Nguyễn
Thanh Liêm - Nền giáo dục ở miền Nam 1954-1975 (trích)
Nguyễn Thanh Liêm
Xin trích một
phần tài liệu của GSTS Nguyễn Thanh Liêm về giáo dục ở miền nam sau 1954. (GSTS
Nguyễn Thanh Liêm nguyên là Hiệu trưởng Petrus Ký – Sài Gòn, Chánh Thanh Tra
trưởng ban soạn đề thi của Bộ Giáo Dục trong những năm 1965-67. Thứ Trưởng Bô
Văn Hóa Giáo Dục và Thanh Niên, Việt Nam Cộng Hòa trước năm 1975).
Trước khi bị Pháp đô hộ, nền giáo dục ở Việt Nam là nền giáo dục
cũ của Nho gia, gọi nôm na là “cái học của nhà Nho” như nhiều người thường nói.
Nền giáo dục cũ này chịu ảnh hưởng nặng nề của Trung Hoa, từ chương trình, sách
vở, lối học đến cách thức thi cử. Tổ chức giáo dục xưa được Đào Duy Anh ghi lại
như sau trong quyển Việt Nam Văn Hóa Sử Cương:
“Ở mỗi huyện có quan Huấn đạo, mỗi phủ có quan Giáo thụ, dạy Tứ
Thư Ngũ Kinh cho học trò khá. Ở mỗi tỉnh có quan Đốc học dạy các sinh đồ cao
đẳng. Ở Kinh đô có trường Quốc tử giám. Các vị học quan kể trên đều ở dưới
quyền giám đốc của bộ Lễ hoặc bộ Học. Trong dân gian thì xưa nay việc học vẫn
hoàn toàn tự do. Thầy học thì có thầy khóa, thầy đồ, thầy tú dạy trẻ con, cho
đến bậc đại khoa không xuất chính, hay các quan trí sĩ, có người dạy đến trăm
nghìn học trò.”
Trường học thì phần lớn là nhà riêng của ông thầy, hoặc ở chùa
hay ở đình, miểu trong làng. Giáo dục có thể xem như là công việc của nhà nho
hơn là của quốc gia, không thuộc một cơ quan công quyền với sự tài trợ và kiểm
soát đôn đốc của chính phủ. Không có một hệ thống tổ chức qui mô của một nền
giáo dục quốc gia gồm đủ cơ sở và nhân viên giảng huấn và điều hành từ trung
ương đến địa phương, từ cấp thấp (như tiểu học) lên cấp cao (như đại học).
Chương trình học thì gồm có mấy quyển Tam Tự Kinh, Sơ Học Vấn Tân, Ấu Học Ngũ
Ngôn Thi, Dương Tiết và Minh Tâm Bửu Giám ở cấp vở lòng, xong rồi lên trên thì
học Bắc sử (tức sử Tàu) và Tứ Thư Ngũ Kinh. Tất cả những sách này là sách gối
đầu giường của Nho gia, chú trọng hầu hết vào triết lý, luân lý, đạo đức chứ
không có một ý niệm khoa học kỹ thuật nào chen vào. Phương pháp giảng dạy thì
phần lớn như Đào Duy Anh tả: “thầy thì cứ nhắm mắt mà giảng chữ nào nghĩa nấy
chỉ sợ sai mất nghĩa của Tống Nho.” Phương pháp học hỏi thì hoàn toàn dựa vào
sự học thuộc lòng thu gọn vào trong công thức “sôi kinh nấu sử” tức là học tới
học lui mãi cho đến khi nào thuộc nằm lòng Tứ Thư Ngũ Kinh và Bắc sử. Người đi
học thực tập nhiều nhất là viết chữ cho thật đẹp như “phụng múa rồng bay”, làm
thơ, làm phú, kinh nghĩa, văn sách, chế chiếu, biểu, câu đối, cho thật nhanh,
thật khéo và thật chỉnh, dùng được càng nhiều điển tích càng hay để có thể đậu
được các kỳ thi do triều đình tổ chức. (Có ba kỳ thi: thi Hương tổ chức ở một
số địa phương để lấy Tú Tài; thi Hội và thi Đình tổ chúc ở trung ương để lấy Cử
Nhân và Tiến Sĩ). Tất cả các kỳ thi đều là thi tuyển và chỉ nhắm vào một kỷ
năng của thí sinh là làm văn làm thơ dưới nhiều dạng như thơ đường luật, kinh
nghĩa, văn sách, v v … Thường thì ba năm mới có một khoa thi, và đi thi là cả
một vấn đề khổ nhọc cho sĩ tử vì trường thi ở xa, đường giao thông khó khăn,
phương tiện giao thông còn rất thiếu kém. Thi đậu được thì có thể ra làm quan,
không thì lui về làm thầy đồ thầy khóa, “tiến vi quan, thối vi sư” vậy.
[…]
Giới sĩ phu là giới sát cạnh nhà vua, giúp vua trị nước, thuộc
hàng ngũ lãnh đạo quốc gia, là bậc thầy trong xã hội, đóng vai dẫn đầu, điều
khiển, hướng dẫn dân chúng trong mọi sinh hoạt bảo vệ và phát triển đất nước.
Nước giàu dân mạnh hay suy nhược đói nghèo, trách nhiệm ở giới lãnh đạo, ở Kẻ
Sĩ, nhà Nho. Lớp trí thức nho sĩ cũng như cái học cũ của nho gia ngự trị trong
xã hội Việt Nam từ thời Lý Trần cho đến khi có sự xăm chiếm và đô hộ của người
Pháp hồi cuối thế kỷ XIX trong Nam và đầu thế kỷ XX ở miền Bắc và Miền Trung.
Riêng trong Nam thì vì Nam Kỳ Lục Tỉnh chỉ mới được thành hình trọn vẹn từ giữa
thế kỷ XVIII cho nên sự giáo dục ở đây chưa được tổ chức rộng rãi, chưa có cội rễ
ăn sâu vào lòng đất như ở chốn ngàn năm văn vật của Thăng Long – Hà Nội. Tính
ra thì Nho học chỉ có được chừng một thế kỷ ngự trị ở Phương Nam. Mãi đến năm
1826 Miền Nam mới có vị Tiến Sĩ đầu tiên theo lối học xưa là cụ Phan Thanh
Giản. Nhưng nền học vấn cổ truyền của nho gia này ở Miền Nam chỉ mới có chừng
trăm năm thì bị sụp đỗ hẵn bởi sự thất bại, suy vong của triều Nguyễn trước sức
mạnh quân sự và nền văn minh khoa học kỹ thuật Âu Tây. Khi nền cai trị của
chính quyền đô hộ Pháp được thiết lập xong thì cái học nhà nho cũng bị xóa bỏ
để nhường chỗ cho cái học mới hay Tây Học.
[…]
Cái học mới này (tân học) diễn ra ở Miền Nam trước nhất vào cuối
thế kỷ XIX sau khi người Pháp đặt xong nền đô hộ ở đây. Nền giáo dục mới này
lấy giáo dục Pháp làm khuôn mẫu, dùng tiếng Pháp làm chuyển ngữ. Trường học gồm
có các trường công do chính phủ xây cất, đài thọ chi phí và kiểm soát, và một
số trường tư của Thiên Chúa giáo hoặc của tư nhân. Hệ thống giáo dục mới này
được thiết lập nhằm hai mục tiêu: (1) mục tiêu thực tiễn là đào tạo một số
người biết tiếng Pháp, chữ Quốc Ngữ, và có chút kiến thức về văn minh Tây
phương để làm công chức ở ngạch trật thấp phục vụ cho chính phủ thuộc địa, và
(2) mục tiêu lý tưởng là đồng hóa người bản xứ biến họ thành những người Pháp
về phương diện văn hóa. Một số nhà trí thức Pháp tự cho họ cái sứ mạng cao cả
là đem văn minh khoa học Âu Tây phổ biến khắp nơi. Đó là sứ mạng văn minh hóa
(“mission civilisatrice”) tức là đi khai hóa các nước chậm tiến, kém văn minh,
kém mở mang. Người đầu tiên thực hiện chính sách đồng hóa văn hóa (cultural
assimilation) đó ở Miền Nam là Thống Đốc Le Myre de Vilers. Ông là người dân sự
đầu tiên được cử sang làm Thống Đốc Nam Kỳ từ năm 1879 đến 1892. Các ông thống
đốc trước ông đều là những người bên quân đội, nhất là bên hải quân. Để thực
hiện sứ mạng văn minh hóa dân bản xứ, ông cho mở rất nhiều trường ở mỗi làng và
mỗi tổng cho cấp sơ và tiểu học. Tuy nhiên vì thiếu hụt ngân sách vàkhông đủ
giáo chức cho nên nhiều trường chỉ được mở ra rồi liền sau đó lại đóng cửa
thôi. Sang đầu thế kỷ XX chế độ giáo dục mới mới được thiết lập ở Trung Kỳ và
Bắc Kỳ sau một vài sửa đổi theo quyết định của Toàn Quyền Paul Beau hồi
1906-07. Theo quyết định này thì một hội đồng cải tổ giáo dục được thành lập để
đem chữ Quốc Ngữ, chữ Pháp và nền tân học vào chương trình học và chế độ khoa
cử mới. Các thầy đồ, thầy khóa ở xã thôn, các quan giáo huấn, đốc học ở phủ,
huyện, tỉnh, phải dạy thêm chữ Quốc Ngữ cho học trò ngoài việc dạy chữ Hán như
trước. Các kỳ thi Hương, thi Hội, thi Đình đều có có chút đổi mới từ 1909. Bài
luận chữ Quốc Ngữ và bài dịch Pháp văn ra Việt văn được thêm vào các kỳ thi
nhưng chỉ là môn phụ và có tính cách tự nguyện chớ không bắt buộc. Trong kỳ thi
Hội và thi Đình năm 1910 có thêm bài thi cách trí, địa dư nước nhà, sử Thái
Tây, nhân vật nước nhà và thời sự. Đặc biệt là bài thi được chấm điểm theo lối
mới của Pháp với thang điểm từ 0 đến 20. Triều đình tựa trên thang điểm đó mà
định làm 6 hạng trúng tuyển: Trạng Nguyên (20 điểm), Bảng Nhỡn (18-19 điểm),
Thám Hoa (16-17 điểm), đệ nhị giáp Tiến Sĩ (từ 12 đến 15 điểm), Đồng Tiến Sĩ
(từ 10 đến 12 điểm), và Phó Bảng (từ 7 đến 9 điểm). Song song với việc thành
lập hội đồng cải cách giáo dục, một trường sư phạm cũng sẽ được thiết lập để
đào tạo giáo viên tiểu học người Việt. Ngoài ra, trong mục đích tuyên truyền,
Toàn Quyền Paul Beau cũng cho mở một trường đại học hồi năm 1907 ở Hà Nội để
thu phục nhân tâm (sau khi chính quyền cho đóng cửa Đông Kinh Nghĩa Thục và bắt
giam một số nhà cách mạng). Nhưng đại học chỉ được mở ra mà không hoạt động,
phải đến năm 1918, dưới thời Toàn Quyền Albert Sarraut, trường mới thật sự mở
cửa. Trước đó một năm, năm 1917, chánh quyền thuộc địa đã cho ban hành một hệ
thống giáo dục mới có qui cũ, thống nhất trên toàn quốc, về tất cả các phương
diện tổ chức hành chánh, chương trình học, qui chế giáo chưc, và tổ chức thi cử.
Đến đây cái học cũ trên toàn quốc hoàn toàn lui vào bóng tối nhường chổ cho
giáo dục mới.
Người sốt sắng thực hiện mục tiêu văn minh hóa người Việt Nam là
Le Myre de Vilers. Để thực hiện sứ mạng văn minh hóa người Việt ông cho mở rất
nhiều trường học, từ trường sơ cấp ở làng đến trường tiểu học ở quận và tỉnh,
và đặc biệt nhất là một trường trung học (collège) ở Nam Kỳ. Đây là trường
trung học đầu tiên và vào cuối thế kỷ XIX đây là trường trung học duy nhất cho
cả Miền Nam. Trường chỉ có hai năm học và mang tên là Collège de MỹTho. Nhà văn
Hồ Biểu Chánh (1885-1958) đã từng học ở trường này. Sang thế kỷ XX trường có đủ
bốn năm học và được đổi tên là Collège Le Myre de Vilers, do một số giáo sư của
trường đề nghị để ghi nhớ ông Thống Đốc dân sự đầu tiên đã mở ra trường này và
cũng để ghi nhớ công lao của ông đối với việc phát triển nền giáo dục mới ở Nam
Kỳ. Đến giữa thập niên 1950 trường được phát triển thêm, có các lớp đệ nhị cấp
đủ để trở thành trường trung học đệ nhị cấp. Trường được đổi thành Lycée và mang
tên một danh nhân Miền Nam Việt Nam: cụ Đồ Chiểu. Danh xưng Lycée Nguyễn Đình
Chiểu rồi Trung Học Nguyễn Đình Chiểu ra đời từ đó và còn mãi đến bây giờ.
[…]
Giáo dục, hiểu theo nghĩa xã hội, là cách thức xã hội hóa (socializing) con người. Giáo dục có nhiệm vụ dạy cho con người biết cách sống trong xã hội, biết nền văn hóa mà con người được sinh ra trong đó để sống cho thích hợp. Cách ăn uống, lễ phép, cách đối xử, các nghề nghiệp sinh sống, phong tục tập quán, v v … tất cả đều có trong xã hội đương thời và nhiệm vụ của giáo dục (từ giáo dục trong gia đình đến giáo dục ngoài xã hội) là tập luyện cho con người thích nghi vào trong xãhội văn hóa đó. Tuy nhiên trong ba bậc học (tiểu học, trung học, và đại học) ở học đường, mỗi bậc có cách xã hội hóa khác nhau. Ở tiểu học giáo dục nhằm xã hội hóa con người ở mức độ cơ bản, nghĩa là người ta chỉ dạy những cái cần thiết căn bản của xã hội. Ở bậc trung học sự xã hội hóa nhắm vào việc thích nghi con người vào tình trạng văn hóa mà người ta muốn có. Thường khi người ta (các nhà làm chính trị, những nhà lãnh đạo) muốn có xã hội thế nào thì người ta nhắm vào lớp người vào trung học để đào luyện họ trỡ thành những công dân kiểu mẫu cho xã hội người ta muốn có. Những người này sẽ được xã hội hóa để bảo tồn những gì đã có. Ở bậc đại học sự xã hội hóa bớt đi rất nhiều tính cách uốn nắn mà thường có tính cách khơi động nhiều hơn. Người lên đại học phải mở rộng sự hiểu biết của mình để đón nhận những mới lạ để có thể hướng xã hội đến những sửa đổi, tiến triển, hiện đại nhiều hơn là bảo tồn những gì đã có sẵn từ trước. Các trường trung học của chúng ta cũng đóng vai trò xã hội hóa học sinh giống như bao nhiêu trường trung học khác trên thế giới. Việc xã hội hóa ở đây là thích nghi con người vào trong xã hội Miền Nam nước Việt vào giữa thế kỷ XX.
Giáo dục, hiểu theo nghĩa xã hội, là cách thức xã hội hóa (socializing) con người. Giáo dục có nhiệm vụ dạy cho con người biết cách sống trong xã hội, biết nền văn hóa mà con người được sinh ra trong đó để sống cho thích hợp. Cách ăn uống, lễ phép, cách đối xử, các nghề nghiệp sinh sống, phong tục tập quán, v v … tất cả đều có trong xã hội đương thời và nhiệm vụ của giáo dục (từ giáo dục trong gia đình đến giáo dục ngoài xã hội) là tập luyện cho con người thích nghi vào trong xãhội văn hóa đó. Tuy nhiên trong ba bậc học (tiểu học, trung học, và đại học) ở học đường, mỗi bậc có cách xã hội hóa khác nhau. Ở tiểu học giáo dục nhằm xã hội hóa con người ở mức độ cơ bản, nghĩa là người ta chỉ dạy những cái cần thiết căn bản của xã hội. Ở bậc trung học sự xã hội hóa nhắm vào việc thích nghi con người vào tình trạng văn hóa mà người ta muốn có. Thường khi người ta (các nhà làm chính trị, những nhà lãnh đạo) muốn có xã hội thế nào thì người ta nhắm vào lớp người vào trung học để đào luyện họ trỡ thành những công dân kiểu mẫu cho xã hội người ta muốn có. Những người này sẽ được xã hội hóa để bảo tồn những gì đã có. Ở bậc đại học sự xã hội hóa bớt đi rất nhiều tính cách uốn nắn mà thường có tính cách khơi động nhiều hơn. Người lên đại học phải mở rộng sự hiểu biết của mình để đón nhận những mới lạ để có thể hướng xã hội đến những sửa đổi, tiến triển, hiện đại nhiều hơn là bảo tồn những gì đã có sẵn từ trước. Các trường trung học của chúng ta cũng đóng vai trò xã hội hóa học sinh giống như bao nhiêu trường trung học khác trên thế giới. Việc xã hội hóa ở đây là thích nghi con người vào trong xã hội Miền Nam nước Việt vào giữa thế kỷ XX.
Vào cuối thế kỷ XIX Nam Kỳ có khoảng một triệu rưởi dân số,
nhưng chỉ có khoảng 5 ngàn học sinh cho tất cả từ sơ cấp đến tiểu học. Tỷ lệ
người đi học tuy thấp so với sĩ số mà ta có sau này dưới thời Đệ Nhị Cộng Hòa,
nhưng so với thời đại các nhà Nho thì đây là con số khá lớn. Số đông này là số
được hấp thụ giáo dục mới. Họ sẽ là lớp người dùng chữ Quốc Ngữ thay chữ Nôm và
chữ Hán, họ cũng là những người biết chút ít tiếng Pháp và một số kiến thức
khoa học phổ thông có thể xem như là giới trí thức tân học ở thời kỳ chuyển
tiếp này. Đó là tình trạng giáo dục ở Miền Nam. Và đến năm 1917 chính quyền
thuộc địa mới có một hệ thống giáo dục thống nhất cho cả ba miền Nam, Trung,
Bắc. Hệ thống giáo dục mới này – gọi là Giáo Dục thời Pháp thuộc – gồm có ba
bậc: Tiểu học, Trung học, và Đại học. Bậc Tiểu học được chia làm hai cấp: (1)
cấp Sơ học gồm các lớp Đồng Ấu (Cours Enfantin) hay lớp Năm hoặc lớp Chót, lớp
Dự Bị (Cours Preparatoire) hay lớp Tư, và lớp Sơ Đẳng (Cours Elementaire) hay
lớp Ba, (2) cấp Tiểu học gồm có lớp Nhì Một Năm (Cours Moyen Première Année),
lớp Nhì Hai Năm (Cours Moyen Deusième Année) và Lớp Nhất (Cours Supérieur). Mỗi
làng có một trường sơ cấp. Ở tổng lớn hay ở quận (đông dân) có thể có trường
tiểu học nếu có đông học sinh. Tại mỗi tỉnh lỵ có một trường tiểu học lớn (có
nhiều lớp cho mỗi cấp lớp), như trường Nam Tiểu học Mỹ Tho chẳng hạn có được 5
lớp Nhất, 1 lớp Tiếp Liên (Cours des Certifiés) hồi thập niên 1940. Học xong
lớp Ba, tức là hết Sơ cấp, học sinh phải thi tuyển vào lớp Nhì Một Năm để học
tiếp bậc Tiểu học, và khi xong lớp Nhất (hết bậc Tiểu học) học sinh lại phải
thi lấy bằng Sơ Tiểu tiếng Pháp viết tắt là bằng CEPCI (tức là Certificat
d’Études Primaire Complémentaire Indochinoise). Đậu xong bằng này học sinh mới
được dự kỳ thi tuyển vào năm Thứ Nhất trường Trung học.
Bậc Trung học cũng chia làm hai cấp. Cấp thứ nhất gọi là Cao
Đẳng Tiểu Học (Enseignement Primaire Superieur, cũng như trung học đệ nhất cấp
sau này) gồm có bốn lớp: Năm Thứ Nhất (Première Année), Năm Thứ Nhì (Deuxième
Année), Năm Thứ Ba (Troisième Année) và Năm Thứ Tư (Quatrième Année). Học xong
Năm Thứ Tư học sinh thi lấy bằng Thành Chung hay DEPSI (Diplôme d’Études
Primaire Superieur Indochinois). Những ai muốn thi lấy bằng cắp Pháp thì có thể
thi bằng Brevet Premier Cycle hay Brevet Elementaire. Cấp thứ hai là ban Tú Tài
gồm các lớp Second (như Đệ Tam hay lớp 10 sau này), Première (như Đệ Nhị hay
lớp 11) và lớp Terminale (như Đệ Nhất hay lớp 12). Xong lớp Première (Đệ Nhị
hay lớp 11) học sinh phải thi Tú Tài I (Baccalauréat Première Partie), đậu được
Tú Tài I mới được vào học lớp Đệ Nhất hay lớp 12. Học hết lớp 12 học sinh phải
thi lấy bằng Tú Tài II (Baccalauréat Deuxième Partie). Khi lên lớp Terminale
(lớp 12) học sinh phải chọn một trong ba ban chính sau đây: (1) ban Triết
(Philosophie), (2) ban Khoa Học Thực Nghiệm (Sciences Expérimentales), và (3)
ban Toán (Mathématiques Élémentaires)… Học hết lớp 12 học sinh phải thi lấy
bằng Tú Tài II (Baccalauréat Deuxième Partie) về một trong các ban nói trên. Bằng
Tú Tài II thường được gọi tắt là Bac. Philo. (Tú Tài II ban Triết), Bac. Math.
(Tú Tài II ban Toán) v v … Xong Tú Tài học sinh mới được vào Đại học, và dưới
thời Pháp thuộc chỉ có một đại học duy nhất ở Hà Nội cho toàn cõi Đông Dương.
Một số không nhỏ học sinh Việt Nam, nhất là ở Miền Nam, sau khi xong Tú Tài
thường qua Pháp học tiếp bậc đại học thay vì ra Hà Nội học.
Chương trình học trên đây chịu ảnh hưởng nặng nề của chương
trình Pháp, dùng tiếng Pháp làm chuyển ngữ. Tiếng Việt chỉ được xem như một
sinh ngữ phụ. Đúng ra đây chỉ là chương trình Pháp thật sự nhưng có chút sửa
đổi nhỏ áp dụng cho các trường Việt Nam. Chương trình này kéo dài đến hết Thế
Giới Đại Chiến Thứ Hai trên toàn cỏi Việt Nam. Sau năm 1945, sau khi Việt Nam
tuyên bố độc lập, chương trình Việt được ban hành. Chương trình này – chương
trình Hoàng Xuân Hản – được đem ra áp dụng trước ở Bắc Việt và Trung Việt,
nhưng riêng ở Miền Nam thì vì có sự trở lại của người Pháp nên chương trình
Pháp vẫn còn tiếp tục. Dưới thời Pháp đô hộ giáo dục phát triển rất chậm chạp.
Quyền quyết định về giáo dục cũng như chính sách giáo dục hoàn toàn nằm trong
tay người Pháp. Phải đến giữa thập niên 1950, dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa,
chương trình Việt mới bắt đầu được áp dụng ở trong Nam để thay thế chương trình
Pháp. Cũng từ khoảng thời gian đó, thời Đệ Nhất Cộng Hòa, các nhà lãnh đạo giáo
dục Việt Nam mới có cơ hội đóng vai trò lãnh đạo quan trọng của họ. Những đóng
góp của họ thật lớn lao đưa đến sự bành trướng và phát triển vô cùng mạnh mẽ
của nền giáo dục quốc gia dưới thời Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa.
[…]
Triết lý giáo dục VNCH nằm trong những Nguyên Tắc Căn Bản do Bộ
Giáo Dục ấn hành năm 1959 và sau đó được ghi lại trong hiến pháp 1967. Những
nguyên tắc căn bản này được tóm lược như sau:
Thứ nhất: Giáo dục Việt Nam là giáo dục nhân bản (humanistic
education). Nhân là người hay con người, bản là gốc là căn bản. Trong lãnh vực
triết lý, thuyết nhân bản chủ trương con người có địa vị quan trọng trong đời
sống trên thế gian này. Thuyết nhân bản lấy con người làm gốc, lấy cuộc sống
của con người trong cuộc đời này làm căn bản chớ không nhắm đến linh hồn hay
một cuộc đời nào khác ngoài thế giới mà loài người hiện đang sống trong đó.
Theo thuyết này, con người có giá trị đặc biệt của con người, cao cả hơn tất cả
các giống sinh vật khác trên đời này. Chỉ có con người mới có văn hóa, có những
hoạt động có suy tư, có sáng tạo, làm cho cuộc sống của con người tiến hóa luôn
từ xưa đến giờ. Nhân bản cũng chỉ tính cách linh thiêng của con người, khác hơn
mọi loài vật, “nhân linh ư vạn vật”, và con người phải được tôn trọng bởi tính
linh thiêng đó. Con người tự nó là một cứu cánh chớ không phải là một phương
tiện. Triết lý nhân bản chấp nhận có sự khác biệt giữa các cá nhân nhưng không
chấp nhận dùng sự khác biệt đó để đánh giácon người, và không chấp nhận sự kỳ
thị hay phân biệt giàu nghèo, địa phương, tôn giáo, chủng tộc… Với triết lý
nhân bản, con người có giá trị của con người như nhau, và mọi người đều có
quyền được hưởng những cơ hội đồng đều về giáo dục.
Thứ hai: Giáo dục Việt Nam là giáo dục dân tộc (nationalistic
education). Giáo dục tôn trọng giá trị truyền thống của dân tộc trong mọi sinh
hoạt liên hệ tới gia đình, nghề nghiệp, và quốc gia. Giáo dục phải bảo tồn và
phát huy được những tinh anh hay những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân
tộc. Dân tộc Việt Nam có mặt trên thế giới này từ bao nhiêu ngàn năm trước. Dân
tộc đó có tiếng nói riêng, có lịch sử riêng, có một nền văn hóa riêng của nó từ
bao đời. Dân tộc tính đó trong văn hóa cần phải được các thế hệ biết đến, bảo
tồn và phát huy, để không bị tan biến hay tiêu trầm trong những nền văn hóa
khác.
Thứ ba: Giáo dục Việt Nam là giáo dục khai phóng. Tinh thần dân
tộc không nhất thiết phải bảo thủ, không nhất thiết phải đóng kín cữa. Ngược
lại, giáo dục phải mở rộng, tiếp nhận những kiến thức khoa học kỹ thuật tân
tiến trên thế giới, tiếp nhận tinh thần dân chủ, phát triển xã hội, giá trị văn
hóa nhân loại để góp phần vào việc hiện đại hóa quốc gia xã hội, làm cho xã hội
tiến bộ tiếp cận với văn minh thế giới.
[…]
Từ những nguyên tắc căn bản trên đây, quan niệm về giáo dục của
Việt Nam Cộng Hòa bao gồm những tư tưởng nền tảng sau đây liên hệ tới những mục
tiêu chính của giáo dục:
Phát triển toàn diện mỗi cá nhân. Trong tinh thần tôn trọng nhân
cách và giá trị của cá nhân học sinh, giáo dục hướng vào việc phát triển toàn
diện mỗi cá nhân theo bản tính tự nhiên của mỗi người và theo những định luật
phát triển tự nhiên về vật lý và tâm lý. Nhân cách và khả năng riêng của mỗi cá
nhân học sinh phải được lưu ý đúng mức. Cung ứng cho học sinh đầy đủ tin tức,
dữ kiện, để học sinh phán đoán, lựa chọn, không che dấu tin tức hay chỉ cung
cấp những tin tức chọn lọc thiếu trung thực để nhồi sọ học sinh theo một chủ
trương, một hường đi định sẵn nào.
Phát triển tinh thần quốc gia ở mỗi học sinh bằng cách: giúp học
sinh hiểu biết hoàn cảnh xã hội, môi trường sinh sống, và lối sống của người
dân; giúp học sinh hiểu biết lịch sử nước nhà, yêu thương xứ sở mình, ca ngợi
tinh thần đoàn kết, tranh đấu của người dân trong việc chống ngoại xăm bảo vệ
tổ quốc, yêu thương giúp đở nhau trong tình đồng bào; giúp học sinh học tiếng
Việt và xử dụng tiếng Việt một cách có hiệu quả; giúp học sinh nhận biết cái
đẹp của quê hương xứ sở, những tài nguyên phong phú của quốc gia, những phẩm
hạnh truyền thống của dân tộc; giúp học sinh bảo tồn những truyền thống tốt
đẹp, những phong tục giá trị của quốc gia; giúp học sinh có tinh thần tự tin,
tự lực, và tự lập.
Phát triển tinh thần dân chủ và tinh thần khoa học bằng cách:
giúp học sinh tổ chức những nhóm tự trị với sự phát triển tinh thần cộng đồng
và ý thức tập thể; giúp phát triển sự phán đoán với tinh thần trách nhiệm và kỷ
luật; giúp phát triển tính tò mò và tinh thần khoa học; giúp đón nhận những giá
trị văn hóa rộng rãi.
Tóm lại, mục đích của giáo dục quốc gia là giúp mỗi cá nhân phát
triển toàn diện để trở thành những người có kỹ năng thưc tiễn, có khả năng tư
duy, để làm việc, sinh sống, có đạo đức, có tình người, để gây dựng hạnh phúc
gia đình và hội nhập vào xã hội góp phần vào việc bảo vệ và phát triển quốc
gia. Người được đi học sẽ trỡ thành người tốt và có ích cho chính mình, cho gia
đình, và cho quốc gia dân tộc. Giáo dục Việt Nam không phân biệt giàu nghèo,
không phân biệt giai cấp xã hội, không phân biệt tôn giáo, địa phương, chủng
tộc. Giáo dục Việt Nam cố tạo những cơ hội đồng đều cho mọi người được đi học
tuy nhiên không phải ai cũng có thể học được đến hết bậc đại học, hay ai cũng
học đến bác sĩ, kỷ sư hoặc các ngành cao đẳng chuyên nghiệp khác. Tùy theo hoàn
cảnh, tùy theo khả năng và sở thích, có người chỉ học được hết Tiểu Học, có
người học hết Trung Học Đệ Nhất Cấp, hay Trung Học Đệ Nhị Cấp, có những người
khác thì học đến hết bậc đại học. Nhưng dù bất cứ học đến bậc học nào, mục đích
của giáo dục vẫn phải là giúp tất cả mọi người trỡ thành người tốt, người đã
được phát triển về khả năng cũng như đạo đức, dù khả năng đó ở mức đô nào. Nếu
có những người chỉ có cơ hội học hết Tiểu Học thôi, thì giáo dục vẫn có bổn
phận giúp họ phát triển đến hết mức đó, và vẫn làm thế nào giúp họ trỡ thành
người tốt với mức học Tiểu Học của họ.
[…]
Tựa trên mục đích của giáo dục đã nêu trên, hệ thống giáo dục
của Việt Nam Cộng Hòa trong những năm sau cùng trước biến cố 1975, được thiết
lập trong tinh thần tiếp cận hệ thống giáo dục của các quốc gia tiền tiến trên
thế giới. Hệ thống này gồm ba cấp bậc: Tiểu học, Trung học, và Đại học. Tiểu
học và Trung Học Đệ Nhất Cấp là cái học Phổ Thông (gồm 9 năm học). Trung Học Đệ
Nhị Cấp bắt đầu chia ngành chuyên môn. Đây là những năm chuyển tiếp để vào các
ngành chuyên môn hơn ở Đại Học, hoặc ra đời làm việc sinh sống. Riêng ở hai bậc
Tiểu và Trung học, hệ thống giáo dục Việt Nam là hệ thống 5-4-3, với 12 năm
liên tục, từ Lớp 1 đến Lớp 12, phân bố như sau:
Tiểu học (chỉ có Phổ Thông):
Lớp Một (Lớp Năm cũ)
Lớp Hai (Lớp Tư cũ)
Lớp Ba (Lớp Ba cũ)
Lớp Bốn (Lớp Nhì cũ)
Lớp Năm (Lớp Nhứt cũ)
Trung học Đệ Nhất Cấp (chỉ có Phổ Thông):
Lớp Sáu (Đệ Thất cũ)
Lớp Bảy (Đệ Lục cũ)
Lớp Tám (Đệ Ngũ cũ)
Lớp Chín (Đệ Tứ cũ)
Trung học Đệ Nhị Cấp (Phổ Thông và Chuyên Nghiệp):
Lớp Mười (Đệ Tam cũ)
Lớp Mười Một (Đệ Nhị
cũ)
Lớp Mười Hai (Đệ Nhất
cũ)
Bắt đầu Trung học Đệ Nhị Cấp, từ Lớp Mười, học sinh phải chọn
Ban chuyên môn, và ngành chuyên môn như sau (từ 1973):
Ngành Phổ Thông:
Ban A (hay Ban Khoa Học Thực Nghiệm)
Ban B (hay Ban Toán)
Ban C (hay Ban Sinh
Ngữ)
Ban D (hay Ban Cổ Ngữ)
Ngành chuyên nghiệp
Nông Lâm Súc (Trung học Nông
Lâm Súc)
Ngành chuyên nghiệp Kỹ
Thuật (Trung Học Kỹ
Thuật)
Bậc Đại học bao gồm:
Đại Học Cộng Đồng (hai
năm)•
Đại Học (chương trình
Cử Nhân trở lên)•
5. ĐIỀU KIỆN NHẬP HỌC:
Vào Lớp Một, bậc Tiểu
Học:
Tất cả trẻ em từ 6 tuổi là nhận vào Lớp Một để bắt đầu bậc Tiểu
Học. Tuy không có luật bắt buộc phải đi học, nhưng hầu hết trẻ em đều được đi
học hết bậc Tiểu Học miễn phí ở các trường Tiểu Học công lập. Học sinh có thể
học trường Tiểu Học tư thục nếu phụ huynh muốn.
Vào Lớp Sáu, bậc Trung
Học Đệ Nhất Cấp
Muốn vào học Lớp Sáu, Trung Học Đệ Nhất Cấp, học sinh phải học
xong Tiểu Học và phải qua một kỳ Thi Tuyển Vào Lớp Sáu. Đây là kỳ thi gay go vì
số chổ ở Lớp Sáu Trung Học công lập có giới hạn. Chỉ khoảng 62% học sinh xong
Tiểu Học được tuyển chọn vào Lớp Sáu trường công. Học trường công thì không
phải trả học phí. Học sinh thi rớt vào Lớp Sáu trường công có thể lên học bậc
trung học đệ nhất cấp ở các trường tư thục (có học phí).
Vào Lớp Mười Trung Học
Đệ Nhị Cấp
Học sinh học xong Lớp Chín, có đủ điểm lên lớp, được vào Lớp
Mười, ngành Phổ Thông, không phải qua một kỳ thi nào. Vào trường công thì không
phải đóng học phí. Tuy nhiên, khi vào Lớp Mười học sinh phải lựa chọn Ban. Việc
chọn Ban có tính cách tự nguyện, do tự học sinh muốn chọn Ban nào cũng được tùy
theo sở thích của mình chớ không qua một sự hướng dẫn, hay chỉ bảo nào của nhà
trường. Vào lớp Mười các ngành chuyên môn như Nông Lâm Súc hay Kỹ Thuật thì học
sinh phải qua một kỳ thi tuyển vì số chổ giới hạn hơn ngành Phổ Thông.
Vào Năm Thứ Nhất Đại
Học
Học sinh đậu xong Tú Tài, kể như tốt nghiệp bậc Trung Học, có đủ
điều kiện để vào học Năm Thứ Nhất bậc Đại Học. Tuy nhiên vì có một số đại học
có số chổ rất giới hạn nên đòi hỏi học sinh phải dự một kỳ thi tuyển như các
đại học Y, Dược, Nha, Kỷ Thuật, Sư Phạm. Sự tuyển chọn hoàn toàn tựa trên khả
năng của thí sinh, không có vấn đề lý lịch gia đình chen vào. Các đại học khác
như Luật, Khoa Học, Văn Khoa không có thi tuyển, chỉ nhận thẳng những học sinh
đã có bằng Tú Tài, không có một sự phân biệt, kỳ thị nào. Trường công thì không
phải đóng học phí dù là bậc đại học. Chỉ có đóng tiền đi thi cuối năm ở một số
trường hay phân khoa. Có những chương trình có học bổng cho sinh viên như
trường sư phạm chẳng hạn.
6. CHƯƠNG TRÌNH HỌC
Chương trình học ở các bậc Tiểu và Trung học do Bộ Văn Hóa Giáo
Dục và Thanh Niên ban hành. Chương trình học này tựa trên triết lý giáo dục,
mục đích và hệ thống giáo dục đã nêu trên. Chương trình do Ủy Ban Soạn Thảo
Chương Trình, gồm một số thanh tra và giáo sư các môn liên hệ soạn thảo và đề
nghị. Chương trình này được áp dụng đồng nhất cho cả trường công lẫn trường tư
trên toàn quốc.
• Bậc Tiểu
Học:
Chương trình Tiểu Học cung ứng cho học sinh những kiến thức cần
thiết để ra đời hay lên học ở bậc Trung Học, cùng với những kỷ năng cơ bản
(basic skills), những kỹ năng thực tiển (practical skills) và những cách thế
phát triển cá nhân hầu có thể thích ứng dễ dàng với môi trường sinh sống.
Chương trình học chú trọng nhiều vào ba môn chính là Quốc Văn
(tiếng Việt), Toán, Khoa Học Thường Thức. Bên cạnh ba môn chính trên đây phần
Luân Lý với Công Dân Giáo Dục cũng được đặc biệt lưu ý. Số giờ và môn học được
phân bố như sau:
1) Quốc Văn từ 7 tiếng 1/2 đến 9 tiếng 1/2 mỗi tuần tùy theo
lớp, và bao gồm tập đọc, ngữ vựng, tập viết, chính tả, văn phạm, tập làm luận
văn (tả vật, tả cảnh, tả người, thuật sự, viết thơ).
2) Công Dân Giáo Dục dạy về quyền và bổn phận của một công dân:
từ 2 tiếng12 phút đến 2 tiếng ½ mỗi tuần tùy theo lớp.
3) Toán: từ 2 tiếng ½ đến 4 tiếng mỗi tuần tuỳ theo lớp, gồm có
bốn phép toán, phân số, số học và hình học
4) Khoa Học Thường Thức: 2 tiếng ½ mỗi tuần bao gồm vạn vật, vệ
sinh, các chứng bệnh, phép đo lường,
5) Sử Địa: SửViệt Nam và thế giới: 1 tiếng mỗi tuần, chỉ có từ
lớp Ba trở lên; Địa Lý Việt Nam và thế giới: 1 tiếng mỗi tuần từ lớp Ba trỡ
lên.
6) Nhiệm Ý: Thể Dục: 1 tiếng ½ đến 2 tiếng mỗi tuần tùy theo
lớp; Hội Họa: 1 tiếng mỗi tuần; Nữ Công Gia Chánh: 2 tiếng mỗi tuần riêng cho
nữ sinh từ lớp Ba trở lên.
Sinh Ngữ không có trong chương trình Tiểu Học. Các trường Tiểu
học công lập không có sinh ngữ trừ trường hợp đặc biệt của các Trung Tâm Giáo
Dục do người Pháp chuyển giao cho Bộ GD năm 1969. Có 5 trung tâm tất cả(Trung
Tâm Lê Quí Đôn ở Sài Gòn, Trung Tâm Hồng Bàng ở Chợ Lớn, Trung Tâm Yersin ở Đà
Lạt, Trung Tâm Pascal ở Nha Trang, và Trung Tâm Nguyễn Hiền ở Đà Nẳng). Ở các
trung tâm này có thêm giờ Pháp Văn ở bậc Tiểu Học do giáo sư Pháp đảm trách và
do cơ quan Văn Hóa Pháp đài thọ. Một số trường Tiểu học tư thục có thêm giờ
sinh ngữ, ngoài số giờ ấn định của chương trình Tiểu học công lập.
• Bậc Trung
Học Đệ Nhất Cấp:
Chương trình Trung Học Đệ Nhất Cấp cung ứng cho học sinh những
kiến thức tổng quát, có phần sâu rộng hơn bậc tiểu học nhưng chưa đi vào chuyên
môn như ở Trung Học Đệ Nhị Cấp. Chương trình này một mặt bổ túc cho những kiến
thức đã gặt hái được ở bậc Tiểu Học, và mặt khác chuẩn bị cho học sinh đón nhận
những kiến thức sâu rộng hơn ở bậc Trung Học Đệ Nhị Cấp.
Chương trình bao gồm:
1) Quốc văn: văn phạm, chính tả, giảng văn (văn xuôi và văn
vần), luận văn (luận đề luân lý), 6 giờ mỗi tuần.
2) Sinh ngữ: học sinh chọn một trong hai sinh ngữ Anh hoặc Pháp.
(sinh ngữ Anh, dùng English for Today, từ Book I đến Book III ; sinh ngữ Pháp
dùng Civilisation Francaise, tome I: Le Francais Elementaire). 6 giờ mỗi tuần ở
các lớp 6 và 7; 5 giờ mỗi tuần ở các lớp 8 và 9.
3) Lý Hóa: 2 giờ mỗi tuần ở các lớp 6 và 7; 2 giờ ½ ở các lớp 8
và 9. Gồm các bài học về (1) Vật Lý: cân, nguyên lý Archimèdes, nhiệt độ, điện,
quang; (2) Hóa Học: H2O, Oxy và oxy hóa, Hyt ro và không khí, acid và bases,
kim khí, hóa học hữu cơ.
4) Vạn Vật: 1 giờ ½ mỗi tuần cho các lớp 6, 7, 8, 9. Gồm sinh
vật, cây cỏ, thú vật, đất đá, con người.
5) Toán: 3 giờ mỗi tuần cho các lớp 6 và 7; 4 giờ mỗi tuần cho
các lớp 8 và 9. Gồm các bài học về: số học, phân số, đại số, phương trình bậc
nhất, hàm số (y = ax và y = ax + b); phương trình bậc hai, hàm số (y = x2 ; y =
ax2 ; y = 1/x ; y = a/x). Về hình học: đường thẳng, đoạn thẳng, gốc vuông, tam
giác đồng dạng, đa giác ; hình học không gian: mặt phẳng song song, hình nón,
hình cầu.
6) Sử Địa: 3 giờ mỗi tuần cho các lớp 6, 7, 8, và 9. Gồm: (1) Sử
Ký: Việt Nam từ khởi thủy đến 1945; sử thế giới (sự phát triển kỹ nghệ Âu Châu
và sự bành trướng của chủ nghĩa thự dân; các nước Á Châu trước chủ nghĩa thực
dân – Trung Hoa, Ấn Độ, Nhật Bản; Đại Chiến Thế Giới Thứ Nhất; thế giới giữa
hai thế chiến); (2) Địa lý: trái đất, Âu Châu, Phi Châu, Mỹ Châu, Á Châu (trừ
Việt Nam), Úc Châu, và Việt Nam.
7) Công Dân: 1 giờ mỗi tuần cho các lớp 6 và 7, 2 giờ mỗi tuần
cho các lớp 8 và 9. Gồm những bài học về: cá nhân và gia đình, tổ chức ở học
đường, bổn phận của học sinh, đời sống xã hội và tôn giáo, quyền và bổn phận
một công dân.
8) Nhiệm Ý: 3 giờ mỗi tuần cho các lớp 6, 7, 8, 9. Gồm: hội họa,
âm nhạc, thể thao cho nam sinh; nữ công gia chánh, âm nhạc, thể thao cho nữ
sinh.
• Bậc Trung
học Đệ Nhị Cấp:
Chương trình học ở bậc trung học đệ nhị cấp một mặt giúp học
sinh hoàn tất nền học vấn bậc trung học và mặt khác sửa soạn cho học sinh bước
vào ngưỡng cữa đại học. Ở những năm học này học sinh được lựa chọn những môn
học thích hợp với khả năng và sở thích của mình. Chương trình học do đó, không
đồng nhất, màđược thay đổi tùy theo ngành và tùy theo ban. Về ngành thì có
ngành Phổ Thông, ngành Nông Lâm Súc và ngành Kỹ Thuật. Mỗi ngành lại chia làm
nhiều ban. Ngành Kỹ Thuật có các ban Cơ Khí (mechnics), Điện (electricity),
Điện Tử (electronics), Rèn (forging), Hàn (welding) v v …Ngành Nông Lâm Súc có
ban Canh Nông (agriculture), Lâm (forestry), và Súc (animal husbandry). Ngành
Phổ Thông có các Ban A, Ban B, Ban C và Ban D. Riêng ngành phổ thông, ngành có
nhiều học sinh nhất, số giờ học theo từng môn và theo từng ban được ghi rõ
trong bản phân phối đính kèm. Nhìn chung ta thấy Ban A (tức ban Khoa Học Thực
Nghiệm) chú trọng vào Vạn Vật, và Vật Lý – Hóa Học, Ban B (hay ban Toán) chú
trọng vào Toán học và Vật Lý – Hóa Học, Ban C chú trọng vào Triết học (Tâm Lý,
Luận Lý, Đạo Đức và Siêu Hình học) và Sinh Ngữ, và Ban D chuyên về Triết học và
Cổ Ngữ. Về Sinh Ngữ, có sinh ngữ chính và sinh ngữ phụ. Sinh ngữ chính có thể
là Anh Ngữ hay Pháp Ngữ; sinh ngữ phụ có thể là Anh, Pháp, Đức, Nhật, Y Pha
Nho, Ý. Cổ Ngữ có thể là Hán hay La Tinh. Thường thì hai Ban C và D được gọi
chung là Ban Văn Chương. Các môn học trong chương trình Phổ Thông được tóm ghi
như sau:
1) Quốc Văn: 3 giờ mỗi tuần cho các lớp 10 và 11 A và B; 5 giờ
mỗi tuần cho các lớp 10 và 11 ban C và D. Gồm văn học sử từ khởi thủy đến 1945
(văn học bình dân truyền khẩu, văn chương chữ Nôm và văn học chữ Quốc Ngữ),
giảng văn (15 tác giả và tác phẩm cho ban A và B, và 20 tác giả và tác phẩm cho
ban C và D), luận văn (luận đề văn chương và luân lý).
2) Triết học: 4 giờ mỗi tuần cho các lớp 12 Ban A, 3 giờ mỗi
tuần cho các lớp 12 Ban B, và 9 giờ mỗi tuần cho các lớp 12 Ban C và D. Gồm
Luận Lýhọc và Đạo Đức học cho cả 4 Ban; Tâm Lý Học và Siêu Hình Học cho các Ban
C và D, một phần Tâm Lý Học cho Ban A.
3) Công Dân: 2 giờ mỗi tuần cho các lớp 10 và 11 A, B, C, D; và
1 giờ mỗi tuần cho lớp 12 tất cả các Ban. Gồm: Quốc Gia (dân tộc, lãnh thổ,
chánh phủ, hiến pháp, lập pháp, hành pháp, tư pháp), Liên Hiệp Quốc (tổ chức,
UNESCO, các tổ chức khác), Phong Tục, Kinh Tế (các lý thuyết, sản xuất, thương
mại, tiền tệ, ngân hàng), Chính Trị (dân chủ, chính đảng, chính thể, độc tài,
phát xít, cộng sản).
4) Sử Địa: 3 giờ mỗi tuần cho các lớp 10, 11, và 12 các Ban A,
B, C, D. Gồm: Sử Việt Nam từ 1407 đến 1945, Sử Thế Giới từ cuối thế kỷ XVIII
đến 1945 (Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Nhật, Trung Hoa, Ấn Độ, Đại Chiến Thế Giới I, Đại
Chiến Thế Giới II), Địa Lý Địa Cầu, Địa Lý Việt Nam, Địa Lý Thế Giới (Hoa Kỳ,
Tây Đức, Anh, Nhật, Nga Sô, Trung Hoa Lục Địa, Ấn Độ).
5) Sinh Ngữ I: 4 giờ mỗi tuần cho các lớp 10, và 11 A, B; 3 giờ
mỗi tuần cho lớp 12 A, B, 6 giờ mỗi tuần cho các lớp 10, 11, 12 C và D. Anh Văn
(English for Today, books III và IV cho Ban A và B, books IV và V cho Ban C và
D), hay Pháp Văn (Cours de Langue et de Civilisation Francaise, Tome II cho Ban
A và B, Tome II thêm các tác giả La Fontaine, A. Daudet, A. France, St.
Exupéry, G. Duhamel cho Ban C và D).
6) Sinh Ngữ II: 4 giờ mỗi tuần cho các lớp 10, và 11 A và B, 6
giờ mỗi tuần cho các lớp 10, 11, 12 C. Anh Văn (English for Today, Books I và
II cho Ban A và B, Books I, II, và III cho Ban C), hay Pháp Văn (Cours de
Langue et de Civilisation Francaise, Tome I cho Ban A và B, Tome I và II cho
Ban C). Ban D thì học Cổ Ngữ (chữ Hán hay tiếng La Tinh).
7) Toán: 1 giờ mỗi tuần cho các lớp 10, 11, 12 C, D, 4 giờ mỗi
tuần cho các lớp 10, 11 A, 5 giờ mỗi tuần cho lớp 12 A, 6 giờ mỗi tuần cho các
lớp 10, 11 B, và 9 giờ mỗi tuần cho lớp 12B. Nhiều chi tiết và nhiều phần khó
cho Ban B, tổng quát hơn cho Ban A và rất hạn chế cho Ban C và D. Gồm Đại Số
(phương trình bậc hai và bất bình đẳng, lô ga rít, đạo hàm và hàm số), Hình Học
(hình học giải tích), Chuyển Động(véc to, vận tốc, chuyển động thẳng), Lượng
Giác, Thống Kê và sác xuất.
8) Vạn Vật: 1 giờ mỗi tuần cho các lớp 10, 11, 12, Ban B, C, và
D, 3 giờ mỗi tuần cho các lớp 10, 11 Ban A, và 4 giờ mỗi tuần cho lớp 12 Ban A.
Nhiều chi tiết và thí nghiệm cho Ban A, nhưng nhiều giới hạn cho các Ban B, C,
và D. Gồm địa chất (geology), thực vật (botany), và động vật (animals).
9) Lý Hóa: 1 giờ mỗi tuần cho các lớp 10, 11, 12 Ban C và D, 4
giờ ½ mỗi tuần cho các lớp 10, 11 Ban A và B, 7 giờ mỗi tuần cho lớp 12 Ban A
và B. Nhiều chi tiết và nhiều phần khó cho các Ban A và B. Rất giới hạn cho các
Ban C và D. Gồm Vật Lý (lực, tĩnh, nhiệt,…), Hóa Học (nguyên tử, …).
• Chương Trình
Trung Học Tổng Hợp (comprehensive secondary school curriculum)
7. TÀI LIỆU, DỤNG CỤ
GIÁO KHOA
Phần lớn các sách giáo khoa, và một số các dụng cụ khoa học đều
do Trung Tâm Học Liệu của Bộ Giáo Dục sản xuất và cung cấp với sự giúp dỡ và
viện trợ của các cơ quan ngoại quốc như USAID. Ban tu thư dịch thuật với các
giáo chức và các họa sĩ với chuyên môn và kỹ thuật cao đã soạn thảo trọn bộ
sách bậc tiểu học tốt về nội dung cũng như hình thức. Nhiều sách dịch và tham
khảo đã được duyệt và ấn loát để các học sinh và sinh viên cótài liệu tham
khảo.
Ngoài ra trung tâm còn hợp tác với cơ quan quốc tế UNESCO để
viết và dịch các sách nhi đồng để giúp các em hiểu biết về các nền văn hóa
quanh ta và tạo sự đoàn kết giữa các nhi đồng trên thế giới. Bộ Giáo Dục cũng
dành riêng ngân sách để ấn loát sách giáo khoa bậc tiểu học cho gần 30 sắc tộc
khác nhau.
Để thống nhất các danh từ chuyên môn, Bộ Giáo Dục đã thiết lập
Ủy Ban Quốc Gia soạn thảo danh từ chuyên môn. Nhiều giáo sư đại học đã tham gia
vào việc soạn thảo và Trung Tâm Học Liệu đã bắt đầu ấn hành những tập đầu tiên
danh từ văn học và khoa học.
Trường Sư Phạm: trường
đào tạo giáo chức
Sư phạm là khuôn mẫu dạy dỗ (sư là thầy dạy, phạm là cái khuôn),
hay nói nôm na ra là phương pháp, cách thức dạy học. Trường sư phạm là trường
đào tạo giáo chức, là nơi người ta dạy cách thức hay phương pháp dạy học cho những
người muốn làm nghề dạy học. Có kiến thức chuyên môn sâu rộng là một việc còn
biết cách dạy cho có hiệu quả là một chuyện khác. Kiến thức chuyên môn chỉ mới
là điều kiện cần, phải có kiến thức sư phạm nữa mới là điều kiện đủ để trỡ nên
nhà giáo đúng nghĩa. Người có cử nhân toán học là người có đủ kiến thức về toán
để dạy học sinh ban Tú Tài, kể cả Tú Tài Toán (Ban B) chẳng hạn, nhưng nếu
người đó có thêm kiến thức hay kinh nghiệm sư phạm nữa thì sự truyền đạt những
kiến thức toán của mình cho học sinh càng có nhiều hy vọng có kết quả hữu hiệu
hơn. Vai trò của trường sư phạm là giúp những người muốn làm thầy thu thập được
những kiến thức và kinh nghiệm dạy học đó.
Trường sư phạm (école
normale, hay école de pédagogy) do người Pháp du nhập vào Việt Nam hồi tiền bán
thế kỷ XX, như trường sư phạm Nam Việt, trường Cao Đẳng Sư Phạm Hà Nội chẳng
hạn. Thời Việt Nam Cộng Hòa, có nhiều trường sư phạm đào tạo giáo viên tiểu học
và giáo học bổ túc như Quốc Gia Sư Phạm (Sài Gòn), Sư Phạm Long An, Sư Phạm
Vĩnh Long, Sư Phạm Qui Nhơn, Sư Phạm Bam Mê Thuộc, v v …, hoặc các trường sư
phạm đào tạo giáo sư trung học đệ nhất cấp hoặc đệ nhị cấp như Cao Đẳng Sư Phạm
sau đổi thành Đại Học Sư Phạm (Đại Học Sư Phạm Sài Gòn, Đại Học Sư Phạm Huế,
Đại Học Sư Phạm Đà Lạt). Đại Học Sư Phạm một năm đào tạo giáo sư Trung Học Đệ
Nhất Cấp. Đại Học Sư Phạm ba năm đào tạo giáo sư Trung Học Đệ Nhị Cấp. Đại Học
Sư Phạm gồm nhiều ban như Việt Văn, Triết, Pháp Văn, Anh Văn, Toán, Lý Hóa, Vạn
Vật, Sử Địa. Trường Sư Phạm một mặt giúp các giáo sinh mở rộng kiến thức chuyên
môn (học về nội dung các môn mình sẽ dạy), mặt khác giúp các giáo chức tương
lai trau dồi về sư phạm (cả lý thuyết lẫn thực hành).
• Tu Nghiệp
Giáo Chức
Tu nghiệp là cách tốt nhất để các giáo chức có cơ hội hiện đại
hóa những kiến thức chuyên môn cũng như những kiến thức/kinh nghiệm sư phạm của
mình. Thật ra với đà tiến bộ nhanh chóng của khoa học kỹ thuật ngày nay, những
hiểu biết của con người ở bất cứ lãnh vực nào cũng có thể rất dễ bị lỗi thời
chỉ trong một thời gian ngắn, nếu không có dịp học hỏi, cập nhật hóa những hiểu
biết chuyên môn của mình. Ở địa hạt giáo dục cũng vậy, nhà giáo cần phải để thì
giờ và cơ hội học hỏi thêm, cập nhất hóa những kiến thức chuyên môn của mình để
không bị rơi vào tình trạng hủ hóa. Trong chiều hướng đó, Bộ Văn Hóa Giáo Dục
và Thanh Niên thường xuyên tổ chức các chương trình và lớp tu nghiệp cho các
giáo chức. Với sự viện trợ của các quốc gia tiền tiến trên thế giới như Anh,
Pháp, Mỹ, Nhật, Đức, Bộ VHGDTN thường gởi giáo chức đi tu nghiệp ở ngoại quốc.
Trong nước thỉnh thoảng vẫn có những lớp tu nghiệp hay những buổi hội thảo về
giáo dục để giáo chức có dịp học hỏi, thăng tiến trong nghề nghiệp. Nha Sư Phạm
và các trường sư phạm đảm trách công việc tu nghiệp ở trong nước cho các giáo
chức.
• Đời sống và
tinh thần giáo chức
Chỉ số lương của nhà giáo tuy có khá hơn một số các ngành khác,
nhưng so với mực sống của những công tư chức nói chung thì đồng lương và đời
sống của nhà giáo có tính cách rất khiêm nhường. Chỉ số lương mới ra trường sư
phạm của giáo viên tiểu học là 250, giáo học bổ túc hạng 5 là 320, giáo sư
trung học đệ nhất cấp hạng 4 là400, giáo sư trung học đệ nhị cấp hạng 5 là 430,
hạng 4 là 470. So với các sĩ quan trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa, lương giáo
sư vẫn khá hơn, vì khi bị động viên vào quân ngũ, các sĩ quan giáo sư tuy đã
mất phần phụ cấp sư phạm, vẫn còn được lãnh tiền sai biệt giữa lương căn bản
giáo chức và lương sĩ quan. Với số lương căn bản ấn định, cộng thêm phụ cấp sư
phạm, nhà giáo ở tỉnh thời Đệ Nhất Cộng Hòa có cuộc sống khá thoải mái, có thể
mướn được người làm. Sang Đệ Nhị Cộng Hòa, đời sống bắt đầu mắt mỏ, vật giá leo
thang, nhà giáo cảm thấy chật vật hơn, nhất là ở những thành phố lớn như Sài
Gòn, Đà Nẵng. Tuy vậy lúc nào nhà giáo cũng vẫn giữ vững tinh thần, và tư cách
nhà mô phạm, từ cách ăn mặc thật đứng đắn, đến cách ăn nói giao tiếp với phụ
huynh học sinh, và cả với giới chức chính quyền địa phương. Dù gặp hoàn cảnh
khó khăn đến đâu, nhà giáo cũng hết lòng với sứ mạng, vẫn làm đúng lương tâm
chức nghiệp của mình.
[…]
9. LƯỢNG GIÁ VÀ THI CỬ
Có hai lối thi để lượng giá học sinh ở bậc trung học ngoài kỳ
thi tuyển vào lớp Sáu. Một là thi lục cá nguyệt ở trong lớp học và hai là dự
thi lấy văn bằng ở cấp quốc gia. Thi lục cá nguyệt là kỳ thi do giáo sư dạy lớp
ra đề thi, cho thi trong lớp, và chấm điểm, sắp hạng học sinh về môn của mình.
Mỗi niên học có hai lần thi lục cá nguyệt. Cả bài thi và số điểm sẽ được đệ nạp
trên văn phòng giám học. Trường sẽ cọng điểm các môn, dùng điểm trung bình để
định việc lên lớp cho học sinh.
Thi lục cá nguyệt từ xưa đến giờ không được chú ý đúng mức. Ở
trong trường cũng như ở ngoài xã hội, kể cả phụ huynh học sinh, ít người đặt
nặng tầm quan trọng vào các kỳ thi lục cá nguyệt. Đây là một quan niệm sai lầm
đáng tiếc. Người ta chỉ chú trọng vào các kỳ thi lấy văn bằng ở cấp quốc gia
(national examinations). Và càng về xưa càng nhiều kỳ thi, càng nhiều kỳ thi
càng nhiều gạn lọc, loại bỏ dọc đường, không cho phép học sinh có cơ hội được
học lên cao. Thi theo xưa là một cách chọn lọc quá khắt khe, chỉ chọn lấy toàn
là người thật giỏi, thật ưu tú (elites).
Trước 1960 số thí sinh còn ít và Bộ Giáo Dục còn tổ chức được
rất nhiều kỳ thi như thời Pháp thuộc: thi Tiểu Học, thi vào Đệ Thất, thi Trung
Học Đệ Nhất Cấp với cả hai phần thi viết vấn đáp, thi Tú Tài I (viết và vấn
đáp), thi Tú Tài II (viết và vấn đáp). Tú Tài I và II lại có hai kỳ, kỳ I và II
cho mỗi năm. Sang thập niên 1950 kỳ thi Tiểu Học được bãi bỏ, Trung Học Đệ Nhất
Cấp chỉ có thi viết thôi, không còn vấn đáp, và sau đó, trong thập niên 1960,
cũng bỏ luôn Trung Học Đệ Nhất Cấp nhưng lại tổ chức kỳ thi Trung Học Đệ Nhất
Cấp Tráng Niên cho một ít người lớn tuổi. Đến năm 1973 kỳ thi Tú Tài I cũng
được bãi bỏ chỉ còn giữ kỳ thi Tú Tài II xem như kỳ thi tốt nghiệp bậc Trung
Học. Cách thức làm đề thi khi xưa là đánh máy một ít đề thi rồi giao cho giám
thị phòng chép tay trên bảng. Sang đầu thập niên 1960 đề thi mới được in ronéo
ra nhiều bản để phát cho mỗi thí sinh một bản đề thi. Đề thi làm theo lối luận
đề (essay type), đặt câu hỏi để thí sinh phải viết câu trả lời dài dòng. Lối ra
đề thi này rất chủ quan, giới hạn các câu hỏi trong một số rất ít chủ điểm, đòi
hỏi học sinh phải học thuộc lòng rất nhiều để có thể viết lại kịp thời những gì
đã học trong sách vở. Với lối ra đề thi như vậy người ta không thể nào khảo sát
được một cách khách quan và tổng thể sự thu nhận và hiểu biết của học sinh về
những môn quan trọng trong chương trình học. Đề thi và cách chấm thi theo lối
này dễ đưa tới việc học sinh học tủ, đánh bùa, chép bài, và giám khảo chấm bừa
(thủ vĩ ngâm), tìm bài và nâng điểm. Hồ sơ thi cử như ghi danh, làm phiếu báo
danh, sổ điểm, ghi điểm, cọng điểm, v v… tất cả đều làm bằng tay và khi thí
sinh quá đông thì không tránh được những sơ sót, và đúng ra cũng không còn cách
nào làm nỗi nếu theo cách làm cổ điển này. Các kỳ thi kéo dài hết cả mùa hè và
các giáo sư dạy lớp thi phải đi gác thi, chấm thi luôn, không còn thì giờ nghỉ
ngơi hay làm việc gì khác. Cái hại nhất của các kỳ thi là giới hạn rất nhiều số
người thi đậu, gạn lọc quá nhiều học sinh không để cho có nhiều học sinh tiến
lên các cấp cao ở trên. Một trăm học sinh khi xong Tiểu học chỉ còn không đầy
50 em được vào Trung học công lập, một số khác phải vào tư thục nếu gia đình có
tiền. Trong số 50 em này sau khi xong Trung Học Đệ Nhất Cấp chỉ còn khoảng 20
em vào Đệ Tam rồi Đệ Nhị và dự thi Tú Tài I. Xong Tú Tài I còn không đầy 10
người lên học thi Tú Tài II. Thường thì hầu hết những người đậu xong Tú Tài I
đều sẽ đậu Tú Tài II sau đó. Thành ra tính trung bình không hơn 10% học sinh vào
trung học được tốt nghiệp trung học. Thật là phi lý khi rất nhiều học sinh phải
mất thì giờ học bao nhiêu năm, chính phủ phải tốn bao nhiêu tiền bạc để lo cho
họ đi học rồi rốt lại chỉ một hai ngày thi cử họ đã phải vứt bỏ hết bao nhiêu
công lao, tiền bạc của công cũng như của tư. Cần phải có sự cải tổ về thi cử để
cải tiến hệ thống lượng giá và đo lường trình độ học vấn của học sinh và để
đương đầu với áp lực của sĩ số mỗi ngày một gia tăng nhanh chóng. Thi lấy văn
bằng ở cấp quốc gia quan trọng nhất là thi Tú Tài I và Tú Tài II. Nam sinh thi
rớt Tú Tài I là phải nhập ngũ, đi lính. Nếu có Tú Tài I mà nhập ngũ thì được đi
khóa sĩ quan. Từ đầu thập niên con số thí sinh dự thi Tú Tài gia tăng rất
nhiều, việc tổ chức thi cử theo lối cũ (theo lối của Pháp) không giải quyết nổi
vấn đề làm hồ sơ khảo thí, đánh mật mã, cắt phách, chấm thi, cọng điểm, sắp
hạng, làm chứng chỉ trúng tuyển, vv. . tất cả những công việc đó không còn làm
bằng tay theo lối cổ điển được nữa. Nhất là khi bãi bỏ kỳ thi Tú Tài I thì số
thí sinh dự thi Tú Tài II sẽ gia tăng gần gắp đôi trong năm 1974. Vả lại thi
theo lối cũ, lối luận đề (essay type) có tính cách chủ quan và một số những
khuyết điểm của nó trong vấn đề lượng giá. Thi trắc nghiệm khách quan theo lối
Mỹ tuy không phải là toàn mỹ nhưng vẫn có nhiều ưu điểm hơn trong vấn đề lượng
giá một cách khách quan, khoa học, và có thể tránh được những gian lận thi cử.
Để kịp thời đối phó với tình trạng gia tăng quá nhanh, và để cải tiến vấn đề
lượng giá cho đúng mức, một hội đồng cải tổ thi cử được thành hình từ tháng 11
năm 1972, và ráo riết làm việc để hoàn tất công cuộc đổi mới áp dụng trong kỳ
thi Tú Tài năm 1974 (khóa I thi ngày 26 và 27 tháng 6, và khóa II ngày 28 và 29
tháng 8). Đây là kỳ thi Tú Tài theo lối trắc nghiệm khách quan lần đầu tiên và
cũng là lần sau cùng ở Nam Việt Nam.
Về giấy tờ thủ tục, đầu thập niên 1970 Nha Khảo thí đã ký khế
ước với công ty IBM để điện toán hóa toàn bộ hồ sơ thí vu, từ việc ghi danh,
làm phiếu báo danh, chứng chỉ trúng tuyển, đến các con số thống kê cấn thiết.
Đề thi trắc nghiệm khách quan thì cũng đã được đem vào các kỳ thi Tú Tài I và
II cho môn Công Dân – Sử Địa từ niên khóa 1965-66. Nhưng phải đến năm 1974 thì
toàn bộ các môn thi trong kỳ thi Tú Tài mới gồm toàn những câu trắc nghiệm
khách quan có nhiều lựa chọn (multiple choice). Các vị thanh tra trong ban soạn
đề thi đều có đi dự lớp huấn luyện về cách thức soạn câu hỏi, thử nghiệm các
câu hỏi với trên 1,800 học sinh ở nhiều nơi, phân tích câu trả lời (làm item
analysis) của học sinh để định độ khó (difficulty index; độ khó ở đây là. 60)
của câu hỏi và trả lời để lựa chọn hoặc điều chỉnh câu trắc nghiệm cho thích
hợp. Tín độ (reliability; hệ số tín độ của các bài trắc nghiệm ở đây là từ. 91
đến. 94) và hiệu độ (validity; hệ số hiệu độ của các bài trắc nghiệm ở đây là
từ. 60 đến. 73) của bài trắc nghiệm được tính theo đúng phương pháp thống kê
khoa học. Bảng trả lời được đặt từ Mỹ, và bài làm của thí sinh được chấm bằng
máy IBM 1230; điểm chấm xong từ máy chấm được chuyển sang máy 534 (punching
machine) để đục lổ. Những phiếu đục lổ này (punched cards) được đưa vào máy IBM
360 để đọc điểm, nhân hệ số, cọng điểm, tính điểm trung bình (mean), độ lệch
tiêu chuẩn (standard deviation), chuyển điểm thô (raw score) ra điểm tiêu chuẩn
(standard score), tính percentile và thứ hạng trúng tuyển. Nhóm mẫu (sample) và
nhóm định chuẩn (Norm group) được lựa chọn kỹ càng theo đúng phương pháp khoa
học của thống kê học, để tính điểm trung bình và độ lệch tiêu chuẩn.
Tổng số thí sinh ghi tên trong khóa I, 1974 là 142, 356, nhưng
thật sự dự thi chỉ có 129, 406. Trong số này có 53, 868 thi đậu (41.6%) và 75,
538 thí sinh không đâu (58.4%). Tổng số thí sinh ghi tên dự thi khóa II là
94,606, nhưng thật sự dự thi chỉ có 76,494. Trong số này có 8,607 thi đậu
(11.3%) và 67,887 không đâu (88.7%). Số người thi đậu Tú Tài (tốt nghiệp Trung
học) nhiều hơn xưa nhiều lắm (hơn 45% cho cả hai khóa, so với khoảng 10% trong
những thập niên trước). Kỳ thi quốc gia không còn có mục đích gạn lọc, loại bỏ
như xưa nữa. Từ đó sẽ có nhiều người có cơ hội được học đại học, và nước nhà sẽ
có nhiều người ở trong thành phần trí thức, trình đô dân trí sẽ được nâng cao
hơn.
Trích
tài liệu Nam Sơn Trần Văn Chi
Những năm đầu sau khi Pháp rút về nước, giáo
dục Việt Nam tiếp tục cái gì có trước. Cho đến Ðại Hội Giáo Dục Toàn quốc năm
1958, VNCH mới xây dựng nền giáo dục độc lập dựa trên 3 nguyên tắc: Nhân
Bản-Dân Tộc và Khai Phóng.
[…]
Thời Tây 1930, toàn Ðông Dương có 406,669 học
trò gồm sơ và tiểu học trong đó có 20% là học trò Lào và Miên.
Thời Ðệ I Cộng Hòa, năm học 1960 miền Nam có 1
triệu 214,621 học sinh tiểu học, 112, 129 học sinh trung học. Tăng 200% so với
niên học 54-55, lúc mới thâu hồi độc lập từ tay Pháp.
[…]
Giáo viên tiểu học trước năm 1975 có chỉ số
250, giáo học bổ túc là 320, giáo sư Ðệ I cấp chỉ số 400, Ðệ II cấp lên 470.
Lương giáo viên, giáo sư như thế so với ngạch công chức và quân đội, tương đối
cao, nên đời sống bảo đảm, thư thả; đặc biệt vị trí người thầy luôn được xã hội
tôn trọng, cha mẹ học sinh kính nể.
[…]
Bậc đại học đào tạo cử nhân, cao học và tiến
sĩ.
Sau Thế Chiến Thứ II, Pháp trở lại Việt Nam,
Ðại Học Ðông Dương ở Hà Nội được đổi tên là Ðại Học Hà Nội, viện trưởng vẫn là
người Pháp. Sau đó có một số khoa được mở ở Sài Gòn như Luật, Y khoa và Khoa
Học, do phó viện trưởng là người Việt điều hành.
Sau năm 1954, chi nhánh đại học Hà Nội tại Sài
Gòn cải tên là Viện Ðại Học Quốc Gia Việt Nam, đến năm 1957 đổi tên là Viện Ðại
Học Sài Gòn, tên nầy giữ cho tới năm 1975.
Khi bắt đầu diễn ra Hội Nghị Paris (trong kế
hoạch chuẩn bị hậu chiến) năm 1972 VNCH thành lập Hệ Thống Ðại Học Cộng Ðồng,
năm sau 1973 Viện Ðại Học Bách Khoa Thủ Ðức thành lập.
Hệ thống đại học ở VNCH không thuộc Bộ Giáo
Dục, và cũng không có cơ quan chủ quản (trư trường Y Dược thuộc Bộ Y Tế chủ
quản). Ðại học Việt Nam tự trị về học vụ chuyên môn. Ngân sách của đại học là
bộ phận trong ngân sách Bộ Giáo Dục do Quốc Hội chuẩn duyệt hàng năm; nhân viên
và giáo sư đại học thuộc Tổng Ủy Công Vụ.
Ðại học VNCH bấy giờ có hai hệ thống: Ðại Học
Quốc Gia và Ðại Học Cộng Ðồng Ðịa Phương.
Ðại
Học cấp Quốc Gia:
gồm có
1. Viện Ðại Học Sài Gòn:
Sau năm 1954, Viện Ðại học Hà Nội chuyển vào
Nam nhập vào Viện Ðại Học Sài Gòn. Viện có 8 phân khoa là Y, Dược, Nha, Sư
Phạm, Khoa Học, Văn Khoa, Luật và Kiến Trúc. Có đại học xá Minh Mạng dành cho
nam, Trần Quý Cáp dành cho nữ, có trung tâm Y tế chăm sóc sức khỏe cho sinh
viên.
2. Viện Ðại Học Huế:
Thành lập theo sắc lịnh VNCH-1 do Tổng Thống
Ngô Ðình Diệm ký vào Tháng Ba năm 1957 gồm có 4 khoa như Sư Phạm, Y khoa, Văn
khoa và Luật.
3. Viện Ðại Học Cần Thơ:
Ðược thành lập ngày 31 Tháng Ba 1966 do nghị
định của chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương ký. Có 4 khoa là: Khoa Học, Văn
Khoa, Sư Phạm, Luật & Khoa Học Xã Hội.
4. Học Viện Quốc Gia Hành Chánh thuộc Phủ Thủ
Tướng:
Học viện được thành lập từ 29 Tháng Năm 1950
theo Quyết Ðịnh của Chánh Phủ Quốc Gia Việt Nam (tên gọi lúc đó), lúc đầu đặt ở
Ðà Lạt, năm 1958 dời về đường Trần Quốc Toản, Sài Gòn.
5. Trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt, thuộc Bộ Quốc
Phòng:
Sinh viên học 4 năm, môn chánh là võ khoa; môn
phụ là Toán, Khoa học tự nhiên, Khoa học Xã Hội. Tốt nghiệp bằng Cử Nhơn Võ
Khoa, một ngành mới mẻ đối với Việt Nam.
6. Viện Ðại Học Bách Khoa Thủ Ðức:
Thành lập do sắc lệnh của tổng thống VNCH, và
hoạt động chánh thức năm 1974.
Viện bao gồm một số trường có trước như Trung
Tâm Phú Thọ, Ðại Học Nông Nghiệp, Ðại Học Kỹ Thuật. Viện có lập một số trường
mới như là Ðại Học Kinh Thương, Ðại Hoc Khoa Học Căn Bản, Ðại Học Thiệt Kế Ðô
Thị và Nông Thôn…
Ðại học Cộng Ðồng Ðịa Phương
Trường Ðại Học Cộng Ðồng Ðịa Phương chỉ huấn
luyện về chuyên môn và thực dụng, học trình 2 năm.
Cho tới năm 1975, VNCH có 5 trường:
- Ðại Học Cộng Ðồng
Quãng Ðà
- Ðại Học Cộng Ðồng
Nha Trang
- Ðại Học Cộng Ðồng
Tiền Giang Mỹ Tho
- Ðại Học Cộng Ðồng
Long Hồ Vĩnh Long
- Ðại Học Cộng Ðồng
Ban Mê Thuột, mới có quyết định.
Giáo Dục Việt Nam trước 1975 ngoài hệ thống
công lập còn có hệ thống trường tư.
Ðại học tư trước năm 1975 có:
- Viện Ðại Học Ðà Lạt
- Viện Ðại Hoc Minh Ðức
- Viện Ðại Học Vạn Hạnh
- Viện Ðại Học Cao Ðài/Tây Ninh
- Viện Ðại Học Hòa Hảo/An Giang
Theo em biết, ông Nguyễn Thanh Liêm là phụ tá đặc biệt của Tổng trưởng Giáo dục anh ạ. Trưởng nữ của ngài là Nguyễn Thanh Thùy Linh là bạn học thời Lê Quý Đôn niên khóa 1969-1975 ở lớp em (lớp 1/5 đến lớp 6/6). Cám ơn bài sưu tầm của anh.
Trả lờiXóa