MỘT NĂM LƯU LẠI TẠI NAM KỲ:
HƯỚNG DẪN CHO KHÁCH DU LỊCH ĐẾN SÀI
GÒN
M. Delteil
Sau khi hoàn thành công việc
giao thiệp của mình, tôi lập kế hoạch đi thăm thành phố Sài Gòn, sau đó là Chợ
Lớn rất gần ở đó. tôi sẽ cố gắng miêu tả, càng nhanh càng tốt, về duện mạo của
hai thành phố này và của ghi lại những điểm thú vị nhất cũng như các di tích
chính.
Thành phố Sài Gòn lúc này chỉ
mới 25 tuổi. Khi Phó đô đốc Rigaull de Genouilly chiếm giữ Sài Gòn, vào ngày 17
tháng 2 năm 1859, thành phố An Nam bao gồm một thành cổ, khu Trường Thi và một
vài túp lều bẩn thỉu và tồi tệ nằm rải rác đây đó và trong một sự hỗn độn chưa
có vẻ gì được nghệ thuật cho lắm. Hầu như tất cả các phần bị chiếm đóng ngày
nay bởi các bến cảng, khu buôn bán, đại lộ Bonard và trung tâm thành phố, chỉ
là một đầm lầy rộng lớn, nơi có con kênh lầy lội. Cần phải triễn khai một tinh
thần sáng tạo thực sự trong một thời gian ngắn như vậy để lấp đầy đầm lầy, làm
vững chắc mặt đất, đào cống, xây dựng những ngôi nhà trang nhã và di tích đáng lưu
ý, để vạch những con đường rộng được trồng cây, đại lộ, bùng binh, đài phun nước
đặt ở khắp mọi nơi với nguồn nước chảy tuyệt vời, nói một cách dễ hiểu, từ đầu,
một thành phố nửa phương đông và châu Âu, thanh lịch, xinh đẹp, thuận tiện để sống,
đầy sức sống và biến động và hiện đang cư ngụ bởi một dân số 35.000 dân.
Sự thay đổi nhanh chóng này
là do các đô đốc Rigault de Genouilly, Charner, Bonant, de la Grandière, Dupré,
Duperré và thống đốc dân sự Le Myre de Villers. Đã tạo ra một những thành phố đẹp
nhất và trong lành nhất ở Viễn Đông!
Hai mươi lăm năm để hoàn
thành một công việc như vậy, không kể tới việc tổ chức các lãnh vực dân sự,
chính trị, quân sự và tài chính của cả một thuộc địa lớn gồm 2 triệu người, vãy
có phải đó là một thành công thực sự?
Tôi tự hỏi liệu có bất kỳ quốc
gia nào vượt qua thời kỳ thuộc địa khôn khéo nhất để được nhiều hơn và tốt hơn
trong một thời gian ngắn như vậy. Người Anh, là những người không chỉ hơn chúng
ta trong những vấn đề như vậy, mặc dù ghen tị với sự tiến bộ của chúng tôi ở Đông
Dương, vẫn lặp đi lặp lại rất thường xuyên rằng chúng tôi đã đạt được những điều
kỳ diệu thực sự ở Nam Kỳ, xem lại vài năm gần đây giữa cuộc chinh phục của
chúng tôi và các quyết định tổ chức. Chỉ có chúng tôi những người Pháp, thích
chê bai công trình của chúng tôi, làm việc đó quá thường xuyên với một sự nhẹ
nhàng và ngu ngốc mà gần như hoàn toàn không có lòng yêu nước.
Nhìn chung, thành phố Sài
Gòn bị giới hạn ở phía bắc bởi kênh Avalanche (Thị Nghè) và sông
Sài Gòn; ở phía nam, bởi kênh Tàu Hủ và về phía tây, bởi vùng đồng bằng cát
mênh mông của cácLăng mộ (plaine des tombeaux), được đặt tên như
vậy, bởi vì người An Nam đã chôn cất người chết ở đó từ thời xa xưa và bao phủ
bởi những nấm mộ được tôn trọng một cách chu đáo theo tục lệ.
Tất cả các con đường đều thẳng,
rộng, song song với nhau và cách các bến cảng giáp sông và kên Thàu Hủ; chúng bị
cắt ở thẳng góc bởi các con đường khác đi qua thành phố và bởi nhiều đại lộ kết
thúc bằng tại bùng binh, nơi những bức tượng bán thân hoặc tượng của những vị
đô đốc có liên quan mật thiết đến cuộc chinh phạt hay sự uy thế của thuộc địa.
Để tạo bóng mát cho người đi
bộ, người ta đã có cảm hứng tốt để trồng hai hàng hàng cây trên tất cả các con đường
và tất cả các đại lộ. chủ yếu là cây me, cây bàng và cây giá tỵ với những chiếc
lá lớn để thực hiện nhiệm vụ này. Một mối quan tâm thông minh đáng được ca ngợi
ở một đất nước nơi mặt trời quá nóng và nguy hiểm như vậy!
Tiếp theo, là thực hiện một
hành trình dẫn chúng tôi đến thăm các điểm quan tâm chánh.
Bắt đầu từ cuối kênh Tàu Hủ mở
ra sông Sài Gòn, trước tiên chúng tôi băng qua đại lộ Canton (đại lộ Hàm
Nghi về sau) nơi có những ngôi nhà của những thương nhân Tàu giàu có, những
ngôi nhà thấp có nhiều nhất một tầng và thường được xây dựng bằng gỗ theo phong
cách đặc biệt của quốc gia này. Sau đó chúng tôi băng qua một cây cầu được đặt
trên con kênh lớn, nằm sâu từ 2 đến 300 mét trong thành phố, bên phải và bên
trái là các bến cảng Charner và Rigaull của Genouilly. Đó là trên cảng thứ hai
này, ngôi chợ và tạp hóa được xây dựng. Chợ chiếm một không gian đáng kể và được
chia thành bốn khu lớn có mái che: Khu thứ nhứt mua bán cá, khu thứ hai mua bán
trái cây và rau cải, khu thứ ba dành cho gia cầm và thịt và khu thứ tư dành cho
thủ công nghiệp nhỏ và các quán ăn bình dân. Khu tạp hóa thường xuyên có một
đám đông đàn ông và đàn bà người Tàu và người An Nam mua hoặc tiêu thụ tại chỗ
các mặt hàng theo sở thích. Tại khu chợ cá, người ta còn thấy cá tươi sống vùng
vẫy trong các thùng chứa nước, những con cá từ những con kênh có màu xám bùn và
bề ngoài nhớt nhát khiến chúng không có sức hút. chỉ có dân An Nam là tiêu thụ
chúng; theo ngôn ngữ địa phương chúng có tên: Cá rô, cá thát lác, cá bông, cá
chiai (?), cá chốt, cá hop (?), cá trê, cá tien (?),
lươn. Cá biển, được đánh bắt tại mũi Saint-Jacques trong vùng nước sâu, ngon miệng
hơn. Người ta thấy cá ngừ, cá đối, cá vền và cá tráp, cá trích, cá trống, cá
mòi, v.v…Ngoài ra còn có nghêu, ốc biển, hàu tuyệt vời, cua ngon, tôm lớn và
tôm hùm không thua gì của châu Âu. Những con cá khô được đánh bắt hàng năm
trong các hồ lớn của Cam Bốt chiếm một vị trí quan trọng ở khu tạp hóa, chúng
là thức ăn nền tảng của ngưới An Nam. Đó cũng là hình ảnh tương ứng của nước mắm
mà tôi sẽ đề cập lát sau trong bài này.
Chợ rau quả có các sản phẩm
khá đa dạng: chuối, xoài, măng cụt, dưa chuột, bắp cải, măng tây, xà lách, v.v.
Tại gian bán thịt, thịt heo chiếm ưu thế. Nó có chất lượng tốt và đến từ những loài
vật khá nhỏ với lưng cong và bụng kéo lê trên mặt đất, tạo thành một dáng vẻ
khó coi. Thịt bò không tệ, có giá từ 7 đến 8 xu nửa ký; những quả trứng có giá
vài xu một chục. Thú săn và gia cầm rất phong phú: vịt, bồ câu xanh, gà thiến mập,
gà trống, chim công, chuột lang, chgim dẽ, chim cút, thỏ rừng, heo rừng bạn tha
hồ lựa chọn.
Phần gây tò mò nhất của khu
tạp hóa là phần dành cho các món ăn và quán ăn Tàu. Có vô số đếm không xuể các
món ăn đặc biệt được mọi người tiêu thụ: gạo được chế biến đủ cách, mì ống, rong
Nhật, bánh ngọt lớn và nặng, kem dính có màu xanh, vịt lạp, heo con được trang
trí bằng những trái ớt lớn màu đỏ. Người đi chợ đông đúc trong đám đông xung
quanh các bàn được bày ra để tiếp đón họ; họ chọn từ mười hoặc mười hai món ăn
trước mắt và chọn món nào phù hợp nhất với họ, và chúng được mang ra trong những
đĩa nhỏ và họ ăn bằng những que nhỏ mà họ xử dụng rất khéo léo. Một món ăn mà
tôi nhìn thấy trước mắt và có vẻ ngon miệng đối với tôi, đó là một món trứng
tráng nhỏ bên trong mà người đầu bếp đặt hai hoặc ba miếng thịt nai, giá mềm và
hai hoặc ba chất khác mà tôi không thể nhận ra. Điều khiến tôi thích thú là
nhìn thấy một bà già làm bánh kếp; thay vì sử dụng chảo rán, bà ta đặt lên một
đôi nĩa gỗ nhỏ một miếng bột đã cứng, chắc chắn, sau đó bà ta bày lên lò nướng.
Tôi tưởng như miếng bánh này, đôi khi phồng lên và vượt quá khổ, sẽ thoát ra và
rơi vào lửa; nhưng hoàn toàn không phải vậy, những cây gậy nhỏ được thao tác với
tài năng như vậy mà mọi thứ đều được nấu chín, nhuộm màu nâu và mang một vẻ
ngoài vàng ánh và chính màu vàng này khiến bạn muốn ăn.
Vào buổi tối, ở xung quanh khu
tạp hóa, những chiếc bàn được bày ra, tràn ra vỉa hè và những chiếc đèn lồng Tàu
được treo lên. Ở đó những cuộc chè chén, vui vẻ, mà người An Nam, chủ yếu lời
ra từ cửa miệng, với tấm lòng thì vu vẻ. Đó là một cảnh tượng rất thú vị và tôi
thường xuyên tham dự. Bạn không bao giờ thấy tranh luận ở đó, bạn không nghe thấy
gì ngoài tiếng cười.
Rời khỏi cánh cửa lớn của khu
tạp hóa, chúng tôi thấy những người Malabar đang cúi mình đổi tiền, trước họ là
tiền piastres, roupi và tiền xu. Tiền xu là tiền tệ của người An Nam; nó được
làm bằng kẽm với một lỗ ở giữa để có thể xâu lại. phải mất 600 đồng xu để tạo
ra một xâu, tương đương với 0 fr. 80 c.
Chúng tôi tiếp tục đi qua bến
cảng và rời khỏi ngôi nhà ba tầng xinh đẹp bên trái được xây dựng bởi một người
Tàu giàu có tên là Wang-Taï, và hiện là sở thuế, và chúng tôi đi qua các quán
cà phê được bày trí như các nước châu Âu, nơi những cô gài tính nết dữ dằn, những
kẻ thân tàn của những nhòm sân khấu thường xuyên ở Sài Gòn, luôn đổ vài cái cổ
họng khô của mình những dòng bia và rượu vermouth. Đối diện là cầu cảng của hảng
vận chuyển hàng nhanh đường sông, có một đội tàu đủ kích cở, hoàn hảo cho các quốc
gia khí hậu nóng và dành cho việc vận chuyển hành khách và hàng hóa ở Bắc Kỳ,
Cam Bốt và tất cả các điểm trung gian. đi theo dòng sông, chúng tôi gặp trủ sở
cảng đối diện, nơi neo đậu một con tàu đã tháo dỡ cũ, tàu Tilsit, được sử dụng
như một cầu phao và doanh trại cho các thủy thủ; rồi tới khu đóng kiện hàng
hóa, công viên pháo bình và xưởng đóng tàu
với bến tàu nổi, nơi sửa chữa cho tàu hơi nước và đóng những chiếc thuyền
nhỏ. Cơ sở này, chiếm 22 ha, hiện tại chưa có sự phát triển hay tầm quan trọng
mà nó có thể có. Điều cần thiết là phải đào các bể đại tu và cung cấp cho nó tất
cả các công cụ cần thiết để sửa chữa và bảo trì một hạm đội hùng mạnh.
Các sự kiện mới nhất ở Bắc Kỳ
chắc chắn sẽ buộc Chính phủ mẫu quốc phải thực hiện dự án này đã được nghiên cứu
từ rất lâu.
Đi lên đại lộ de la
Citadelle, đi dọc cơ sở của Sainte-Enfance, nơi nuôi dưỡng những đứa trẻ mồ côi
và những đứa trẻ bị cha mẹ bỏ rơi. Trường trung học Adran do các sư huynh của tổ
chức truyền bá công giáo phụ trách. Chủng viện được quản lý bời các linh mục Hội
thừa sai. Couvent des Carmélites là nơi tìm đến của những nữ tu bất hạnh trong
khí hậu khắc nghiệt này thì việc thụ giới của họ gạp nhiều khó khăn. cuối cùng
là thảo cầm viên đối diện với kênh Avalanche. Vườn bách thú tuyệt diệu này là nơi
tập trung các loài thực vật hữu ích từ Nam Kỳ Hạ và các quốc gia lân cận, cũng
như các mẫu vật sống chính của khu hệ sinh thái thuộc địa, được tạo ra và tổ chức
bởi một người da trắng thuộc địa đến từ Reunion, là ông. Pierre, người có năng
khiếu và nhiệt huyết với khoa học và đó là điểu chưa bao giờ phủ định đối với
ông. Tất cả những gì nghệ thuật và hương vị tốt có thể sáng tạo bởi nguồn lực hạn
chế đã được tập hợp lại trong khu vườn này, nơi sẽ trở thành nơi gặp gỡ của những
bầu bạn tốt. Chúng ta có thể thấy, ở những các chuồng chim sang trọng, hầu hết
các loài chim của Nam Kỳ, như sếu, cò già, chim công, kền kền, gà tiền mặt đỏ, gà
lôi Mã Lai, chim xít, v.v Bên cạnh đó là
vòm cung của loài khỉ chứa một con tinh tinh trẻ có hình dáng giống với con người:
xa xa là những chiếc lồng của những con hổ, báo đốm, gấu, rắn đang sống. . Hươu
và nai lang thang tự do trong công viên. Bồ nông và các loài chim nước khác bơi
trên hồ thu nhỏ. Về phía kênh Avalanche, người ta sắp xếp một đoạn cắt rộng cho
phép ôm lấy một đoạn lớn của con sông xinh đẹp này, được bao phủ bởi những cây
cầu Tàu và nằm rải rác cùng những chiếc thuyền và xuồng ba lá.
Rời khỏi sở thú, chúng tôi bỏ
lại bên phải tổng kho của hải quân và chúng tôi đến nơi, theo đường Thaberl (Nguyễn
Du về sau), đến Thành Phụng. Thành có dạng của một hình vuông, mỗi góc
kết thúc bằng một hình ngũ giác. Những ụ thành được làm bằng đất và bao quanh bởi
một con mương khá rộng, không có nước. Nói tóm lại, đó là một pháo đài không
ghê gớm cho lắm. Thành được xây dựng vào năm 1799 bởi các sĩ quan Pháp, dưới thời
trị vì của Hoàng đế Gia Long. Trong khu vực kiên cố này, người ta đã xây dựng một
doanh trại to lớn bằng sắt và gạch, nơi người lính tìm thấy sự thoải mái và điều
kiện vệ sinh rất cần thiết cho người châu Âu ở những vùng nóng và ẩm ướt này.
Thành được nằm ở vị trí tuyệt vời và hơn nữa, được giữ gìn một cách đáng ngưỡng
mộ. Công binh phải được khen ngợi xứng đáng vì đã hiểu rất rõ về việc xây dựng
như vậy để thích nghi với yêu cầu của khí hậu.
Đường Thabcrl cũng đưa chúng
tôi đến Bệnh viện Quân đội, nơi cũng xứng đáng với sự ngưỡng mộ của người nước
ngoài. Nó đập vào mắt với tỷ lệ hài hòa và đó là sự thông minh hoàn hảo chi phối
tất cả các bộ phận tạo nên tổng thể. Một lời khen ngợi cho các sĩ quan công
binh. Cảm hứng chính của cách bố trí bệnh viện này là hệ thống lợi thế của các tòa
chái riêng biệt. Cũng như doanh trại, sắt và gạch là vật liệu duy nhứt được sử
dụng để xây dựng bệnh viện, bao gồm một khu vực rộng lớn và và bao gồm tất cả
các cải tiến mà người ta đã quen gặp trong tại các công trình tương tự. được giữ
tốt hơn và trang bị hào phóng hơn đối với mẫu quốc. Mọi nỗ lực được thực hiện để
đảm bảo rằng các binh sĩ và thủy thủ ở trong tình trạng tốt nhất có thể để trở
lại khỏe mạnh.
(Còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét