy khổ lớn cuốn thành cuộn lớn cách mỗi đoạn có đục lỗ để tách ra khi cần. Máy điện toán thời đó có kích thước lớn để trong các phòng máy lạnh vì vậy nó không thể phổ biến ra cho mọi người được.

                                           Những hình ảnh trung tâm điện toán VNCH




Sau năm 1975, nhờ vào tiến bộ khoa học kỹ thuật nhất là sự phát triển vi mạch, công nghệ nano, điện toán đã thoát ra khỏi các cơ quan chính quyền, các công ty và đã được ứng dụng rộng rãi và nó mang một tên mới là máy vi tính. Cũng tại Việt Nam sau năm 1975 lĩnh vực vi tính cũng được nghiên cứu với chiếc vi tính VT 80 được bộ công nghệ thông tin thiết kế. Tôi cũng tham gia lĩnh vực này vào những thập niên 90, từ bước làm quen với hệ điều hành Dos, Norton, Windows 3.X,...Ngày nay không thể phủ nhận vai trò to lớn của vi tính trong đời sống con người. Tất cả các lĩnh vực ngành nghề, hoạt động xã hội, chính quyền, nghệ thuật, truyền thông,...đều phải cấn đến nó. Chúng ta nhớ trước năm 1975, nếu muốn đánh máy văn bản chúng ta phải dùng máy đánh chữ. Đánh sai thì phải làm lại từ đầu, giờ thì cứ việc đánh, sai thì sửa; muốn in bao nhiêu bản cũng được. Nhà in thì các thợ xếp chữ cũng giải tán. Tiệm chụp hình có ảnh muốn sửa hồi xưa phải dùng bút chì sửa trên âm bản, còn giờ thì chỉ cần phần mềm Photoshop là giải quyết được tất. Đối với các bạn học sinh sinh viên và cả chúng ta có thắc mắc gì thì cứ vào Google thì rõ cả.
Song song sự tích cực của vi tính mang lại cho chúng ta thì nó để lại cũng lắm nhiều tiêu cực. Thứ nhất là mang lại sự lười biếng trong tư duy. Bài vỡ có sẳn trên mạng cứ việc copy và paste vào của mình. Cho nên hiện nay các học sinh sinh viên đa số viết văn rất dở. Văn bản chính quyền như báo cáo chẳng hạn thì cứ việc lấy cái cũ, sửa lại số liệu, ngày tháng là a lê có văn bản mới. Sinh viên học mỹ thuật thì cứ việc tải hình ảnh trên mạng rồi phóng to lên theo đó mà vẽ lại, đó là thứ hai nó thủ tiêu tính sáng tạo. Thứ ba nó mang đến những chứng bệnh thời đại như đau cột sống, cận thị,tâm thần và mới đây người ta thêm vào hội chứng nghiện Facebook,v.v... Thứ năm là nó làm cho ngôn ngữ viết bị méo dạng nhiều nhất trong việc chat với người khác cần phải tiết kiện thời gian đánh chữ cho nên mới có như: Wí , Wá thay vì quý, quá,…For you thành 4u,…
Nếu thời kỳ vi tính  hiện đại lùi lại thời chúng ta còn là học sinh, có lẽ nó cũng giúp ích thật nhiều hơn cho việc học hành. Nếu như vậy thì tờ báo của tôi tờ Vững tiến sẽ không mắc công phải đánh, vẽ stencil vừa tốn công, không đẹp mắt mà là tờ báo có màu sắc và design đẹp đẽ.
Nói là nói cho vui vậy thôi, chứ xu thế tiến bộ của khoa học kỹ thuật phải ngày càng tiến bộ nhưng không phải vì sự tiến bộ đó mà chúng ta phó mặc cho khoa học kỹ thuật đâm ra chay lười. Nó là bàn đạp để chúng ta càng ngày càng thêm tri thức, càng xích lại gần nhau. Phải không các bạn, nếu không có những tiến bộ đó thì làm sao bài này đến được với các bạn, làm sao các bạn biết được những tin tức về ngôi trường của chúng ta qua trang blog của tôi, làm sao tôi có thể email cho các bạn, làm sao tôi có thể chat...Nó là cầu nối giữa chúng ta, những cựu học sinh giờ còn trên quê hương và những cựu học sinh đang ở nước ngoài. Hãy sử dụng những tiến bộ đó một cách tích cực và đầy tính nhân văn nhất.

Thứ Tư, 1 tháng 5, 2013


Những đam mê thuở học trò
Thú đọc truyện tranh


Chúng ta, ai cũng đã từng đọc qua truyện tranh của Pháp và Bỉ ở thời học trò. Cái thời mà tiếng Pháp còn giữ vị trí quan trọng, cái thời của học trò chúng ta còn tiếp xúc nhiều đến văn hóa của Pháp. Bất cứ cậu học trò nào cũng lận trong cặp những truyện tranh Lucky Luke, Obelix et Asterix hay cuốn Spirou, Pilote,v.v...Tôi cũng như các bạn học cùng thời có cái đam mê đó. Tôi nhớ hồi còn học primaire, những bạn học người Pháp mang tới cho tôi nhưng truyện tranh đầu tiên, làm tôi mê mẫn. Từ đó về sau, tôi có cái miệng dụ khị rất hay, chúng đem đến cho tôi truyện tranh rất nhiều, nhiều đến nối tôi phải chứa mấy thùng mới hết. Cái thế giới của truyện tranh mang đến cho tôi nhiều ước mơ, nhiều hiểu biết và điều đặc biệt là tryện tranh của Pháp và Bỉ  mang đến tính nhân văn rất cao. Ở đó ta thấy tình người, tính cao thượng, sự hy sinh, tuyệt nhiên không có hình bóng bạo lực xen vào.
Đa số những người đọc truyện tranh ở Việt Nam thời đó chỉ biết là của Pháp nhưng thật ra đa số truyện tranh đó xuất xứ của Bỉ. Bỉ mới chính là quê hương của truyện tranh. Như cuốn Spirou là cuốn sách truyện tranh của Bỉ trong đó có các truyện như Frantasio et Spirou, Johan et Pirlouie, Stroumps, Buck Danny, Lucky Luke,v.v...và  cuốn Tintin với nhân vật chính là Tintin anh chàng phóng viên và con chó Milou, Pháp chỉ có cuốn Pilote với truyện chính là Obelix et Asterix,v.v...
Truyện tranh dẫn chúng ta tới những thế giới mới, chúng ta từng hồi hộp theo dõi bước đi của anh chàng Tintin, tính hài hước của anh em nhà Dupont – Dupond, sự nóng tính của thuyền trưởng Haddock, sự thông thái của bác học tournesol, tiếng ca opera nhức óc của bà Castafiore. Cũng như chàng cao bồi Luky Luke với con chó Rantanplan ngốc nghếch đụng độ 4 anh em nhà Dalton hay hồi hộp theo dõi từng chuyến bay của chàng phi công Buck Danny. Nếu muốn thưởng thức không khí thời cổ đại thì chúng ta có Obelix et Asterix, Timuor, thời trung cổ có Johan et Pirlouie. Sau này một số truyện tranh được đưa vào điện ảnh như Tintin với phim Le mystere de la toison d’or, les oranges blues,...và series hoạt họa về chuyến phiêu lưu của Tintin, series hoạt họa về chuyến phiêu lưu Lucky Luke, series hoạt họa về chuyến phiêu lưu Obelix et Asterix, v.v...
Truyện tranh là một đề tài mà tôi chọn làm tiểu luận khi học đại học. Đề tài này được chọn để phê phán những loại truyện tranh mang tính bạo lực của Nhật, Hồng Công, trung Quốc đang tràn lan ở Việt Nam. Ở Việt Nam trong những năm 90 có nhà xuất bản Trẻ đã mua bản quyền và cho in lại những truyện Tintin, Lucky Luke,v.v...nhưng cũng không cạnh tranh nổi với loại truyện tranh bạo lực kia. Ngày xưa hai nơi bán truyện tranh nhiều nhất là nhà sách Xuân Thu đường Tự Do, nhà sách Khai Trí đường Lê Lợi và hiệu sách ờ quảng trường nhà thờ Đức Bà. Giá một cuốn thời đó là 75 đồng, đây là giá do Pháp bù lổ để quảng bá văn hóa Pháp. Về sau những năm 70 đề đáp ứng cho người đọc truyện tranh của Pháp đã được dịch qua tiếng Việt và bày bán đầy rẫy các sạp báo và nhà sách, nhiều nhất là tiệm sách ở Nam Quang Chợ Đũi.
Sau đây tôi giới thiệu đến các bạn một họa sĩ đã vẽ ra nhân vật Luky Luke nổi tiếng là Morris. Để có nhân vật Luky Luke, ông phải sang Mỹ sống trên 15 năm, tìm hiểu toàn bộ lịch sử, phong tục, văn hóa miền Tây nước Mỹ.
Morris (1923 - 2001) là một họa sĩ sáng tác truyện tranh người Bỉ. Với tập truyện Lucky Luke nổi tiếng, ông được xem là một trong những tác giả truyện tranh lớn nhất thế giới.


Morris tên thật là Maurice de Bevere, sinh ngày 1 tháng 12 năm 1923 tại Kortrijk, Bỉ. Từ năm 17 tới 19 tuổi, Maurice theo học khóa vẽ qua thư từ do Jean Image hướng dẫn. Năm 20 tuổi, ông bắt đầu làm việc tại xưởng hoạt hình Compagnie Belge d’Actualités (CBA) của Bỉ. Tại đây, Maurice quen biết với Peyo, André Franquin, Eddy Paape, những tác giả kịch bản truyện tranh. Từ năm 1945, Maurice trở thanh họa sĩ chính chuyên vẽ trang bìa và minh họa cho báo Le Moustique, tờ báo hài hước nổi tiếng của Bỉ khi đó.
Giáng sinh năm 1946, nhân vật Lucky Luke lần đầu tiên được Maurice cho xuất hiện trong sách lịch Spirou 194 với Câu truyện Arizona 1880. Và cũng bắt đầu từ nhân vật này ông dùng nghệ danh Morris. Từ năm 1948, Morris chuyển sang sống tại Mỹ và vẽ truyện hài cho một số tạp chí ở đây. Tuy vậy, vẫn tiếp tục với nhân vật chàng cao bồi Lucky Luke, ông gửi các bản thảo của mình cho ban biên tập của Spirou. Năm 1949, nhà xuất bản Dupuis của Bỉ cho xuất bản tập truyện tranh Lucky Luke đầu tiên Mỏ vàng của Dig Digger. Và cũng trong thời gian ở Mỹ, Morris làm quen với René Goscinny, người sẽ là tác giả kịch bản của rất nhiều tập truyện Lucky Luke sau này.
Năm 1955, Morris trở về Bỉ tiếp tục sáng tác truyện tranh. Lucky Luke được nhà xuất bản Dupuis phát hành trong 19 năm rồi sau đó, năm 1968 được nhà xuất bản Dargaud của Pháp tiếp tục. Các tập truyện Lucky Luke dành được thành công liên tiếp. Sau khi René Goscinny mất vào năm 1977, Morris còn hợp tác cùng một số tác giả kịch bản khác.
Từ năm 1987, song song với Lucky Luke, Morris cùng sáng tác các tập truyện tranh về Rantanplan - chú chó ngốc nghếch trong Lucky Luke.
Ông mất ngày 16 tháng 7 năm 2001 tại Bruxelles.


Lucky Luke là chàng cao bồi, nhân vật chính trong bộ truyện tranh cùng tên do họa sĩ người Bỉ Morris sáng tác từ năm 1946. Những truyện Lucky Luke đầu tiên được in trên báo Spirou tiếp đó Pilote, trước khi được phát hành dưới dạng tập truyện tranh. Tập truyện tranh này thành công rực rỡ trong khoảng 1957 đến 1977 với sự tham gia viết kịch bản của René Goscinny.
Tuy rất nổi tiếng tại châu Âu, tập truyện tranh này ít được in tại các nước sử dụng tiếng Anh. Lucky Luke đã được dịch ra tiếng Việt và được nhà xuất bản Trẻ phát hành.
Vào Giáng sinh năm 1946, tác giả Morris, khi đó là họa sĩ minh họa cho tờ báo hài hước Le Moustique, lần đầu tiên cho xuất hiện nhân vật Lucky Luke trong tạp chí truyện tranh Spirou với Câu truyện Arizona 1880. Từ năm 1948, tuy chuyển sang Mỹ sinh sống, nhưng Morris vẫn tiếp tục với nhân vật Lucky Luke và gửi các bản thảo của mình cho ban biên tập của Spirou. Cũng chính trong thời gian ở Mỹ, Morris đã gặp gỡ và làm quen với René Goscinny, tác giả kịch bản chính của nhiều tập truyện Lucky Luke sau này.
Năm 1949, nhà xuất bản Dupuis của Bỉ cho xuất bản tập truyện tranh Lucky Luke đầu tiên Mỏ vàng của Dig Digger. Trong những năm sau đó, Morris lần lượt cho xuất bản 8 tập tiếp theo mà ông vừa là họa sĩ, vừa là tác giả kịch bản. Năm 1957, từ tập truyện thứ 9, Morris hợp tác cùng với René Goscinny - trừ tập 10 ông vẫn là tác giả độc nhất.
Từ năm 1968 tới 1987, các tập Lucky Luke được nhà xuất bản Dargaud của Pháp tiếp tục phát hành. Sau khi René Goscinny mất, Morris hợp tác với nhiều tác giả kịch bản khác như Xavier Fauche, Bob de Groot, Jean Léturgie, Hartog van Banda, Vicq, Guy Vidal… Từ tập 60 vào năm 1991 cho tới tập 67 vào năm 1998, Lucky Luke được xuất bản bởi Lucky Productions. Sau đó, từ tập 68 vào năm 2000 được tiếp tục với nhà xuất bản Lucky Comics.
Sau khi Morris mất vào năm 2001, nhà xuất bản Lucky Comics phát hành serie Những cuộc phiêu lưu của Lucky Luke (Les aventures de Lucky Luke) với nét vẽ của họa sĩ Achdé.
Bổi cảnh chính của Lucky Luke là miền Tây nước Mỹ cuối thế kỷ 18. Cũng có khi xuất hiện những cảnh ở bờ Đông và cả bên ngoài nước Mỹ như Canada và Mexico. Giống như các bộ phim cao bồi, hình ảnh thường thấy trong Lucky Luke là những đồng cỏ, các thị trấn, quán rượu, các chuyến xe lửa… và nhà tù, nơi trú ngụ thường xuyên của anh em nhà Dalton.
Trong Lucky Luke, các thị trấn thường được giới thiệu bằng một bảng gỗ với những câu đe dọa hài hước. Trong thị trấn luôn có quán rượu, nhà băng, đồn cảnh sát… Những quán rượu, với các vũ nữ mập mạp nhảy múa trên sân khấu, cây đàn piano, các bàn cờ bạc… là nơi thường xuyên xảy ra ẩu đả và kết thúc với một kẻ bay ra ngoài rơi vào máng nước của ngựa. Còn trong nhà tù, các tù nhân luôn làm cộng việc đập đá. Các chuyến xe lửa thì thường không tới đúng giờ vì bị cướp chặn.
Nhiều cốt truyện của Lucky Luke được dựa theo các sự kiện có thật trong lịch sử miền Tây nước Mỹ. Tập Dây kẽm gai trên đồng cỏ nói tới cuộc tranh chấp của các chủ trại. Cuộc đổ xô tới Oklahoma nói tới sự kiện ngày 22 tháng 4 năm 1889 khi hơn 100 000 boomer tham gia vào cuộc đổ xô tới Oklahoma để giành đất. Trang trại O.K Corral nói về cuộc đấu súng huyền thoại của miền Tây tại O.K. Corral. Đoàn ngựa con tốc hành nói về công ty Pony Express với việc cố gắng rút ngắn thời gian vận truyện thư từ giữa miền Tây và miền Đông. Sợi dây biết hát nói về việc xây dựng điện báo tại Hoa Kỳ…
Tuy nói về miền Tây, nhưng Lucky Luke rất ít bạo lực. Các sự kiện được thể hiện một cách hài hước theo kiểu truyện tranh. Ví dụ như kết thúc vụ đấu súng O.K Corral mà không có ai chết hay bị thương. Tên cướp Billy the Kid cũng chỉ bị Lucky Luke phạt đánh vào mông và tiếp tục xuất hiện trong những tập khác. Trong toàn bộ các tập truyện, Lucky Luke chỉ một lần duy nhất bắt hạ Mad Jim trong tập đầu tiên Mỏ vàng của Dick Digger và một lần khác bắn bị thương Nhện chân dài Phil de Fer - cả hai tập đều do Morris tự viết kịch bản.
Các cuộc chiến với người da đỏ cũng thường xuyên được đề cập nhưng luôn kết thúc êm đẹp với sự kiện hai bên cùng ngồi hút “tẩu thuốc hòa bình”.
Hình ảnh không đổi cuối mỗi tập truyện là Lucky Luke cưỡi chú ngựa Jolly Jumper đi về phía cuối chân trời và hát bài “Tôi là gã cao bồi nghèo đơn độc, rong ruổi trên đường dài xa quê hương, mà đường về nhà còn xa…” bằng tiếng Anh:
« I’m a poor lonesome cow-boyAnd a long far way from home »
Nhân vật chính Lucky Luke là một anh chàng cao bồi nghèo đơn độc của miền Tây nước Mỹ cuối thế kỷ 19. Với biệt danh “bắn nhanh hơn cái bóng của mình”, Lucky Luke lang thang khắp miền Tây bảo vệ cho công lý và lẽ phải.
Trong những tập đầu tiên, diện mạo và tính cách của Lucky Luke chưa thực sự định hình. Những tập truyện về sau, hai tác giả Morris và René Goscinny xây dựng hình ảnh Lucky Luke như một anh chàng cao bồi vui tính, độc thân, bề ngoài thường với chiếc mũ trắng, áo gi-lê đen, sơ mi vàng và cổ đeo chiếc khăn màu đỏ. Ban đầu, Lucky Luke luôn xuất hiện với điếu thuốc lá trên môi, nhưng về sau để tránh hình ảnh người hùng nghiện thuốc lá, Morris cho thay thế bằng một cọng cỏ. Sử lý các tình huống một cách hài hước thông minh, cộng với tài bắn súng và sự may mắn, Lucky Luke luôn thành công ở cuối mỗi tập truyện.
Đồng hành với Lucky Luke là Jolly Jumper, chú ngựa chạy nhanh nhất miền Tây. Là con ngựa đặc biệt, Jolly Jumper biết đi trên dây, thông minh tới mức cùng chơi cờ với Lucky Luke và khi nói truyện có thể trính dẫn cả văn học. Jolly Jumper nhiều lần cứu Lucky Luke thoát khỏi các tình huống khó khăn nhưng hai nhân vật này thương xuyên trêu trọc nhau. Như trong tập Nàng Sarah Bernhardt, Jolly Jumper chê bai vì Lucky Luke soi gương trước khi đi gặp Sarah Bernhardt, còn Lucky Luke trêu rằng Jolly Jumper không mặc gì khi chú ngựa này không đeo yên. Đặc biệt Jolly Jumper rất ghét con chó Rantanplan.
Nhân vật phản diện thường xuyên nhất trong tâp truyện tranh là anh em nhà Dalton. Từ mẫu những nhân vật có thật trong lịch sử miền Tây, Morris đã xây dựng nên bốn tên cướp Dalton nhưng lại cho chúng chết ngay khi vừa xuất hiện. Về sau, Morris và René Goscinny đã cho chúng sống lại bằng cách xuất hiện các anh em họ của Dalton. Băng cướp Dalton sau bao gồm: Joe, Jack, William và Averell. Trong đó Joe là anh cả, lùn nhất nhưng cũng hung hãn nhất, chỉ huy của cả nhóm. Sau đó tới Jack, William, dần cao hơn nhưng cũng bớt hung hãn hơn. Cuối cùng là Averell, em út, cao nhất và cũng ngốc nhất nhà. Các tập truyện thường bắt đầu bằng việc anh em Dalton trốn khỏi nhà tù, và kết thúc khi chúng bị Lucky Luke bắt trở lại.
Một nhân vật thường xuất hiện trong Lucky Luke nữa là Rantanplan, mênh danh “con vật ngu ngốc nhất miền Tây” hay “chú chó ngốc hơn cả cái bóng của mình”. Rantanplan là chú chó của trại giam và được các nhân viên giao cho nhiệm vụ canh giữ bọn Dalton. Morris đã xây dựng nhân vật Rantanplan dựa trên một nguyên mẫu có thực là Rin Tin Tin, một con chó thông minh, dũng cảm thường xuất hiện trên các bộ phim của hãng Warner Bros vào những năm 1920. Nhưng ngược lại với Rin Tin Tin, Rantanplan là chú chó ngu ngốc, nhát chết, tham ăn, và có cái mũi bị điếc. Trong thực tế, chú chó Rin Tin Tin là một diễn viên ngôi sao, với cát xê cao, đi xe hơi và nhiều người phục vụ… và tác giả Morris đã đưa những chi tiết này vào tập Gia tài của Rantanplan.
Một số nhân vật khác thường lặp lại trong Lucky Luke như những tay nhà đòn với bộ lễ phục đen và nước da mai mái, luôn tìm cách trục lợi từ các vụ giết người hoặc treo cổ. Các cô vũ nữ thường mập mạp và hút thuốc. Nhân vật cụ cố ngồi trên xe lăn, tai điếc, cắm chiếc loa kèn vào tai và thường xuyên hỏi lại. Những người Mexico với cái mũ rộng vành ngủ ngay cạnh đường ray. Những người Hoa với mái tóc đuôi sam làm đầu bếp hoặc nghề giặt ủi…
Nhiều nhân vật có thật ở miền Tây cũng được tác giả đưa vào tập truyện. Billy the Kid trở thành một tên cướp trẻ con liều lĩnh. Calamity Jane thành một người bạn của Lucky Luke, mạnh mẽ nhưng hay chửi tục và nhai thuốc lá. Nghệ sĩ nổi tiếng Sarah Bernhardt sang Mỹ biểu diễn và cũng được Lucky Luke hộ tống… Các tổng thống Mỹ cũng nhiều lần xuất hiện trong truyện.
Ngược lại, một số nhân vật hư cấu trong truyện lại được Morris vẽ theo nguyên mẫu nổi tiếng. Như một phù thủy da đỏ có gương mặt của ca sĩ Elton John, nhân vật kẻ săn tiền thường có vẻ bề ngoài của diễn viên Lee Van Cleef hay một tên cướp giống với diễn viên Louis de Funès, diễn viên Jack Palance trở thành Nhện chân dài…
(Tổng hợp từ Wikipedia và các nguồn khác)

Bài phản hồi của bạn Đỗ Mạc Lô:

Đọc bài viết của Xì Dầu về truyện tranh hồi xưa củng nhớ lại thời xưa Lô cũng khoái coi truyện tranh.
Sách hình Pháp thì có một sạp báo đối diện tiệm nước mía Viễn Đông, tiệm này cho thuê truyện tranh Lucky Luke, Tintin theo dạng bán ra rồi mua lại thành ra giá chênh lệch coi như là tiền mướn sách.
iệm sách mà Thảo nói trong blog đối diện nhà thờ Đức Bà là nhà sách Liên Châu. Trước năm 75 Lô có mua được ở đây một tập đóng bộ nguyên năm của tờ tuần san truyện tranh tên là Tre Xanh.  Còn nhớ là xuất bản năm 1956.  Mỗi số chỉ có 4 trang nhưng mà đặc biệt là in màu. Rồi sau năm 75 trong xóm có một bà ngày nào củng qua la hét có vẽ thảm thiết nên tặng cho bà ta bộ đó.  Xì Dầu biết bả la như thế nào không?  Bả la như thế này:  "Ai có ve chai giấy báo củ bán không..." 
Thời trung học, nhiều truyện tranh của Pháp được dịch ra tiếng việt, bán rất chạy.  Nỗi tiếng là do họa sĩ Hoàng Lương vẽ lại.  Được cái là dịch hay và sát truyện.  Lucky Luke dịch là hiệp sĩ Lục Kỳ.  Bài hát của Lucky Luke ở cuối truyện được dịch là:  "Tôi là lãng tữ cô đơn, gió sương là bạn đường xa là nhà."  Anh em Dalton dịch là anh em Đặng Tân.  Johan và Pirlouit dịch là Lữ Hân và Phi Lục.  Fantasio và Spirou được dịch là Phan Tân và Sĩ Phú.  Nhiều tựa truyện dịch củng rất hay như cuốn "Les Daltons se rachetent" qua tiếng Việt thành "Đặng Tân tứ huynh đệ cải tà qui chính".  Sau khi Morris mất, nhà xuất bản có ra bộ "Kid Lucky", vẽ về Lucky Luke thời còn con nít, Lucky con nít không bắn súng nhưng mà bắn ná.  Tiếc là nét vẽ và tính dí dõm không được như xưa, phải nói là thuộc loại dưới trung bình.

Nhưng mà một trong những bộ truyện tranh VN, có lẽ bộ truyện dài như phim bộ HK mà nỗi tiếng là bộ truyện Con Quỹ Truyền Kiếp, hình như xuất bản vào năm 64.  Mỗi tuần ra một số.  Hồi nhỏ Lô tuần nào củng mua coi được từ số đầu.  Bộ này sau đổi tên lại là "Lảo Tướng Số", rồi sau đó khoảng năm 65 thì không thấy ra tiếp nữa.  Nghe nói là sau đó một thời gian truyện này có ra tiếp nhưng không biết có tới hết bộ hay không.  Thành ra tới bây giờ củng không biết bộ truyện này kết cục ra sao?

  Tết Sài Gòn trăm năm trước ra sao?   Biết những gì xảy ra trong quá khứ xa xưa dường như là mơ ước muôn đời của con người. Bởi trong c...