Đây là bài của một cựu học sinh trường Jean Jacques Rousseau năm
1959 viết về Sài Gòn xin giới thiệu đến các bạn.
SÀI GÒN VÀ NHỮNG TÊN ĐƯỜNG XƯA
Tác
giả : Trần Ngọc Quang, JJR 59
Từ hơn một thế kỷ nay, nước Việt Nam đã chịu
rất nhiều thay đổi về chánh trị, hành chánh, văn hóa, xã hội.... luôn cả tên
đường của Sài Gòn. Nhiều đường đã thay đổi tên hai, ba lần và vài đường mang
tên các vị anh hùng hồi đời nhà Nguyễn đều biến mất. Vài người Việt ở nước
ngoài khi trở về nước gặp nhiều khó khăn mới tìm lại được nhà mình đã ở lúc
trước. Những bạn sanh ra sau 1975 lại không thể hình dung các tên đường thuở
trước, nói chi đến lịch sử và tiểu sử của các vị đó. Riêng tôi, nhờ những kỷ
niệm in sâu vào óc từ thuở niên thiếu và lại có tánh tò mò muốn biết thêm lịch
sử nên tôi cố gắng nhắc lại đây vài tên đường để công hiến các bạn đọc giả và
xin ngọn gió bốn phương cho biết thêm ý kiến để tu bổ về sau.
Tôi sanh ra tại nhà bảo sanh của Bác Sĩ Lâm Văn
Bổn số 205 đường Frère Louis, gần chợ Thái Bình thuộc Quận 3 thuở đó của Đô
Thành Sài Gòn, vào thời Đông Dương sắp vào chiến lửa binh đao, chín tháng trước
khi Tân Châu Cảng chìm trong khói lửa, lúc đó Việt Nam còn là một thuộc địa của
Pháp Quốc và nhiều đường Sài Gòn mang tên Pháp.
Tôi lớn lên tại Sài Gòn, tại số 148 đường
Colonel Boudonnet dọc theo đường rầy xe lửa, sau nầy đổi tên là Lê Lai tới nay,
đường lấy tên của Đại Tá Théodore Boudonnet thuộc Sư Đoàn 2 Bộ Binh
Thuộc-Địa và Tư lệnh Sư Đoàn Bộ Binh An Nam, tử trận bên Pháp hồi 1914. Mặt đất
đường nầy thấp hơn các đường Frère Louis, Phan Thanh Giản và Frères Guillerault
nên mỗi khi mưa lớn là đường bị ngập : "nhờ vậy" mà sau khi tạnh mưa,
dọc theo bức tường ngăn đường rầy và đường lộ những con dế từ đất chui ra hang
để khỏi bị ngộp, nên tôi đi bắt đến khuya mới về ít lắm là ba bốn con và thường
bị mẹ tôi quở trách.
Sau khi "chạy giặc" hồi 1945 vì máy
bay đồng minh oanh tạc nhà ga và đường rầy xe lửa để chận tiếp tế cho quân
Nhựt, gia đình tôi trở về sống tạm trước Nhà thờ "Huyện Sỹ" đường
Frères Guillerault và năm sau rồi dọn trở về lại hẻm 176/11 đường Colonel
Boudonnet.
Nhà thờ Huyện Sỹ xây cất năm 1905, ông là người
giàu có vùng Gò Công, tên thật là Lê Phát Đạt và là Ông ngoại của Nam Phương
Hoàng Hậu, vợ của Hoàng Đế Bảo Đại. Gần nhà thờ Huyện Sỹ có hai đường mang tên
Frère nhưng nếu Frère Louis là để tưởng nhớ đến Thầy
Louis Gaubert lập ra trường Taberd, đường Frères Guillerault (có chữ
"S" sau Frères) là để tưởng nhớ đến hai anh em Roland và Léon
Guillerault sinh trưởng tại Sài Gòn và tử trận trong Đệ Nhứt Thế Chiến bên Pháp.
Trong lúc "tản cư" tôi đi học lớp
chót trường làng tại quận Hóc Môn và vì một sự tình cờ mà Ba tôi ghi cho tôi
học tiếp miển phí lớp "douzième" trường Chasseloup-Laubat, thay vì
Petrus Ký như Ba tôi."Trường Chasseloup" xây cất trong ba năm nơi rạp
hát bội của Tả Quân Lê Văn Duyệt, lúc đầu mang tên Collège Indigène de Saigon,
nhưng khi khánh thành năm 1877 thì đổi lại là Collège Chasseloup-Laubat và từ
1928 trở thành Lycée có nghĩa là luyện thi đến lớp Tú Tài, mang tên của Hầu
Tước Justin De Chasseloup Laubat, Bộ Trưởng Bộ Hải Quân và Thuộc Địa dưới thời
Napoléon III, người quyết tâm chiếm và giữ Nam Kỳ. Hồi 1946 quân đội pháp mới
trở lại Việt Nam nên ít có gia đình và trẻ con pháp sống tại Sài Gòn nên dư
giáo viên mà thiếu học trò ! Lớp 12è niên khoá 1946-1947 trai và gái học chung
tại Collège Calmette gần đó, sau đó vài năm trường nầy đổi tên là Lycée Marie
Curie cho đến ngày nay. Tôi còn nhớ lúc ra về tôi chạy nhanh ra
cổng, không phải để tìm Ba tôi, thường người ra sở trễ và đi xe đạp từ
"Toà Tân Đáo" (Sở Ngoại Kiều) ở đường Georges Guynemer dưới Chợ Cũ
lên rước tôi, mà là để tranh thủ thời giang để cạo mủ cao su !
Thật vậy, giữa trung tâm thành phố Sài Gòn
không hiểu ông Tây nào có ý kiến trồng cây cao su theo hai bên đường
Jauréguiberry cho có bóng mát ? Bernard Jauréguiberry là một Đề Đốc Pháp đã
đánh vào Đà Nẳng và chiếm thành Gia Định, về sau giữ chức Thượng Nghị Sĩ và Bộ
Trưởng Bộ Hải Quân, mà tại sao lại đặt tên cho một đường nhỏ bên hông trường
Calmette ? Nhưng dù sao đi nữa những cây cao su đó, sau khi lấy đá đập vào vỏ
thì chảy ra mủ trắng rất nhiều. Tôi trét mủ ấy trên cập táp da của tôi rồi khi
mủ khô thì cuốn tròn quanh một cục sỏi và ngày qua ngày trở thành một trái banh
nhỏ.
Như vậy tôi thuộc vào thành phần "Nam Kỳ
chánh cống" và "dân Sài Gòn một trăm phần trăm", lớp tuổi gần 70
và và sống tại Saigon trong 34 năm. Những bạn lớn hơn tôi vài tuổi và nhũng bạn
gốc "Bắc trước năm mươi tư" mới biết tên đường cũ như tôi, các bạn
khác ráng mà tìm các tên trong trang sau cùng ! Không phải tôi bị
"tây hóa"nên không chịu dùng tên việt nam, nhưng các tên đường cũ đả
khắc sâu vào trí nhớ tuổi thơ của tôi, hơn nửa lúc trẻ tôi hay tìm tòi trong tự
điển Larousse coi ông nầy là ai mà họ đặt tên đường, sau thế hệ của chúng tôi,
ít còn ai nhớ đến tên những con đường Sài Gòn năm xưa…
Mẹ tôi có thuê một cyclo để đi làm và đưa tôi
đi học tại trường Chasseloup, "Chú Ba Xích Lô" mỗi ngày
chạy ra phía nhà ga Sài Gòn theo đường Colonel Boudonnet, sau khi qua rạp hát
Aristo, nay là New World Hotel, quẹo trái qua đường Chemin des Dames
và băng qua đường Lacote (chớ không phải Lacotte, Moïse
Lacote là cựu Trưởng Ban Hành Chánh vùng Gia Định và Giám Đốc Thuế Vụ Nam Kỳ
vào năm 1896) hoặc theo đưòng Amiral Roze (người đã từng tấn công Nam Hàn) để
đi thẳng tới đường Gia Long, tên của đường La Grandière vào khoảng ấy (Đề Đốc
Pierre De La Grandière thay thế Đề Đốc Bonard là một trong những Thống Đốc đầu
tiên của Nam Kỳ, Ông tự động đi chiếm xứ Cambodge năm 1863 mà không có lệnh của
Hoàng Đế Napoléon III và cũng chính Ông đã chiếm ba tỉnh miền Tây năm 1867 làm
cho Cụ Thống Tướng Phan Thanh Giản phải đầu hàng và sau đó tự vận, dưới thời Đề
Đốc De La Grandière Sài Gòn phát triển mạnh mẻ).
Chú Ba Xích Lô xuyên qua vườn "Bờ Rô"
để có bóng mát rồi ra đường Larégnère, sau nầy là đường Đoàn Thị Điểm. Tôi không
biết tại sao người ta kêu công viên đó bằng tên ấy, có thể là phiên âm của chữ
"préau (sân lót gạch) nhưng theo học giả Trần Văn Xướng thì do Ông
"Moreau", tên của người quản thủ pháp đầu tiên chăm nom vườn nầy;
thuở trước các người lớn tuổi còn gọi là "vườn Ông Thượng", có thể là
vì trước kia Tả Quân Lê Văn Duyệt là người tạo ra vườn nầy. Dưới thời pháp
thuộc vườn "Bờ Rô" nằm trong khu đất của dinh Thống Đốc nhưng vào năm
1869 Phó Đề Đốc Hector Ohier, người thay thế Đề Đốc De La Grandière, cắt chia đất
và tặng thành phố vườn nầy mang tên Parc Maurice Long. Mười năm sau đường Miss
Cavell được tạo ra, lúc đó mang tên rue de la Pépinière, để biệt lập
với dinh Thống Đốc mà sau nầy là Palais Norodom và sau 1954 trở thành Dinh Độc
Lập rồi Dinh Thống Nhứt sau 1975. Cũng có thể tên "Ông Thượng" là Ông
Ohier, có tên đường dưới chợ cũ, nhưng tới đời tôi chỉ gọi vườn đó là
"vườn Bờ Rổ", sau nầy mang tên vườn Tao Đàn.
Ra vườn Bờ Rô gặp đường
Chasseloup-Laubat rồi đi thẳng trên đường Larégnère, sau đó
tới đường Testard: hai tên nầy ở gần nhau cũng đúng vì Trung Tá Bộ
Binh Jules Testard và Thiếu Úy Hải Quân Etienne Larégnère, 31 tuổi (chớ không
phải Lareynière hay Laraignère ) tử vong cùng một trận đánh ác liệt tại Đồn Kỳ
Hòa, ở vùng trường đua Phú Thọ, giữa lực lượng cua Thống Tướng Nguyễn Tri
Phương và Đô Đốc Victor Charner năm 1861. Ai cũng biết đường Chasseloup-Laubat,
một đường chiến lược rất dài đi từ Chợ Lớn, từ đường 11è R.I.C (Régiment
d'Infanterie Coloniale) đến Thị Nghè, sau 1955 đường nầy đổi tên là Hồng Thập
Tự.
Đi thẳng đến đường Testard, chú Ba quẹo mặt và
bỏ tôi xuống ở góc đường Barbé vì học sinh vào trường Chasseloup bằng cửa sau.
Góc đường nầy sẽ liên hệ nhiều với tôi sau nầy khi tôi trở thành sinh viên
y-khoa. Đường Barbé (chớ không phải Barbet ) có từ lâu và mang tên của Đại Úy
Nicolas Barbé thuộc Sư Đoàn 3 Thủy Quân Lục Chiến Pháp bị Ông Trương Định cho
tên Nguyễn Văn Sất ám sát vào năm 1860 gần chùa Khải Tường, nơi vua Minh Mạng
sanh ra năm 1791 lúc Nguyễn Ánh chạy lọan vào miền nam để tránh anh em Tây Sơn.
Chùa nầy do Nguyễn Ánh sau khi trở thành vua Gia Long ra lệnh xây
cất để tạ ơn Phật Trời đã che chở cho con trai là Nguyễn Phúc Đàm (vua Minh
Mạng sau nầy), sau đó chùa được lập làm đồn chống pháp nên bị lính pháp phá dẹp
hồi 1880, pho tượng Phật hiện còn lưu niệm trong Viện Bảo Tàng Sài Gòn, trong
Sở Thú. Trên nền chùa bỏ hoang nầy về sau có cất lên một biệt thự lầu lớn kiểu
âu-châu tại số 28 đường Testard mà Bà Bác Sĩ Henriette Bùi (con gái thứ ba của
Ông Bùi Quang Chiêu) mướn lại của người chủ là một luật sư người pháp làm dưỡng
đường sản-phụ khoa vào thập niên 1940. Ông Bùi Quang Chiêu (1872-1945) là kỹ sư
canh nông việt nam đầu tiên tốt nghiệp bên Pháp năm 1897 và bị Trần Văn Giàu (phong
trào Việt Minh) ám sát cùng ba người con trai vào tháng 9 năm 1945. Còn Bà
Henriette Bùi Quang Chiêu sanh năm 1906 là người đàn bà việt nam đầu tiên tốt
nghiệp y-khoa bác sĩ tại Paris năm 1929, nay Bà đã 103 tuổi và hiện còn minh
mẩn và sống tại ngoại ô Paris: Bà kể lại rằng vào năm 1943 nhà nầy được bán lại
cho một người Do Thái tên là David chủ của nhiều biệt thự tại Sài Gòn; vào đầu
năm 1945 chánh phủ pháp trưng dụng nhà nầy và cho Bà thuê một biệt thự khác ở
đưởng Blancsubé để dời dưỡng đường đến đấy. Tháng 3 năm 1945 Nhựt đảo chánh
Pháp và tịch thu căn villa nầy, và khi Pháp trở lại thì trao cho Viện Đại Học
Sài Gòn để rồi năm 1947 nơi nầy trở thành chi nhánh của Đại Học Y-Dược Khoa Hà
Nội rồi năm 1954 thành Đại Học Y-Dược Khoa Saigon, nơi tôi được đào tạo trong
sáu năm với GS Phạm Biểu Tâm làm Khoa Trưởng. Nơi đầy kỷ niệm nầy nay là Bảo
Tàng chứng tích chiến tranh.
Lớn lên tôi đi xe đạp về một mình nhưng thích
đi theo đường Testard hơn vì có bóng mát dưới hàng cây me, song song với đường
Richaud (sau đổi lại đường Phan Đình Phùng) và thường ghé biệt thự số 6 đường
Eyriaud des Vergnes (sau là Trương Minh Giảng) chơi với một bạn học cùng lơp
nhứt là vào mùa các cây trứng cá có trái. Ông Etienne Richaud là một Toàn Quyền
Đông Dương hồi cuối thế kỷ XIX, còn Ông Alfred Eyriaud Des Vergnes người gốc
Châteauroux là Kỹ Sư Trưởng Nha Công Chánh Nam kỳ (Cochinchine), Ông là một
thần đồng tốt nghiệp trường Polytechnique tại Paris lúc 17 tuổi sau đó học
trường Ponts et Chaussées, ra lệnh lấp kinh Charner, tạo hệ thống cống dài 7
km, cất 12 cầu theo "Kinh Tàu" (Arroyo chinois nối liền với rạch Bến
Nghé chảy ra sông Sài Gòn). Ông Eyriaud Des Vergnes là người đầu tiên có ý lập
ra đường sắt tại Việt Nam chạy lên Cambodge nhưng kế hoạch không thành, về sau
nhờ Kỹ Sư Thévenet Giám Đốc Nha Công Chánh Nam Kỳ và sự hỗ trợ của Cố Vấn chánh
phủ Paul Blanchy mà Việt Nam có đường sắt đầu tiên đi từ Sài Gòn đến Mỹ Tho năm
1885. Hai người nầy cũng có tên đường và sau 1955 đổi lại là Tú Xưong
(Thévenet) và Hai Bà Trưng (Paul Blanchy).
Sau khi qua đường Pierre Flandin (tên của
một "đứa con" của Sài Gòn tuy sanh tại vùng Vaucluse và tử trận tại
Noyon, tỉnh Oise, miền bắc nước Pháp vào năm 1917), đến cuối đường gặp rạp hát
Nam Quang (nay vẫn còn), tôi quẹo trái ra đường Verdun (khoảng đó tên là đường
Thái Lập Thành), đến ngã sáu Sài Gòn thì tôi lại đi qua đường Frère Louis để về
nhà bằng đường d'Ypres cho vắng xe. Đường nhỏ nầy ở sau "Mả Lá Gẫm",
đúng hơn là của Ông Mathieu Lê Văn Gẫm, có bức tượng trong nhà thờ Huyện Sỹ, tử
đạo thời vua Thiệu Trị vì bị hành hình lối năm 1847, mả đó nay vẫn còn nguyên
tuy bị che khuất, và Ypres là tên một thành phố nhỏ bên vương quốc Bỉ, như
thành phố Dixmude, nơi đã xẩy ra những trận đánh lớn hồi Đệ Nhứt Thế
Chiến.
Đi xích lô mỗi ngày như vậy hoài cũng chán nên
tôi thường đề nghị với Chú Ba đi về bằng ngả khác, thuở ấy đường phố ít xe hơn
bây giờ vì Sài Gòn và Chợ Lớn không hơn một triệu dân cư. Tôi thích nhứt đi về
nhà qua chợ Sài Gòn : Chú Ba tránh đường Mac Mahon (sau 1952 đoạn nầy lấy tên
De Lattre de Tassigny và sau đó là Công Lý), đi đường Barbé và một đoạn đường
Chasseloup-Laubat, rồi quẹo trái qua đường Miss Cavell với hàng cây cao bên
hông Cercle Sportif Saigonnais (tên không phải viết Cawell hay Cavel : Edith
Cavell là một nữ y-tá người Anh bị quân Đức xử bắn tại Bỉ vào năm 1915 lúc 50
tuổi vì giúp tù binh Anh, Bỉ và Pháp trốn qua Hòa Lan) để trổ ra đường Aviateur
Garros rồi xuống chợ Sài Gòn, nơi bán nhiều trái cây (Roland Garros là phi công
Pháp đầu tiên bay xuyên biển Méditerranée hồi 1913 và tử trận năm 1918).
Rồi cứ đi theo mãi đường d'Espagne (sau là Lê
Thánh Tôn) vì vào 1859 quân lính Tây-Ban-Nha dưới quyền chỉ huy cua các Đề Đốc
Pháp đóng tại đó, để về Ngã Sáu (Phù Đổng) rồi về Colonel
Boudonnet bằng ngã Amiral Roze. Đặc biệt Sài Gòn có rất nhiều tên đường mang
tên các trận đánh thời Đệ Nhứt Thế Chiến (Boulevard de la Somme, Chemin des
Dames, đường Verdun, đường Arras, đường
Champagne, đường Dixmude, đường Douaumont, Quai de la
Marne….) và tên các đề đốc pháp vì dưới thời các vua Minh Mạng và Tự Đức tất cả
quân pháp đến Việt Nam bằng tàu thủy mà hai vị có tiếng nhứt là Charner và
Bonard. Đô Đốc Léopold Victor Charner người vùng Bretagne, gốc Thụy Sĩ là Tổng
Tư Lệnh Lực Lượng Hải Quân Pháp tại Đông Nam Á, ngưòi đã chiếm Nam Kỳ, còn Đề
Đốc Adolphe Bonard (chớ không phải Bonnard ) là Thống Đốc đầu tiên của Nam Kỳ
do hoàng đế Napoléon III bổ nhiệm vào năm 1861 dưói thời vua Tự Đức.
Vào cuối thế kỷ XIX kinh rộng nhứt của Sài Gòn
là "Kinh Lớn" hay "Kinh Charner" đi từ sông Sài Gòn đến Tòa
Thị Xã, có hai đường dọc hai bên : đường chạy xuống bờ sông là đường Rigault de
Genouilly, đường chạy lên là đường Charner. Vì mùi hôi thúi người pháp lấp
kinh lại sau nhiều năm bàn cãi và khi "đường Kinh Lấp" thành lập thì
đương nhiên lấy tên Boulevard Charner vào năm 1861 nhưng Ba tôi vẫn gọi là
đường Kinh Lấp vào những năm 1930. Trước đó, có một kinh dẫn nước sình lầy chảy
ra Kinh Tàu từ chợ Bến Thành (người Pháp gọi là Les Halles Centrales), theo Học
Giả Vương Hồng Sển vì gần rạch Bến Nghé và gần Thành Gia Định, kinh đó mang tên
kinh Gallimard. Thiếu Tá công binh Léon Gallimart có dự trận đánh Kỳ Hòa, và
đào kinh nầy vào năm 1861 theo lệnh của Đô Đốc Charner. Kinh nầy sau khi lấp
lại theo ý kiến của kỹ sư Thiếu Tá Bovet năm 1867 lấy tên là Đại Lộ Bonard, vì
thế đường nầy mới rộng lớn như ngày nay. Lúc lấp kinh và bến đò họ thành lập
một công trường lớn, đó là "Bùng Binh" trước chợ Bến Thành mà người
pháp gọi là Place Eugène Cuniac, tên của một Thị Trưởng Sài Gòn, nay vẫn còn
tên Công Trường Quách Thị Trang, một nữ sinh thiệt mạng lúc biểu tình dưới thời
Ngô Đình Diệm năm 1963. Trước Tòa Thị Xã, ở góc đường Charner và Bonard cũng có
một bùng binh nhỏ với nước phun lên tên là Place Francis Garnier để tưởng nhớ
đến một sĩ quan hải quân trẻ tuổi phiêu lưu trên đất bắc và tử thương tại Hà
Nội hồi 1873. Nhiều đường khác củng do lấp kinh mà ra như Boulevard de La Somme
(rạch Cầu Sấu, sau nầy là đại lộ Hàm Nghi), đường Tổng Đốc Phương (hay Đỗ Hữu
Phương), đường Pellerin (tên của một Giám Mục đã bênh vực công giáo Việt Nam
nhưng khuyên lầm Đề Đốc Rigault De Genouilly lúc tấn công Đà Nẳng vào 1858) sau
nầy đường Pellerin lấy tên là Pasteur.
Đường mà tôi thích nhứt, sang trọng nhứt và có
tiếng nhứt Sài Gòn là đường Catinat, có trước khi người Pháp đến và mang tên
một thuyền lớn đã bắn đại bác vào Đà Nẳng (chớ không phải tên của một Đề Đốc
như nhiều người tưởng, thuyền "Le Catinat" lấy tên của Thống Chế
Nicolas de Catinat, sống hồi thế kỷ XVII dưới thời Louis XIV). Nơi đó có rất
nhiều tiệm sang trọng, đường phố sạch sẽ và có nhiều "Ông Tây" ngồi
uống cà phê tại khách sạn Continental, lúc đó chưa có tiệm Givral và
nơi đó là Nhà Thuốc Tây Solirène, thay thế Pharmacie Centrale. Sau
nầy có thêm tiệm Brodard ở gốc đường Catinat và Carabelli, tên của một Nghị
Viên thành phố. Tôi cũng có dịp vô nhà sách Albert Portail (nay vẫn còn dười
tên Xuân Thu từ 1955) và đi dạo trong Passage Eden vì trong cùng có rạp hát
Eden, rạp nầy và rạp Majestic ở cuối đường Catinat là hai rạp chiếu bóng sang
nhứt Sài Gòn vào thuở đó; đi chơi vậy chớ có tiền đâu mà mua đồ, nhiều lắm thì
lấy vài tấm hình mà các ông phó nhòm chụp dạo lúc đi trước "Nhà Hát
Tây", cất theo kiểu Opéra bên Paris. Đường Catinat là đường
tráng nhựa đầu tiên của Sài Gòn, khi mới tráng nguời ta kêu là đường "Keo
Su" dài tới Nhà Thờ Đức Bà; qua công trường Pigneau de Béhaine trước Bưu
Điện có bức tượng Ông "Cha Cả" hay Evêque d'Adran dẫn Hoàng Tử Cảnh
ra trình diện Louis XVI tại Versailles. Sau khi qua khỏi đường Norodom thì
đường Catinat lấy tên của Cố Vấn chánh phủ và Nghị Viên Thị Xã Sài Gòn
Blancsubé và tiếp theo công trường Maréchal Joffre với tượng đài chiến si tử
vong trong Đệ Nhứt Thế Chiến là đưòng Garcerie với những hàng cây cao, sau nầy
mang tên Duy Tân và công trường Quốc Tế hay "Hồ Con Rùa".
Ba tôi có nhiều bạn người Tàu và thừờng vô Chợ
Lớn chơi bằng xe lửa điện (tramway) mà người ta thường gọi là "xe lửa
giữa" vì chạy giửa đường Gallieni, tới trạm gare de Nancy thì bạn của Ba
tôi lên xe lửa đi cùng vì ở gần thành Ô Ma (Camp des Mares, sau nầy là Bộ Tư
Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia). Tôi còn nhớ xe lửa giữa đó, với ghế cây theo kiểu của
Métro xưa bên Paris, chạy thẳng theo đường Gallieni nối liền Sài Gòn với Chợ
Lớn. Ba tôi nói lúc trứớc nơi đây toàn là đất hoang và sình lầy, sau khi lấp
bưng thành đường đất gồ ghề rồi khi Ba tôi xuống Sài Gòn học vào năm 1928 thì
đường mới được tráng nhựa và năm sau điện giăng giữa chia con đường làm hai
chiều, một bên chạy lên một bên chạy xuống, đường rầy xe điện đặt trung tâm đại
lộ, đến năm 1953 mãn hạn giao kèo khai thác mới dẹp. Đường nầy mang tên của
Thống Chế lừng danh Joseph Gallieni chết năm 1916 nhưng phục vụ ngoài Bắc lúc
còn Đại Tá Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh và sách vở ghi công Ông về tổ chức hành
chánh tại Đông Dương. Tên của Ông viết với chữ "e" chớ không phải với
chữ "é" vì là người gốc Ý Đại Lợi.
Xe điện chạy thẳng vô đường
rue des Marins, qua khu Đại Thế Giới nay là khu Cát Tường và đường
Jaccario (vì lúc trước pháo hạm "Le Jaccario" đậu gần đó trên
"Kinh Tàu" hay Arroyo chinois trong Chợ Lớn, và chắc lính thủy lên bờ
nhiều nên mới gọi là rue des Marins), ở góc đường có vũ trường Arc-En-Ciel, nay
vẫn là nhà hàng và khách sạn Arc-En Ciel, đến đường Tổng Đốc Phương thì quẹo
qua trái mới đến Bưu Điện Chợ Lớn, nhà ga cuối cùng là Gare Rodier, tại Kinh
Tàu.
Lúc còn ở đường Colonel Boudonnet tôi có nhiều
bạn ở khu nhà thờ Huyện Sỹ và thường vô phía sau nhà thờ bắng "dằng
thung" trên mấy cây soài nên bị "Ông Từ" rượt nhiều lần ! Ngoài
đường Frères Guillerault trước nhà thờ, còn có đường Duranton và đường Léon
Combes mà sau nầy đổi tên là Sương Nguyệt "Ánh". Trung Sĩ Léon Combes
là một đứa con của Sài Gòn ở Giồng Ông Tố bên Cát Lái tử trận năm 1917 tại
Craonne, thuộc tỉnh Aisne vùng
Picardie phía Bắc Paris. Tôi nhớ, vì học "trường tây" nên tôi thắc
mắc và tự hỏi Bà nào mà mang họ Sương mà tôi tìm hoài trong sách vở
không thấy ? Sau nầy tham khảo mới biết đó là tên bút hiệu của Bà Nguyễn Thị
Ngọc Khuê (có sách nói là Nguyễn Xuân Khuê), con gái thứ tư của cụ Nguyễn Đình
Chiểu, người đàn bà đầu tiên làm Chủ Bút báo "Nữ Giới Chung" cho phụ
nữ hồi 1918. Tuần báo nầy còn tên là Fémina Annamite và tòa soạn ở 13 đường
Taberd, trong sách kể là Sương Nguyệt ANH (=Góa phụ Nguyệt Anh), nhưng tại sao
hồi 1955 họ đổi tên đường Léon Combes thành Sương Nguyệt ÁNH ?
Về sau, gia đình tôi dọn về Chợ Lớn ở đường
Lacaze, nay vẫn là đường Nguyễn Tri Phương, nổi tiếng vì "Mì La Cai",
đường mang tên của Đô Đốc Lucien Lacaze, Bộ Trưởng Bộ Hải Quân từ 1915 đến 1917
hồi Đệ Nhứt Thế Chiến, nhưng chúng tôi ở khúc trên, gần gốc đường Pavie (nay là
Lý Thái Tổ chớ không phải đường 3 tháng 2 vì dường nầy mới có vào lối 1957, lúc
trước là trại lính) dẫn lên trường đua Phú Thọ. Khúc dưới đường mang tên ông
Auguste Pavie (lừng danh trên đất Lào) dặc biệt rộng lớn và rất dài, có nhiều
cây và bên trong có đường dành cho xích lô và xe đạp. Nếu đi
từ Ngã Bảy xuống công trường Khải Định, từ giữa đường nầy đến đường
Frédéric Drouhet sẻ thấy những biệt thự mà "Chú Hoả" cất cho con cháu
ở (tên thường gọi của Jean-Baptiste Hui Bôn Hoả một triệu phú người Tàu tham
gia với chánh quyền tặng thành phố Sài Gòn Policlinique Dejean De La Bâtie, tên
của một bác sĩ tận tụy lo cho người việt nam, ngoài đường Bonard, sau nầy trở
thành Bệnh Viện Đô-Thành), sau 1954 các nhà nầy dành cho Ủy Hội Kiểm Soát Quốc
Tế Đình Chiến ở và khúc đường nầy gọi là đường Hui Bôn Hoả.
Lúc đó đường Pavie có xe nhà binh pháp chạy
nhiều vì có thành lính gần đó và tại khu đường Cây Mai, trước khi tới Phú Lâm.
Khu đất từ đường Lacaze đến đường Ducos là đồng mả, đường hẻm tôi ở trước một
mả đá lớn, mới phá hồi tháng 11 năm 2004 : đó là mả có từ thế kỷ thứ XVIII của
một người đàn bà lối 50 tuổi và quan tài thứ nhì chắc là của một người đàn ông,
chỉ có vài nữ trang chớ không có vàng bạc chôn theo như người ta tưởng.
Từ đường Lacaze đi ra trường Chasseloup-Laubat
xa hơn, tôi phải đạp xe xuống Ngã Bảy, quẹo trái qua đường Général Lizé, rồi
đạp thẳng hoài, qua khỏi đường Verdun đường nấy lấy tên Legrand De La Liraye.
Qua khỏi trường nữ sinh Gia Long (hồi xưa gọi là Collège des Jeunes Filles
Annamites) và đến tận trường Marie Curie mới quẹo xuống đường Barbé. Đường
Général Lizé là một đường chiến lược rất dài lúc trước gọi là đường Hai Mươi,
đi từ Ngã Bảy Chợ Lớn, nối dài đường Pierre Pasquier, đến đường Albert Premier
trên Dakao, lấy tên của Trung Tướng Lucien Lizé, xuất thân từ trường
Polytechnique, Paris, Tư Lệnh Pháo Binh chiến trường Ý tử trận hồi 1918, có
phục vụ bên Việt Nam lúc còn Đại Tá, còn Legrand De La Liraye là một trong
những linh mục thông ngôn cho Đề Đốc Rigaud De Genouilly và trở thành Thanh Tra
phụ trách về các hồ sơ giưã người việt và chánh quyền bảo hộ. Sau 1954 đường
nầy đổi thành đường Phan Thanh Giản, một vị anh hùng sáng suốt và can đảm của
Việt Nam .
Tiếc thay sau 1975 không còn đường nào trên mảnh đất Việt Nam mang tên anh hùng
dân tộc nầy, cũng như không còn đường vào mang tên Lê Văn Duyệt và cũng không
còn trường học nào mang tên Petrus Ký ! Cho tới nay tôi chưa thấy một học giả
Việt Nam nào giỏi hơn Petrus Trương Vĩnh Ký, tuy vài "Sử Gia" buộc
tội vị nầy nhiều điều vô lý, họ quên rằng công lao lớn nhứt của Ông Petrus Ký
là truyền bá cho dân chúng sử dụng chữ quốc ngữ có từ Alexandre de Rhodes vào
thế kỷ XVII thay thế chữ Nôm khó học và khó viết. Tôi nghe nói ở Vĩnh Long hiện
nay có một trường học mang tên Phan Thanh Giản và vào tháng 11 năm 2008 rạp
chiếu bóng Nguyễn Văn Hảo đường Trần Hưng Đạo tại Sài Gòn đang hát tuồng
"Tả Quân Lê Văn Duyệt", đó là điều đáng mừng vì những vị anh hùng các
triều nhà Nguyễn phải được hồi phục.
Hồi thời Pháp thuộc cũng có những tên đường
mang tên những anh hùng hay nhân tài việt nam như đường Paulus Của (Đốc Phủ Sứ
Hùynh Tịnh Của) trên Dakao, đường Tổng Đốc Phương (Đổ Hữu Phương) trong Chợ
Lớn, đường Phủ Kiệt (Đốc Phủ Sứ Trần Văn Kiệt là Nghị Viên thành phố trên 25
năm), Hùynh Quan Tiên, Nguyễn Văn Đưởm trên Tân Định (cà hai là Nghị Viên Thuộc
Địa và Nghị Viên Thành Phố), Nguyễn Tấn Nghiệm (Nghị Viên), và Trương Minh Ký,
một trong những Nghị Viên đầu tiên của thành phố, ông nầy tên thật là Trương
Minh Ngôn cháu bốn đời của Trương Minh Giảng, được ông Trương Vỉnh Ký đem về
nuôi và đổi tên, cho đi Pháp học và là một trong 7 người sáng lập viên ra
Trường Thông Ngôn (Ecole des Interprètes) nằm trong Tòa Án, nhờ làm thông dịch
viên lúc Traité de Patenôtre năm 1884 nên được vô quốc tịch pháp, người mất lúc
55 tuổi vì bệnh lao phổi.
Vị anh hùng Đại Úy phi công của quân đội Pháp,
xuất thân từ trường Võ Bị Saint-Cyr và là cựu sĩ quan Lê Dương mang tên Đỗ Hữu
Vị có tên trên một đường từ bùng binh chợ Bến Thành đến đường Charner, trước đó
đường nầy mang tên Hamelin sau nầy đổi lại là Huỳnh Thúc Kháng. Đại Úy Vị là
con thứ năm của Tổng Đốc Đỗ Hữu Phương, sau khi học trung học tại trường nổi
danh Janson de Sailly tại Paris ,
nhập học vô trường Saint-Cyr vào năm 1904. Trung Úy bên Bắc Phi, ông gia nhập
vào binh chủng Không Quân vừa thành lập; bị thương nặng Đại Úy Vị từ chối giải
ngũ và trở về đơn vị Lê Dương và tử thưong tại mặt trận tỉnh Somme năm 1916.
Hài cốt được người anh cả là Đại Tá Đỗ Hữu Chấn đem về chôn cất trong nghĩa
trang gia đình tại Chợ Lớn.
Nay Sài Gòn mất nhiều di tích ngày xưa, vì
chiến tranh và vì sự thay đổi thời cuộc, tôi tiếc nhứt là hồi tháng ba năm 1983
đã sang bằng "Lăng Cha Cả", có từ 1799 để lập một công trường mà chả
thấy ai ngồi …. Hai người ngọai quốc đã ảnh hưởng Việt Nam nhiều
nhứt là Alexandre de Rhodes va Pierre Joseph Pigneau de Béhaine, được dân việt
nam biết dưới tên Bá Đa Lộc hay Evêque d'Adran, người đã giúp Nguyễn
Ánh lên ngôi, đi với Hoàng Tử Nguyễn Phúc Cảnh qua triều đình
vua Louis XVI để ký Hiệp Ước Versailles năm 1787. Tên thật là
Pigneau, sau đó thêm vô sau tên ấp Béhaine của làng Origny-en-Thiérache mà gia
đình có phần đất, thuộc tỉnh Aisne ,
trong vùng Picardie ở miền bắc nước Pháp. Vua Gia Long cất một ngôi nhà ở số
180 đường Richaud cho Bá Đa Lộc (nay vẩn là Tòa Tổng Giám Mục đường Nguyễn Đình
Chiểu, Quận 3) và đọc điếu văn khi người mất năm 1799. Mộ ông người Sài Gòn gọi
là Lăng Cha Cả là một trong những di tìch xưa nhứt của Sài Gòn "ở Gia
Định" vào thời Gia Long, sau nầy ở trước trại Phi Long trên Tân Sơn Nhứt. Cốt
của Cha Pigneau de Behaine được đem về Páp năm 1983 chôn trong nhà thờ
Séminaire des Missions Etrangères, rue du Bac tại quận XV Paris. Tôi có viếng
thăm nhà kỷ niệm cua Cha Pierre Joseph Pigneau de Béhaine, ở làng
Origny-en-Thiérache, trở thành từ năm 1953 "Musée Monseigneur Pigneau de
Béhaine" và sau khi xem xong tâm hồn tôi thả về dĩ vãng của một Việt Nam
oai hùng tranh đấu cả ngàn năm để giử biên cưong …
Tôi cũng có dịp thăm viếng nhiều di tích của xứ
Pháp từ thời Trung Cổ, nhiều lâu đài của Âu Châu và Nga Sô có từ thế kỷ XV,
luôn cả những ngôi mộ bên Ai Cạp có trước nền văn hóa của Hy Lạp và tiếc rằng
xứ tôi không biết giữ gìn những kho tàng quý giá của lịch sử.
CINEMA - SÀI GÒN NGÀY XƯA - Cinema theaters in Saigon before 1975 (Mời các bạn xem lại các phim xưa) http://vietnamsaigon75.blogspot.com/2013/01/cinema-sai-gon-ngay-xua.html
Trả lờiXóa