NAM KỲ THUỘC PHÁP: CUỘC SỐNG Ở SÀI GÒN
GHI CHÉP VỀ CUỘC HÀNH TRÌNH/ CỦA M. A. PETITON
(Tiếp Theo)
Bây
giờ chúng ta đã biết về Sài Gòn và người dân nơi đây, chúng ta hãy đi dạo trong
thành phố; Hãy bắt đầu với điểm thú vị nhất, là khu chợ.
Chợ
Sài Gòn được giới thiệu phần lớn giống như bạn thấy ở bên trong chợ An Nam.
Một
số lượng đáng kể các cửa hàng nhỏ hoặc sự kiện nhỏ, do một mình người Hoa làm
chủ, hay người Hoa với vợ người An Nam hoặc phụ nữ An Nam làm chủ.
Chợ Bến Thánh lần đầu xây dựng tại vị trí mà về sao là tòa Ngân khố Sài Gòn. Sau khi Pháp dời chợ này về vị trí mới thì nơi này gọi là Chợ Cũ
Chợ
hiện tại nằm khu vực giữa kênh Rigault de Genouilly và đường Adran (18).
Cả hai mặt của khu vực này được hình thành bởi các tiệm người Hoa. Trên đường
Adran là những mặt hàng Trung Hoa có giá trị tương đối cao. Các thương nhân Hoa
bán các mặt hàng ít giá trị, cửa tiệm của họ ở bên cạnh khu vực của con kênh nối
với đường Adran. Tất cả các tiệm này là tầm thường; việc bán hàng được thực hiện
ở tầng hầm trong một căn phòng nằm ngang tầm với đường phố, ở đó nói chung là một
nơi ô uế đáng ghét được tách biệt, chứa tất cả các sản phẩm có mùi nhất. Bốn hoặc
năm phòng rời nhau phục vụ như giao tiếp giữa đường và ngôi nhà và là nơi bạn liên
hệ mua hàng. Ở đó bạn tìm thấy một tiệm tạp hóa (19)
thực sự trong một không gian nhỏ của một vài mét. Bốn hoặc năm người Hoa ở trần
miệng ngậm một ống hẹp dài với một tẩu nhỏ bằng đồng, đang ở trong cửa hàng; họ
là nhân viên của chủ tiệm. Ai là chủ, ai là thầy ký, đó là những gì chưa từng
được biết đến?
Kênh Rigault de Genouilly về sau là đại lộ Charner
Người
Tàu nói chung rất thiết thực và hơi dể thương, khi anh ta đoan chắc đó là một việc
mua bán thuận lợi.
Khi
vào tiệm, bên phải và bên trái, bạn thấy có đồ gốm thông thường, với các hình vẽ
màu xanh trên nền trắng, cốc, ấm trà, đĩa, v.v., vv ...Quầy hàng nhiều khi bày
ra đường. Trên trần của tiệm treo một số dù, giá ban đầu là một piastre. Trong
tiệm, bạn có dầu, giấm, rượu vermouth, rượu ngâm thảo mộc, mỡ heo để nấu ăn, đồ
khô (dự trữ), vv. một phần lớn các sản phẩm này đã được mua với giá rất thấp,
được gọi là tiếng Pháp của Sài Gòn (kiểu gọi của bộ binh) là xức dầu, nghĩa là phát
mại (phòng đấu giá). Đồ khô thường bị cũ và hư hỏng, vv
Bạn
tìm thấy trong các cửa tiệm giày người Tàu với giá một piastre, đế bằng da thuộc
loại dở màu đỏ, chỉ xài được thường sau một hoặc hai ngày, dép Trung Hoa bằng
lát rất tiện lợi ở các nước nóng, giá một đồng franc. Dép malabar bằng gỗ với một
cái vấu nhỏ mà bạn xỏ giữa ngón chân cái và ngón chân thứ hai của bàn chân. Chiếc
vấu này, từ bên phải về phía bên trái, là một chiếc đai nhỏ cố định bóp chặt phần
đầu của ngón chân, duy trì, tốt nhất có thể, ép bàn chân lại thường làm cho dép,
khi đi bộ, tạo ra tiếng lách cách khó chịu.
Bạn
còn tìm thấy các mặt hàng của Pháp (mặt hàng của Paris hoặc Anh), tôi không cần
phải nói vì chúng không phải là mặt hàng có chất lượng hàng đầu,
Các
mặt hàng được tìm thấy trong các tiệm của chợ cũng được tìm thấy trong các tiệm
của những ngôi nhà xung quanh chợ nói trên.
Trong
các tiệm khác, cũng có bán đồ giải khát: Thật là một thứ giải khát! Khách hàng
tò mò nhất của các tiệm này là dân đồng hương tội nghiệp của chúng ta, lính hải
quân hoặc thủy thủ đang chuẩn bị tự đầu độc mình bằng các loại rượu không thể
chấp nhận.
Ở
cùng một phía, ở góc phố Adran, có một sòng bài, tôi sẽ quay lại sau, vì tôi thấy
rằng sòng bài này chỉ hoạt động vào ban đêm. Xa hơn, một thợ kim hoàn người Tàu liên tục gõ vàng hoặc bạc, ông ta giả vờ như sửa chửa đồng hồ.
Một
hoặc hai cửa tiệm người Malabar nằm chung với các cửa tiệm người Hoa, phía bên
này của chợ, người ta bán vải cotton và rượu mùi.
Người
malabar rất giỏi trong việc uống rượu, và chúng tôi cũng tranh đua với họ (đó
là một phước lành thực sự từ Chúa). Bằng cách lưởi chữ r (chữ cái r dường như
là chữ cái nổi trội của ngôn ngữ Hindu). Như tôi đã nói, các cửa tiệm trên đường
Adran bán những thứ với giá cao hơn.
Chợ
Sài Gòn gồm hai dãy được lợp bằng tranh và ngói; dánh vẻ thãm hại, có một lối
đi ở giữa mỗi dãy; bên phải và bên trái của lối đi là những cửa tiệm nhỏ ngoài
trời; Bên ngoài là những người bán cá, những người bán rau quả.
Đi
bộ qua chợ về cả bên phải và bên trái, những người malabar làm việc cho những
người nông dân của chợ đi đến từng sạp để thu thập tiền thuế trong ngày và đưa
lại một tờ giấy nhỏ ghi lại khoản tiền đã thanh toán,
Tất
cả các đầu bếp người Tàu, An Nam, v.v., thường mua hàng ở chợ với giá thỏa thuận,
bởi vì phàn nhiều thời gian họ chủ yếu ở nhà máy; họ nhận được một khoản tiền cố
định mỗi ngày, trung bình hai hoặc ba franc mỗi đầu thực khách người châu Âu.
Những
người lính đến mua ở chợ để mua đồ bổ sung thông thường; bạn thấy họ đi mang
theo một cái giỏ treo trên cây tre, tựa lên vai họ; cơ man người An Nam và người
Trung Quốc qua lại sống động và nhanh chóng, nhiều như quân lính của chúng ta.
Khi họ đang vác, nặng nề, mỗi người đều có ở miệng một điếu xì gà kinh khủng của
Vevey (Thụy Sĩ) rất dài mà lại tệ và khó hút. Đoàn người theo là một hạ sĩ hoặc
một trung sĩ bình thường, ít nhiều thanh lịch.
Những
con chó hung hăng, cũng như tất cả những con chó của người An Nam, đi lang
thang trong chợ, chủ yếu quanh những quầy của người Tàu bán thịt với dao chặt thịt,
họ cắt thành từng miếng thịt heo muôn thuở của họ, ít nhiều làm kích thích sự
thèm ăn của người châu Âu.
Vào
chín giờ, rất ít khách hàng còn ở chợ, vội vã rời đi, không khí trở nên nóng nực.
Trong
các cửa tiệm thực phẩm trong chợ, còn có các món hàng khác nhau, trong đó các
món hàng chính (Xem, để biết thêm thông tin, ghi chú A):
Trên
một cái sạp, có phần khập khiễng, cao hơn mặt đất khoảng ba mươi centimet, một
số giỏ bằng tre bện nằm san sát; trong các giỏ này là:
1.
Đường vàng, ít nhiều bẩn, có nguồn gốc An Nam, của tỉnh Biên Hòa thuộc Pháp và
của các tỉnh của An Nam là Phú Yên, Quảng Ngãi và Quảng Nam (1 franc 50 mỗi
kg);
2.
Muối trắng phèn hoặc tinh thể (Phèn) có nguồn gốc Trung Hoa; được sử dụng để
nhuộm như một chất gắn màu và phổ biến rộng rãi, (1 franc 50 mỗi kg),
3
(Cát lối) cát biển hạt mịn để rửa đầu (năm mươi cent mỗi kg);
4.
Giấy tiền, Thanh y, Vàng bạc,) Giấy hình tiền xu. Các loại giấy vàng và bạc (từ
Trung Hoa).
Những
giấy này dùng để đốt cúng phật.
Bắt
đầu bằng việc đốt Giấy tiền, để chỉ rằng họ đã hiến dâng tiền xu (nôm na là tiền).
Loại giấy này in các tiền xu màu đen trên nền trắng.
Thanh
y là loại giấy đại diện cho các thứ mà người ta có thể có trong thế giới này,
như áo sơ mi, quần áo các loại.
Điều
này có lẽ có nghĩa là người ta sẵn sàng cúng dâng tất cả cái gì của mình cho phật,
và thể hiện bản thân trước phật mà không biết ngượng ngùng, Cuối cùng, Vàng bạc
là một tờ giấy mang hình những chiếc lá vuông nhỏ màu bạc và vàng, Điều này có
lẽ có nghĩa là người ta sẵn sàng cúng dâng cho phật đồ trang sức bằng bạc và
vàng của mình. Tất cả các giấy tờ này làm thành từng tập hoặc bó (với giá khoảng
5 xu 20 tờ).
Bên
cạnh đó, cực kỳ khó khăn để được biết ý nghĩa chính xác của của lễ cúng bằng việc
đốt các loại giấy này, vì ngưới ta bắt gặp ở người An Nam cũng như các dân tộc
khác, một rào cản
và sự quan ngại
khi người ta muốn biết ở họ chính xác những điều mong muốn.
5.
Thuốc lá (thuốc lá có nguồn gốc An Nam, 2 franc mỗi kg.). Thuốc lá này được cắt
thành sợi rất lớn; đây là một trong những loại được đánh giá cao nhất đến từ
Long Thành; thuốc lá này được mỏng, nó trông giống như thuốc lá Maryland, nó được
cắt thành những tấm dài khoảng 20 cm, dày 3 hoặc 4. Người ta cắt những tấm này
thành những miếng nhỏ.
6.
Hạt tiêu thô, màu đen, có bề mặt nhăn nhiều hoặc ít, 1 fr mỗi kg. Hạt tiêu tốt
nhất đến từ tỉnh Hà Tiên;
7,
Đậu xanh An Nam, ở mức 0 fr 30 c mỗi kg, nhỏ như hạt tiêu, thứ tốt nhất đến từ Châu
đốc, đôi khi chúng nghiền ra để bán,
8. Đậu trắng từ irang 0 fr. 20c. Mỗi ký,
9. Một
loại bột gạo từ Trung Hoa, giống như tinh bột (Bún); Ăn với đường.
10. Mì xào, một loại giống như bánh xèo, mỏng, sền
sệt, gạo, ăn với đường, 2 franc một kg, đến từ Trung Hoa.
11. Trứng 10 trứng cho 0 fr. 60c, thường bị hư..
12. Giá là một ít sợi trắng, hơi vàng, đục, làm từ
một loại hạt đậu. Người An nam ăm giá sống.
13. Khế có hình dạng thuôn dài, với các góc thụt
vào, được ăn với rau sà lách; khi nó đã được nấu chín, sền sệt như keo.
14. Trái khổ qua, là loại rau xanh, thuôn, thân gồ
ghề, được nấu ăn.
15. Trái mít., có hình tròn, màu vàng, được bao phủ
bởi những gai, to hơn như đầu người , có giá năm mươi xu.
16. Trái vải đến từ Trung Hoa, được phơi nắng, có
hương vị của mận,
17.. Trái hồng quả tròn nhỏ, đến từ Trung Hoa.
18.. Bánh tráng rất mỏng làm từ gạo, được ăn giòn rắc
hạt vừng.
19. Bai hang (?) Trái cây ngâm Trung Hoa, 0 fr. C.
20. Rượu Ngũ gia bì đến từ Trung Hoa (không phải nước
nho, nó là một loại rượu, tôi cho rằng, từ quá trình lên men của gạo) Một dòng
chữ giấy bao quanh cổ chai, và trong đó ghi chất lượng của rượu.
21. Kẹo Hồ lô, một loại kẹo Trung Hoa.
Trong các cửa hàng được che chắn, là thực sự một tiệm
tạp hóa nơi có thể tìm thấy tất cả các loại vật dụng gia đình.
22. Hầu bao là một chiếc ví được người An
Nam và Trung Hoa
đeo, nó được làm bằng lụa và được đính
bởi các đồ trang trí bằng dây đồng có nguồn gốc từ Trung Hoa.
23. Cái đẩy, ví lụa có nguồn gốc Trung Hoa, với đồ trang trí thêu bằng lụa,
thường là bông hoa
ở một bên, bên kia
là chữ Trung Hoa:
Mọi thứ đều rất duyên
dáng,
24. Đá lửa có nguồn gốc Trung Hoa.
25. Ống khóa từ Trung Hoa bằng sắt hoặc đồng nguyên bản và khéo
léo.
26. Gương Trung Hoa với khung kiếng cố định và các khung kiếng di động nhỏ dường như dùng để nhìn thấy ra cửa sổ coi những gì xảy ra, khi chúng ta giật nhẹ tấm gương.
Có
thể tìm thấy ở chợ cả đống
hàng hóa, sẽ quá dài để đưa ra trong bài viết, sẽ đem vào phần ghi chú A, nơi chúng tôi
tìm thấy một danh sách khá quan trọng,
Chúng
tôi tìm thấy ở chợ
tất cả những gì cần thiết, ngoại trừ cửa tiệm
kim hoàn quan trọng, nơi
tạo thành trang phục hoàn chỉnh của một người An Nam khá giả: đàn ông hay phụ nữ.
Trang phục hoàn chỉnh của một phụ nữ An Nam giàu
có: quần và áo khoác lụa ít nhiều được đan thêu. Quần đỏ và áo xanh là sự tột
cùng của sự thanh lịch của một con gái An Nam. Chiếc áo màu xanh che một chiếc
áo khoác trắng tiếp xúc với da và được phủ bởi một chiếc áo màu đen, một loại vải
tuyn.
Những gì có: cho một phụ nữ An Nam:
Áo khoác
trắng bằng lụa
|
3 piastres
|
Áo khoác
xanh bằng lụa
|
4
piastres
|
Áo khoác
đen bằng lụa
|
5
piastres
|
Quần đỏ bằng lụa.,
|
3 piastres
|
Nón
tròn lớn
|
2
piastres
|
Quai lụa
cho nón
|
5
piastres
|
Giày vecni,
|
1
piastres
|
Tổng cộng
|
23
piastres.
|
Đồ
trang sức
Hai vòng tay
vàng.
|
60 piastres
|
Đôi bông
tai
|
12 piastres
|
Một cây trâm
vàng
|
6 piastres
|
Một sợi dây
chuyền bạc
|
4 piastres
|
Một sợi dây
chuyền hổ phách
|
27 piastres
|
Một vòng
đeo chân bạc
|
3 piastres
|
Một chiếc
nhẫn vàng
|
5 piastres
|
Tổng số tiền
|
140 piastres
|
Phụ nữ An Nam giàu có
Trang phục một người đàn ông An Nam giàu có:
Trang phục một người đàn ông An Nam giàu có:
Quần lụa trắng
|
1 piastres
50
|
Một chiếc áo lụa
trắng
|
3 piastres
|
Một chiếc áo
màu đen
|
4 piastres
|
Kiểu tóc, khăn
xếp lụa màu đen
|
6 piastres
|
Quai lụa
|
2 piastres
|
Một chiếc mũ.
|
1 piastres
80
|
Lược đồi mồi
|
5 piastres
|
Dây nịt lụa đỏ
An Nam
|
3 piastres
|
Giày
|
1 piastres
|
Khăn tay đỏ
|
0 piastres 50
|
Quạt
|
0 piastres 50
|
Nhẫn vàng
|
5 piastres
|
Mặt bản dây nịt
|
0 piastres 50
|
Tổng cộng
|
37 piastres 50
|
Thông tin này được cung cấp
cho tôi bởi một học giả trẻ người An Nam. Giá đưa ra cho các trang phục cho thấy,
tất nhiên, chỉ ở mức trung bình. Chúng ta đều biết, khi nói đến các mặt hàng xa
xỉ, giá đó có thể thay đổi rất nhiều.
Để kết thúc việc mô tả ngắn
gọn về ngôi chợ và cuộc sống riêng tư của người Pháp–An Nam, tôi không nghĩ rằng
không vô ích khi nói về tỷ lệ cắt cổ của tiền thuê nhà.
Người An Nam đôi khi cho vay
10% mỗi tháng, hoặc 120% một năm. Chắc chắn rằng lãi suất rất cao ở Nam Kỳ. Có
phải với tỷ lệ cắt cổ 10% mỗi tháng? Có thể đối với một số công chức An Nam nhất
định lợi dụng tình hình và ảnh hưởng xã hội của họ. Tuy nhiên, tôi không tin rằng
ở Sài Gòn tỷ lệ vượt quá 4 hoặc 5%. Ở Sài Gòn có nhiều cá nhân vay 2% tiền để
làm tự khoe khaong. Hơn nữa, rất khó ở Sài Gòn tìm được những khoản đầu tư
nghiêm túc với sự đảm bảo cho các khoản thế chấp quan trọng, ở mức 2% hoặc ở mức
11/2% mỗi tháng.
Tỷ lệ luật định ở Saïgon là
1% mỗi tháng. Tỷ lệ này. Tôi tin rằng nó quá thấp đối với xứ này, là điều quan
tâm với tỷ lệ trung bình của đầu tư. Tỷ lệ tiền thuê cắt cổ rõ ràng là một
trong những tai họa của xứ này. Rõ ràng là tỷ lệ luật định là 1% mỗi tháng là
quá thấp và thoạt đầu tỷ lệ này dường như đối với tôi là giữa các giới hạn 1 đến
2% mỗi tháng. Tôi tin rằng không thể vượt quá tỷ lệ pháp lý 1 1/2% mỗi tháng trong
các khoản thế chấp, sẽ là một giải pháp chấp nhận được hiện tại dưới dạng lãi
suất hợp pháp.
Ghi chú:
(18) Kênh Rigault de Genouilly còn gọi là kinh lớn về sau là đại lộ Charner (Nguyễn Huệ)
Đường Adran về sau là đường Võ Di Nguy (Hồ Tùng Mậu)
(19) Tác giả dùng chữ Bazar để chỉ tiệm tạp hóa, nhưng tại Sài Gòn thì tiệm Bazar lại chuyên bán các mặt hàng về da như: Dây nịt, bóp, túi xách, va li,v.v..Còn tiệm tạp hóa thì bán đủ mọi thứ.
(Còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét