Lịch sử cuộc viễn chinh Nam Kỳ năm 1861
(Histoire de L’EXPÉDITION DE COCHINCHINE en 1861)
(Tiếp Theo)
CHƯƠNG VI
Ðề cương:
Quân viễn chinh đánh chiếm các vị trí Tong kéou, Oc-moun,
Rach-tra và tiến lên tận Tram-ban. Toàn vùng bị chiến hạm và các đạo quân lưu
động của ta lục soát. Trinh sát sơ khởi về Bien-hoa và My-thô.
Tầm quan trọng của chiến thắng ngày 25 phải đến hôm sau
mới biết hết. Ngày 26 khi vừa hừng đông, một đội pháo binh trang bị đại pháo
nòng 4 yểm trợ một đoàn thám sát đi sâu vào thành Kì-hòa, suốt chiều dài của
thành đến tận kinh Avalanche. Bốn khu công sự của Kì hòa vừa mới vừa cũ đều lọt
vào tay ta cùng một lúc. Quân An nam bị đánh bật khỏi khu thành Quan liền theo
các ngõ tắt chạy về đồn Avalanche của họ dưới hỏa lực đại pháo ta bắn ra từ các
chùa. Vị trí của đồn Avalanche nằm sát Saĩgon, phía tây-bắc của thành phố;
chung quanh là nước và sình lầy, có cắm chông bạo bọc; cách phòng thủ khá rắc
rối. Nhưng từ đồn Avalanche quân An nam lại hối hả bỏ chạy, băng ngang vùng đầm
lầy bằng hai lỗ trống trong bụi rậm giống như đường đi của thú dữ, quân Âu châu
đưổi theo trong đầm lầy thật khó nhọc, vừa thương tích vừa lạc đường. Sau cùng
quân An nam đến được con đường giám mục Adran, tại đây họ tổ chức lại, chuyển
việc tháo chạy thành rút quân trong trật tự, tiến sâu vào vùng lãnh thổ của họ,
qua các ngõ Tong-kéou, Oc-moun, Tay-theuye. Họ đem chôn hầu hết các cỗ súng
chiến thuật trong các cánh rừng thưa, có ghi dấu hẳn hoi để sau này sẽ đào lên
[1] Con đường Saĩgon được tự do lưu thông trở lại, ta cũng dẹp bỏ kho súng
Caĩ-maĩ.
Trong những ngày 25, 26, và 27 tháng 2, quân ta dồn sức
đắp một con đường di chuyển cho pháo binh trên vùng đất khô phía tây thành Kì
hoà. Hầm chông tại đây dều được lấp đi; bàn chông, cọc nhọn, chà gai đều được
tháo bỏ. Công việc không phải dễ; người An nam đào xới trong mùa mưa thì đất
mềm, nay đất khô cứng dưới ánh nắng mặt trời, ta cuốc không nổi. Quân lính vừa
làm vừa cố tìm cách nghỉ ngơi, họ vừa phải làm đường, làm trại, lại phải trinh
sát Saĩgon và Tong-kéou (thành phố thuộc xứ triều cống cho An nam). Tong-kéou
là thành phố đầu tiên trên đường đi sâu về vùng phía bắc (hướng bắc-tây-bắc).
Theo lời khai của tù binh thì vùng này rất nhiều gạo và tiền đồng, có ba khu
thành phòng ngự, rào tre thưa hơn so với thành Kì hòa, nhưng bảo trì tốt đủ sức
kháng cự. Các thành này cũng là kho của quân An nam.
Giữa Tong-kéou và thành Kì hòa là một vùng đồng ruộng mênh
mông, thỉnh thoảng mới thấy vài khu vườn trồng thuốc lá; cây thuốc lá nhỏ chỉ
cao độ hai chân, khi ta lấy tay vò nát lá thì ngửi thấy một mùi thơm rất mạnh;
lá khô rơi xuống thành những vệt nâu trên mặt đất. Vùng này có sông Tam léon
chắn ngang đường đi: cây cầu bắc ngang sông đã bị phá xập; nhưng chếch về phía
trái thì mặt đất lại cao lên, do đó chỉ cần đi xéo qua trái một chút là có thể
vượt qua sông. Cánh đồng khô ráo, di chuyển dễ dàng trong mùa khô, nhưng qua
mùa mưa thì ngập lụt, chỉ cần nhìn những hố do nước đào xới cũng biết; hố không
sâu cũng không rộng lắm không làm cản trở cho người và ngựa. Ðịa thế đất đai
được thám sát ngày 27 tháng hai cho thấy pháo binh có thể di chuyển dễ dàng; vì
thế mà vị tổng tư lịnh đã phát lịnh trực chỉ Tong-kéou ngay ngày hôm sau, tức
28 tháng 2, trước khi trời sáng hẳn. Ðoàn quân viễn chinh tiếp tục chinh phạt
xa hơn để giúp thủy sư đề đốc Page dễ dàng khống chế toàn vùng thượng lưu sông
Don-naĩ. Ta có thể nghĩ rằng quân An nam rút về Tong-kéou, dựa vào sông Don-naĩ
để tạm làm đường rút lui về mặt bắc đồng thời dựa vào các tỉnh miền nam để lập
lại thế kháng cự giống như thành Kì hòa. Nhưng nhìn kỷ ai cũng thấy là họ vừa
thua trận một cách nặng nề thảm thương và không còn tinh thần nữa.
Pháo binh xuất trại trước, vào lúc sáu giờ sáng, đã gặp
ngay vài rủi ro ( một xe đạn lọt xuống hầm chông); pháo binh mang theo 4 đại
pháo 12, 3 đại pháo nòng 4 có khía, 5 ổ súng cối miền núi và hỏa tiển, tất cả
xếp thành đội ngũ ngay bên ngoài thành. Kế tiếp là bộ binh ra theo bằng một cửa
nhỏ đục ở bờ tường thành. Xong xuôi tất cả đạo quân lên đường đúng sáu giờ ba
mươi sáng. Pháo binh ở giữa; bên phải pháo binh là lính đánh bộ Pháp và lính
đánh bộ người Tây ban nha; bên trái là lính thủy đánh bộ. Thủy quân làm trừ bị.
Toán xung kích An nam và lính đánh bộ Phi châu đi trước
làm quân mở đường. Khi còn cách đồn quân An nam một ngàn năm trăm thước, thì ta
thấy rõ ràng tường thành. Thành xây cất ở một nơi cao ráo nhìn xuống cánh đồng.
Bên trong thành thấy có nhiều công sự lớn và một pháo đài trang bị đại pháo;
tất cả tạo ra một vẻ đáng ngại. Quân ta dừng lại, pháo binh dàn trận và phân
chia vị trí như sau: 3 súng cối di chuyển về phía bên phải, gần một đám cây có
thể nhìn vào thành. Lính phóng hỏa tiển thì nhắm vào các công sự lớn trong
thành; đại pháo 12 hướng vào khu pháo đài; đại pháo nòng 4 và hai súng cối thì
bắn vào bất cứ lỗ châu mai nào có đạn đại pháo của địch bắn ra. Thủy sư đề đốc,
vì muốn tránh bớt cho quân sĩ vai trò tiến công khó nhọc mà họ đã chịu đựng
trong ngày 25, nên đã thay đổi chiến thuật dựa theo địa thế và kiến trúc của
công sự mới này. Công sự ở vị trí cao lại có kho và pháo đài rất lớn, vì thế
thủy sư đề đốc ra lịnh cho pháo binh giữ vai trò chính. Pháo binh tiến lên
trước, từng khẩu một, ngựa kéo súng phóng nhanh theo nước kiệu: dừng lại từng
trạm 800, 600 rồi 200 thước. Súng của pháo binh ta bắn ra rất chính xác và mãnh
liệt, thế mạnh hơn quân địch thấy rõ, mỗi súng bắn đúng năm mươi quả rồi ngưng.
Pháo binh địch bắn lấy lệ để che cho việc rút quân, họ có khoảng tám ngàn quân
lính. Quân sĩ của họ tiến theo pháo binh từng đợt một và dừng lại tại một đồn
khác, cạnh bên có một ngôi làng.
Tong-kéou bị ta lấy mà không có thiệt hại gì nhiều. Tuy
vậy cũng có một số khá lớn quân sĩ bộ binh bị trúng đạn địch, bị thương hoặc bị
trầy xứt. Ngay khi khởi đánh, trung tá Crouzat bị thương nặng ở đùi vì không
may do tai nạn gây ra: ngựa ông đang cởi nghe tiếng rít của hỏa tiển hoảng sợ
mà nhẩy dựng lên, hất ông ta ngã xuống đất.
Thành phố của xứ Triều cống là kho quan trọng của quân An
nam. Ta chiếm được ba thành, thu được 1 400 tấn gạo, vô số thuốc súng, đạn
pháo, lao, giáo, súng cở nhỏ, 20 đại pháo đúc bằng gang nòng 16, quân trang và
tiền kẽm mà địch chưa kịp đốt giây buộc, tiền kẽm mất giây xỏ xâu thì cũng mất
giá trị đi nhiều.
Quân An nam vẫn theo thói thường mang theo hết những người
bị thương, phần lớn các thương binh là từ thành Kì hòa đưa về. Những căn nhà ta
chiếm tường còn bê bết máu.
Xa hơn Tong-kéou là Oc-moun, một vùng trồng trầu và buôn
bán trầu khá quan trọng, trầu là một loại dây leo lớn cho lá gọi là trầu. Kế
tiếp Oc-moun là Rach-tra và Tay-theuye. Vào ba giờ chiều, quân vẫn tiếp tục đi.
Ðường đi dẫn thẳng tới Tay-theuye; Tay-theye nằm lọt vào một vùng cây có tầm
cao trung bình, lá cây không bóng lại úa, màu hung đỏ giống như tôn bị sét rĩ,
chẳng thấy gì là vẻ xum xuê của cây cối miền nhiệt đới. Chỉ có sức nóng của mặt
trời thì giống như ở Ấn độ; nóng như thiêu đốt. Con đường mòn, chỗ rộng chỗ
hẹp, đầy cát thật mịn, thật nhiều và nóng bỏng. Quân lính mệt lã cứ đi bừa
không thẳng hàng thẳng lối gì hết. Vào giờ này, mọi người đã kiệt lực, thân xác
nặng như chì; ai cũng muốn dừng lại mà ngồi xuống nghỉ. Trong ngày hôm đó, một
số quân sĩ của ta đờ đẩn, ngất ngư vì nóng bức, một số phát điên.
Hai bên vệ đường có vài căn nhà mà quân An nam đã phá xạch
trên đường rút lui. Dân chúng ẩn nấp trong những cánh rừng thưa cách đó vài
trăm thước. Thỉnh thoảng từ trong bụi rậm họ ló đầu ra nhìn rồi kinh sợ mà ù té
chạy. Ở ngưỡng cửa mỗi nhà đều có một lu bằng đất nung màu đen đựng đầy nước.
Vì khát chẳng ai nghỉ tới thuốc độc, đều tranh nhau mà uống. Ðến tối, có vài
người nông dân bớt sợ đến gần và làm quen với ta, họ đề nghị giúp quân ta khiêng
những người lính vì nóng ngã lăn ra bất tỉnh ở hai bên đường.
Vào khoảng năm giờ chiều, các toán quân dẫn đầu tràn vào
thành Tay-theye đã bỏ trống. Trong thành có tiền bằng bạc, một số thật lớn tiền
đồng và ba khẩu đại pháo. Thành này canh giữ con đường mà quân lính vừa đi qua,
tiếp nối với con đường này là một đường đê dẫn tới ranh giới Cao miên. Một khẩu
đại pháo đặt thẳng trước mặt biểu dương tầm quan trong của vị trí mà ta vừa
chiếm. Nơi này cũng là ranh giới của khu rừng Oc-moun. Ở bìa rừng có một vùng
đất cao và phẳng, có vài cây lớn. Quân ta quyết định đến cắm trại tại chỗ này.
Xa xa là một vùng đầm lầy xa tít tới chân trời, những cánh đồng hoang vu của
vùng Sologne[2] cũng không đến nỗi buồn và hiêu quạnh như nơi đây. Mười bốn
thuyền chiến của địch nằm phơi khô trên mặt đất cạnh một bờ đê từ ngày ta đánh
chiếm Saigon năm 1859 vẫn còn đó.Ðịch quân rút đi không để lại một dấu vết nào
khác ngoài thi hài của sáu nông dân An nam bị chặt đầu vài giờ trước đó, xác
vẫn còn mang gông. Sau này người ta mới biết rằng những kẻ bị khổ hình đó là
những người theo thiên chúa giáo [3]. Ngày hôm sau người đầu thú kéo đến rất
đông; các làng dọc theo hữu ngạn sông Don-naĩ và hai bờ sông Vaĩ-co xin ta bảo
trợ. Tàu Dragonne, ngược sông Vaĩ-co đông đến thẳng Tay-ninh, sát với biên giới
Cao miên. Tàu Dragonne kiểm soát vùng lãnh thổ An nam nằm giữa hai sông Don-naĩ
và Vaĩ-co. Như thế là toàn tỉnh Gia-dinh đã thuộc vào tay ta rồi, ta chiếm hết
thành quách, thu hết súng ống và lương nhu.
Quân đội An nam tan rã. Trong số bốn mươi ngàn người đã
chống trả cam go để chận đường tiến quân của ta thì nghĩa quân đã bỏ áo lính và
phù hiệu để trở về đời sống nông dân. Các tá điền gọi là Don-dien thì quay về
các nông trại quân đội của họ ở Go-cung, My-thô và Saĩgon để ghi danh trở lại.
Quân chính quy tản mát thành từng nhóm nhỏ, lội hoặc dùng thuyền vượt qua sông
Don-naĩ hoặc cả hai sông Don-naĩ và sông Vaĩ-co; một số về Bien-hoa, một số đổ
xuống các tỉnh miền nam là My-thô và Vinh-long. Vị tổng chỉ huy An nam [4] bị
thương nặng ở tay trốn về Bien-hoa.
Có thể nói rằng quân An nam đã bỏ lọt vào tay ta tỉnh trù
phú nhất của Nam kỳ miền dưới Ta lợi dụng tình thế này ngay tức khắc. Các cánh
quân lưu động và tàu chiến đổ đi lục xét khắp nơi trong xứ, từ phía đông, phía
tây đến phía bắc. Chỗ nào cũng thấy người Pháp tra xét. Nhờ thế mà ta biết
thành Tay-theuye có hình tam giác, góc nhọn lớn nhất là ụ phong thủ hướng về phía
bắc, góc tây nam có đầm lầy bao bọc kéo dài cho tới sông Vaĩ-co đông.
Ngày 3 tháng 3, có một bức thư đến tay vị chỉ huy trưởng
cho biết người An nam tìm cách tập trung trở lại và dùng Tram-ban làm điểm kết
hợp; năm 1859 họ đã từng dùng Tram-ban làm trung khu của họ khi đánh với ta.
Tức thời tiểu đoàn trưởng Comte và một đội biệt phái rất hùng hậu được gởi đi
ngay chiều hôm đó. Ông ngủ lại Rạch-tra (Tay-theuye) và sáng hôm sau thì đến
Tram-ban, nơi này chỉ cách Cao miên có ba mươi dặm. Ông dẫn theo bộ binh, quân
đánh bộ Tây ban nha, một nữa giàn pháo nòng 4, lính phóng hỏa tiển, và một đội
công binh. Nhưng thật ra quân An nam đã hoàn toàn bại trận; ở Tram-ban không
thấy voi trận, không thấy xe vận chuyển,chẳng có kho hàng và quân lính gì cả.
Trước khi rời nơi này, vị chỉ huy Comte đã liên lạc với đại úy tàu Dragonne
đang hoạt động trên sôngVaĩ-co đông.
Tàu bè lớn và chiến hạm của ta tấp nập trên ba con sông,
rộng, chắc chắn và sâu, đổ từ phía bắc xuống; vùng lãnh thổ nằm giữa ba con
sông này có nhiều rừng và ruộng là tỉnh Gia-dinh còn gọi là tỉnh Saĩgon. Chuẩn
đề đốc Page giữ trọng trách kiểm soát sông Don-naĩ và phong tỏa Bien-hoa. Ðại
úy hải quân Bourdais kiểm soát hai nhánh sông Vaĩ-co và canh chừng kinh
Bưu điện. Ðích thân ông thì hiện diện trên sông Vaĩ-co tây
với các tàu Monge và Lily đặt dưới quyền xử dụng của ông. Trên sông Vaĩ-co đông
đổ lên tới Cao-miên thì có pháo hạm Alarme, pháo hạm này và các tàu của đại úy
Bourdais hai bên chỉ cách nhau bằng một dãi đất khá hẹp.
Phó đề đốc thủy sư Charner ra lịnh cho các vị chỉ huy thám
sát trên bờ cũng như dưới nước phải tiếp xúc với các trưởng làng và chánh tổng
để chính thức đưa cho họ bảng tuyên cáo mang theo, ông tiếp lời và huấn dụ như
sau:
‘’Các ông nói với họ rằng: luật pháp và thông lệ của họ sẽ
được tôn trọng; họ có thể canh tác và buôn bán tự do, mang sản phẩm về Saĩgon.
Họ nên tin chắc rằng thời kỳ các quan chức trước kia đã chấm dứt và thay vào đó
là quan chức người Pháp, chúng ta sẽ hoàn toàn che chở cho những ai công nhận
uy quyền của chúng ta và phục vụ trung thành chúng ta.
‘’Ðể xóa bỏ hết tàng tích cũ, đi tới đâu nếu các ông thấy
đồn lũy thì san bằng hềt, các ông phải huy động dân chúng sống trong vùng, đông
chừng nào hay chừng đó, và bắt tự tay họ phải phá hủy các thành đồn. Các ông
phải chống thẳng tay không thương tiếc bọn thổ phỉ trên bộ và quân cướp hăm dọa
thuyền bè trên sông. Nhưng các ông để yên các thuyền bè đánh cá và buôn bán.
Sau hết là các ông thu góp hết trên toàn xứ các tài liệu liên hệ đến thể chế,
luật lệ, tình trạng phòng thủ, sức sản xuất và phương tiện thương mại của họ.’
Thành Tay-ninh gần biên giới Cao-miên được sửa chửa lại,
mở rộng thêm và trang bị thật mạnh súng ống và chiến cụ. Mối liên hệ giữa ta và
Cao-miên được vạch ra. Nước Cao-miên giáp với Nam kỳ miền dưới về phía bắc và
phía tây. Nước Cao miên liên lạc thường xuyên với ba tỉnh An nam là My-thô,
Vinh-long, An-gian nhờ vào con sông lớn mang tên là sông Cambodge. Người Cao
miên vẫn còn cải vả, tranh chấp, và luyến tiếc xứ Nam kỳ miền duới. Vì lẽ đó mà
vị chỉ huy trưởng không từ nan điều gì để biến xứ Cao miên thành một đồng minh.
Ông nói với vị sĩ quan đầu nảo cầm quyền chính trị ở Tay-ninh do chính ông bổ
nhiệm rằng:
‘’Ông giữ trọng trách về chỉ đạo chính trị trong mọi việc,
nhất là những gì liên hệ với người Cao miên. Ông nên dùng lời hứa hẹn, giúp đỡ
và bảo vệ tất cả những người dân Miên nào hiền hậu sống trên lãnh thổ của ta,
ông nên hội ý với vị chỉ huy quân sự của ta ở Tây-ninh để thực thi các việc
này. Ông nên tìm cách tái lập ban giao tốt với các quan chức Cao miên. Ông nói
với họ rằng chúng ta đã giữ thế không gây chiến với họ và chúng ta vẫn muốn duy
trì tình thế này. Tóm tắt là ông phải hết sức nỗ lực để tạo lập yên ổn và an
ninh chung quanh ông, ông phải nhớ báo cáo thường xuyên với tôi về tình hình
liên quan đến vùng thuộc địa mới thành hình của ta.
Vị chỉ huy trưởng đồng thời cũng sai một sĩ quan đem dâng
quà biếu và chuyển những lời giao hảo của nước Pháp lên vua Cao miên (ngày 24
tháng 3 năm 1961) như sau:
‘’Các biến cố tại Nam kỳ mới đây có lẽ Hoàng thượng đã
được thông báo. Hoàng thượng biết rằng các đạo quân Pháp-Tây ban nha đánh đuổi
người An nam ra khỏi chiến lũy Kì hòa; Saĩgon đã được giải tỏa, quân thù An nam
tan rã bỏ chạy kắp nơi. Dân chúng trong vùng cũng như những nơi xa đều kéo đến
xin quy phục và chấp nhận sự bảo hộ mà chúng tôi ban ra cho họ.
‘’Ý đồ của nước Pháp là bảo toàn lâu dài đất đai đã xâm
lược, tạo dựng ở Nam kỳ miền dưới một thuộc địa và mang tới đó những lợi ích
của văn minh Âu-châu.
‘’Nước Cao miên vẫn giữ những mối liên lạc thân hữu với
nước Pháp. Tôi hy vọng rằng những liên hệ giữa chúng ta càng ngày càng nhiều và
càng trở nên thắm thiết hơn.
‘’Với danh nghĩa là chỉ huy trưởng của các lực lượng quân
đội trên đất và trên mặt biển tại xứ Nam kỳ, và là đại diện của nước Pháp, tôi
xin cam kết với Hoàng thượng hảo ý của chúng tôi về vương quốc Cao miên và tôi
xin đáp lại những đề nghị hoà bình và hữu nghị mà Hoàng đế vua cha của Ngài
từng đưa ra trước đây, thưa Ngài, cho vị đại diện của Hoàng đế cao cả của công
dân Pháp tại Saĩgon.
‘’Tôi cũng hết sức vinh dự báo cho Hoàng thượng rõ tôi có
ý định, trong một ngày gần đây, sẽ đem quân đánh My-thô và chiếm cứ vùng này,
điểm phòng thủ cuối cùng của người An nam về phía Cao miên.
‘’Vị chỉ huy hộ tống hạm đưa tin của Hoàng đế và Hoàng tộc
quốc gia chúng tôi là tàu Norzagaray, sẵn sàng liên lạc với Hoàng thượng, nếu
Hoàng thượng chuẩn y.
‘’Xin kính dâng Hoàng thượng...
Sự vận động này đã thành công mỹ mãn. Từ đây về sau, nước
Cao miên không bao giờ làm việc gì gây bối rối cho sự xâm lược của Pháp. Nhà
vua đáp lại bằng các lễ vật và bằng cách gởi sang một ban sứ thần đáng kể (gồm
tám mươi người), đi từ Kom-pot đến Saĩgon bằng đường bộ. Sau hết cũng nên nói
rõ là các tin tình báo trước đây chuyển cho chính phủ Pháp hoàn toàn sai, tại
Cao miên người ta không nghe nói gì hết về đạo quân Xiêm 60000 người, đạo quân
này nếu có thật sẽ là một lực lượng tiếp tay giúp ta chống lại người An nam.
Vài tháng sau, có một kẻ ngấp nghé cướp ngôi đã dấy quân chống lại nhà vua đang
trị vì tại Cao miên[5]. Ðường lối chính trị của thủy sư đề đốc Pháp, trong tình
thế này cũng dễ hiểu; trừ một vài người vụ lợi ra còn phần đông, ngay cả đến
hôm nay, vẫn coi giải pháp của ông là hoàn hảo nhất: tức là khi nào những người
lãnh đạo Cao miên còn muốn giải quyết những tranh chấp giữa họ về chủ quyền
lãnh thổ mà ta chiếm được thì ông sẽ ngăn chận họ, bằng một cách giản dị là đưa
họ vào cảnh đánh đấm lẫn nhau ở một nơi khác [6]
Ngày 10 tháng ba 1861, các đạo quân viễn chinh quay về
Saĩgon. Một toán quân lưu động và hai ổ súng cối miền núi được giữ lại ở
Tong-kéou; thêm một đại đội thủy quân đánh bộ và một đại đội lính người An nam
tại Tay-theuye, phần khí giới thì cấp thêm cho họ một khẩu đại pháo 30 của hải
quân. Một đại đội thủy quân bộ chiến đóng tại Kì hòa. Pháo binh trở lại đóng giữ
chùa Ao. Thủy quân đổ bộ thì lại trở về đóng ở thành phố Tàu như trước. Các
toán bộ binh khác đóng rải rác dọc theo các chùa bỏ hoang[7] dài cho đến đồn
Avalanche. Nhà cửa ở đây san sát nhau, gần như liên tục từ Saĩgon đến Cho-leun,
nối liền hai thành phố, không khí vui nhộn và thân thiết như ở thôn quê. Những
ngôi nhà nhỏ lụp xụp của thành Kì hòa, đủ để hai mươi ngàn quân An nam trú ngụ,
không còn thích nghi để phân phát cho quân lính đã có thói quen với đời sống Âu
châu. Các căn nhà này đã bị sập trước khi các tuyến phòng thủ bị san bằng. Nhà
cửa hư nát, vô số quần áo rách còn bê bết máu, xác người rải rác trong các hầm
chông làm phát sinh cả một thế hệ ruồi nhặng tủa bay dầy đặc trong không khí;
hàng triệu con ruồi khát máu, tàn khốc bao phủ hết thành Kì hòa như bâu quanh
một vết thương mới bị lở loét, biến Kì hòa thành một hầm chôn người không thể
nào ở nổi. Phải chờ cho đến khi nào đây để những xác chết hóa thành bụi, đám
mây ruồi nhặng nhơ nhớp sẽ lắng xuống, và những bầy quạ bay đi xa? Vì thế mà
thành Kì hòa bị san bằng trừ một đồn duy nhất nằm trên đường về Saĩgon, đồn có
tên mới là đồn Testard, tên của trung tá Testard bị giết ngày 25 tháng hai.
Vòng thành Kì hòa mênh mông trước đây, người ta tưởng là do một vị hoàng đế Ai
cập nào đó đã huy động vô số tay người xây lên, nay chỉ còn lại một đồn lẻ loi,
tên đồn dùng để nhắc lại cái chết vinh quang của một con người hào hùng và cao
đẹp.
Chợ búa của Saĩgon và thành phố Tàu thật dồi dào sản phẩm.
Tất cả các nơi trong tỉnh đổ về; nhờ quyết định của vị chỉ huy trưởng, lương
hướng từ Paris cấp cho quân lính gia tăng, đem đến cho họ một sự vui thích vô
ngần; thật là một điều quí giá khi người lính có một ít tiền trong túi. Tiền
phụ trội giúp từng nhóm quân cải thiện bữa ăn hằng ngày: vả lại những người bán
hàng An nam kéo đến vì người mua sẵn có tiền để trả. Người lính bộ nào, người
lính thủy nào, khi về Pháp lãnh đồng lương chết đói, lại không nhớ tới cái lúc
mà những ghim thịt nướng bốc khói thơm lừng trở đều liên tục trên bếp than hồng
dưới bóng mát của những hàng cau ở Cho-quan và Cho-leun; họ nhớ tới để vừa
thích thú lại vừa tiếc rẻ.
Ðạo quân viễn chinh, trong vòng mười lăm ngày, đã đánh năm
trận, thực hiện mười hai cuộc trinh sát, hành quân dưới bấu trời gay gắt, phải
chịu hiểm nguy, ăn lương khô uống nước bẩn; đêm thường thức suốt vì đám muỗi
độc địa và đàn kiến lửa [8] đâm chích. Quân sĩ thật sự cần được nghỉ ngơi.
Nhưng không thể nói là họ đã hoàn toàn kiệt quệ không thể nào không cho họ
nghỉ.
Ngay ngày hôm sau khi thủy sư đề đốc cho thượng cờ hiệu
của ông trở lại trên chiến hạm Impératrice-Eugénie đang thả neo trên sông
Saĩgon, tức là ngày 12 tháng 3 năm 1861, liền tức thời ông ra lịnh phải thám
sát các vùng chung quanh Biên-hoa và My-thô. Fou-yen-mot là một đầu cầu chắc
chắn của ta trên một trong hai con đường dẫn đến Bien-hoa. Chỉ huy tiểu đoàn
Comte và quân đánh bộ đi dọ thám vùng ven biên của Bien-hoa bằng cách mượn
đường băng ngang Fou-yen-mot. Ðồng thời, một ủy ban khác gồm có đại úy hải quân
du Quilio, vị chỉ huy đại đội tổng hành dinh de Cools và vị chỉ huy đại đội
công binh Allizé de Matignicourt, giữ trọng trách thám sát sông Vaĩ-co tây tại
cửa kinh Bưu điện. Cuộc trinh sát không tiến xa hơn được vì kinh bị chận, con
đường Bưu điện đi về My-thô phải băng ngang nhiều sông rạch mà cầu lại bị phá hết.
Ðường xá trên ruộng là các đường rất hẹp, chỉ đủ cho một người đi. Ủy ban trinh
sát đều nhất trí cho rằng phải mất ít nhất là mười lăm ngày để đắp lại con
đường Bưu điện để cho pháo binh xử dụng.
Mọi người đều biết giá trị của các vị chỉ huy trong quân
ngũ và những thử thách mà họ đã trải qua; vị thủy sư đề đốc quí mến họ, từng
hãnh diện và công khai đề cao họ; tất cả các điều này đã giúp tiếng nói của họ
không bị bỏ ngoài tai, họ đã chính thức đệ lên vị tổng tư lịnh chỉ huy ý kiến
của họ, đại khái nói lên rằng ‘’quân sĩ đã mệt mỏi, sức người thì có hạn; cuộc
chiến của ta không giống với một cuộc chiến nào khác, ngay cả so với cuộc chiến
trải qua bênTàu mà khí hậu nơi đó vừa mới tha chết cho họ. Rằng hai lần di tản
liên tiếp mà chưa mang đi hết ngưòi bị thương tại các bịnh viện Saĩgon và
Cho-quan.’
Nhiều vị khác cũng nói lên rằng ‘’ta vừa thắng một trận
lớn, đừng nên làm gì lu mờ uy danh của ta. Rằng việc đánh hạ thành Kì hòa là
một chiến thắng vẻ vang cho quân đội, ta phải giữ lấy uy thế. Ta đi đánh ở đâu
bây giờ? Ðánh My-thô thì mùa mưa sắp tới rồi. Ði đánh Bien-hoa thì ta đừng quên
là còn phải chỉnh đốn phần lãnh thỗ đã xâm lược, cai trị một đám dân đang lâm
vào một tình trạng hổn loạn vì những người cai quản họ trước đây đã bỏ chạy
hết.
Những ai có chủ trương như vừa nói rồi đây sẽ đổi giọng
cho xem. Chuyện thật rõ ràng là trong vòng tháng 3, tình báo của ta về Bien-hoa
cũng như khi ta phân tích các thông tư của vị quan chỉ huy thị trấn này đều cho
thấy nếu tiến đánh Bien-hoa thì thị trấn này cũng sẽ lọt vào tay ta dễ dàng như
Tong-kéou và Tay-theuye mà thôi.
Nhưng thủy sư đề đốc cho rằng không nên đánh chiếm
Biên-hòa, ông quyết định chiếm My-thô. Vì thế, ông hối hả vì mùa mưa sắp đến,
ông sai dọ thám các cửa biển đổ vào sông Cambodge, đồng thời cũng cho người tìm
kiếm trên đất xem có đường nào nằm giữa sông Vaĩ-co tây và con Sông Lớn
Cambodge khả dĩ pháo binh có thể dùng được, đồng thời cũng xem có con kinh nào
giúp các pháo hạm có thể di chuyển được để tiến về My-thô. Ông chỉ thị cho
trung úy hải quân Lespès, tức đại úy hạm trưởng tàu Norzagaray, phải dọ thám
sông Cambodge, ông đưa ra những huấn dụ như sau:’’trung úy Lespès đã từng dọ
thám sông này và biết nơi nào nguy hiểm, vậy hãy lợi dụng khi trời tốt đo chiều
sâu các đường sông, tìm các điểm chuẩn trên bờ để hướng dẫn các tàu di chuyển
về sau. Nếu gặp dân chài lưới, thì phải cố gắng hỏi và thu thập tất cả các sự
kiện cần thiết. Không những chỉ biết chiều sâu và tính chất của đáy kinh mà còn
phải cố gắng biết trước những loại chướng ngại nào địch dựng lên mà ta phải phá
để vượt qua khi tiến gần đến My-thô. Vì vậy, phải biết bắt đầu từ khoảng cách
nào thì địch lập các đập cản, đập làm bằng loại vật liệu gì._Ðường kinh rộng
hay hẹp? Ngòng ngoèo hay thẳng? Kinh nằm vào hướng nào so với các đồn địch trên
bờ? Ðồn trang bị súng ống như thế nào và cách thành địch bao xa? Bờ sông có dễ
đổ bộ hay không? Sau hết là tình trạng My-thô ra sao? Trại quân có đông không?
Quân lính có sẵn sàng chiến đấu hay không? Chắc gì đã tìm được người trả lời
cho ta hết các câu hỏi này, nhưng điều hệ trọng là thu thập tối đa tin tức tình
báo cần thiết nếu có thể được.
Ðại úy chiến hạm Norzagaray, là một sĩ quan gan dạ và là
một nhà thủy học lanh lợi, nhưng ông quay về mà không tìm ra cửa kinh để vào
sông Cambodge [9]. Một vài tin tình báo, vừa không chính xác lại vừa có vẻ bịa
đặt, cho biết vào mùa mưa có một cửa rạch về phía tây của con kinh hiện nay,
theo đó các tàu của hạm đội trang bị súng lớn cũng có thể xử dụng được. Dù sao,
nếu như không thể nào dùng tàu để tiến vào sông Cambodge vì kinh rạch không đủ
sâu, và nếu sau khi phá xập các cừ cọc ở đáy sông cũng vẫn không thể đưa tàu
lọt vào mặt nam của thành My-thô, thì ta đành đổ bộ lên một hòn đảo nằm giữa
các kinh rạch để đánh thành My-thô ở mặt bắc vậy. Nhưng quyết định sau cùng là
thám sát một lần nữa hệ thống kinh rạch đổ vào sông Cambodge. Hai hộ tống hạm
của ta là tàu Lily và tàu Sham-Roch tiến vào những nơi mà tàu Norzagaray đã
trinh sát tám ngày trước. Hai đại úy thuyền trưởng của hai hộ tống hạm là các
trung úy hải quân Franquet và Rieunier, đã từng ở Nam kỳ từ bốn năm nay. Kỹ sư
thủy học Manen vẫn tiếp tục được phép cho tháp tùng trong công tác trinh sát
này. _Thêm một lần nữa cũng không tìm thấy đường rạch nào có thể đưa vào sông
Cambodge. Còn nơi đổ bộ thì không có gì thuận lợi lắm; các đồn địch chia nhau
canh phòng một vùng rất rộng lớn.
[1] Sáng ngày 25 tháng hai, trong khi quân ta phá được
thành địch một cách vẽ vang, thì một đạo kỵ binh phóng theo rượt quân An nam
trên đường tháo chạy, không cho họ rút về khu thành của xứ Triều cống (tức là
thành Tong-kéou). Nhưng đoàn kỵ binh không bắt được quân An nam nào làm tù
binh. Họ không bao giờ để bị dồn vào đường cùng. Ta cứ mượn lời sau đây từ
chính miệng của một trong những người tướng chỉ huy của họ đã công khai trách
họ: ‘’Quân sĩ chạy như chuột’’. Họ nhờ có vùng đầm lầy Avalanche để tránh quân Âu châu không đưổi theo được. Nhưng đoàn
kỵ binh viễn chinh thật ra chỉ gồm có vài bộ binh Phi châu và vài kỵ binh người
Tagal; có người đổ thừa rằng số kỵ binh mà trước kia ta đòi vị đại úy toàn quyền
Phi luật tân phải cung cấp cho đoàn viễn chinh đã không được thực hiện như ý
muốn. Tác dụng của một đoàn kỵ binh không thể thay bằng vài cỗ súng miền núi:
vì lý do ta đã xử dụng toàn thể quân sĩ vào việc tấn công thành địch, nên không
còn người để đuổi theo quân địch rút lui
[2] Sologne là một vùng đầm lầy rộng lớn ở cửa sông Loire,
thuộc miền trung nước Pháp. Biết đâu tác giả chẳng phải là người của vùng này,
ông có tả một người lính bị thương ngồi hút píp, ăn nói bộc trực và tự nhiên, ông
nhận ra ngay cái cung cách của một người bình dân thường gặp nơi miền trung
nước Pháp ? (ghi chú của người dịch)
[3] Ngày hôm sau, người ta lại đào được bẩy xác chết khác
vùi dưới một lớp đất mỏng, xác bị chặt đầu, ta nhận ra trong số này hình như có
xác của một trung sĩ thủy quân đánh bộ, đã bị quân An nam bắt làm tù binh từ
sáu tháng nay, (ghi chú của tác giả)
[4] Ông Nguyễn tri Phương là vị quan trấn giữ thành Kì
hòa, em của Ông là Nguyễn Duy tử trận,(ghi chú của người dịch)
[5] Vua Cao miên là Norodom bị chính người em là Si-Vattha
cướp ngôi, phải bỏ trốn sang Xiêm la, (ghi chú của người dịch).
[6] Câu này trong nguyên văn cũng hết sức lắc léo, ta thấy
tác giả muốn ám chỉ bàn tay của vị phó thủy sư đề đốc đã lợi dụng sự bất đồng
chính kiến trong hoàng gia Cao miên về sự chiếm đóng Nam ky của Pháp để đưa họ
vào cảnh tự diệt lẫn nhau. Người Cao miên vẫn còn mong mỏi sau này sẽ chiếm lại
Nam kỳ, không muốn người Pháp phổng tay trên. Về sau người Pháp lại giao cho
một người truyền giáo sang Xiêm la thuyết phục Norodom đưa ông về cướp lại
ngôi, nhưng phải chấp nhận sự bảo hộ của Pháp, (ghi chú của người dịch).
[7] Bị chiếm đóng đúng hơn là ‘’bỏ hoang’’, (ghi chú của
người dịch).
[8] Trong nguyên bản là fourmis de feu viết theo lối chữ
nghiêng, có lẽ là dịch thẳng từ tiếng An nam là kiến lửa mà ra, (ghi chú của
người dịch).
[9] Ngày 24 tháng ba, ông này đã được phái đi Kam-pot
trong công tác liên hệ với vua Cao miên.
(Tiếp Theo)