NGHĨA TRANG MẠC ĐỈNH CHI
Bài viết dựa trên bài của Tom Doling
Khi viết bài này có người hỏi tôi: " Bộ
hết chuyện viết sao lại viết về cái nghĩa địa". Tôi trả lời: " Nghĩa
trang Mạc Đỉnh Chi là một phần của Sài Gòn. Những ai đi qua nó trên các đường
Hai Bà Trưng, Phan Thanh Giản, Hiền Vương và Mạc Đỉnh Chi đều có cái cảm giác
có cái gì ớn lạnh, không biết bên trong ra sao, riêng tôi khi đi ngang đây đều
gợi lại trong tôi những chuyện kể ma quái mà ba tôi và ông chú khi còn sống kể
lại và tôi cũng có vào nơi đây hai ba lần trong đó có lần vào xem mộ phần của
anh em Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu. Vì thế tôi phải viết về nó vì nó là một
phần ký ức của những người Sài Gòn còn ở trong nước hay đã đi nước ngoài."
Nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi xưa còn có tên là
nghĩa trang của người Châu Âu (Cimetière Européen) hay nghĩa trang Massiges
hoặc Đất thánh Tây theo cách gọi của người Sài Gòn. Nghĩa trang này được xây
dựng vào năm 1859 ở bên mặt đông đường National nay là Hai Bà Trưng với tổng
diện tích là 7,5 ha. Lúc đầu là nơi chôn cất các binh lình bộ binh, thủy thủ và
sĩ quan Pháp trong cuộc chiếm đóng Sài Gòn. Ngay từ đầu lúc thành lập nó được
hải quân Pháp quản lý.
Vị trí của nghĩa trang người Châu Âu và nghĩa trang Anamite hay indigene
Cổng chính nghĩa trang vào năm 1968
Những
người chiếm đóng đầu tiên được chôn ở đây gồm có đại úy thủy quân lục chiến
Nicolas Barbe (chém đầu tại chùa Khải Tường vào 07 tháng 12 năm 1860), Trung tá
Jean-Ernest Marchaisse (bị giết tại Tây-Ninh vào ngày 14 Tháng Sáu năm 1866) và
đại úy Savin de Larclauze (cũng thiệt mạng tại Tây Ninh trên 07 tháng 6 năm
1868); nhà thám hiểm sông Cửu Long Captain L Doudart de Lagrée (qua đời ngày 12
tháng ba năm 1868 trong khi dẫn đầu một cuộc khảo sát địa lý và thăm dò của
sông Mekong sang Lào và Trung Quốc) và Trung úy Francis Garnier (chết ngày 21
Tháng 12 năm 1873 tại Hà Nội). Lúc đó (năm 1895) nghĩa trang chứa 239 ngôi mộ
quân sự.
Năm 1870 nghĩa trang được đổi tên là vườn của
cha Ormoy tức là bác sĩ
trưởng Lachuzeaux d’Ormoy (1863-1874) dùng ý tưởng đưa các bệnh nhân khó
bảo nhất đến đây để chăm sóc các luông cỏ và vườn hoa.
Điều thú vị, nghĩa trang của người
Châu Âu có chứa một số lượng tương đối lớn các ngôi
mộ với các tên người Đức, phản ánh ưu
thế kinh doanh của thương gia Đức ở Sài Gòn, đặc biệt
là trước năm 1870. Trong một góc của nghĩa trang này cũng
có một nhóm các ngôi mộ thuộc về một nhóm thủy
thủ người Nga bị thương, đã chạy trốn đến vịnh
Cam Ranh vào năm 1894 sau thất trận trong
trận Tsushima và sau đó đã chết trong bệnh viện quân
sự ở Sài Gòn.
Vào khoảng năm 1870, một Nghĩa trang Việt Nam
nhỏ (Cimetière Anamite hay Cimetière Indigène) được mở ngay tại phía bắc của
nghĩa trang của người Châu Âu . Đường phân chia hai nghĩa trang này - là đường
Hiền Vương sau này - được đặt tên ngắn gọn rue des Deux cimetières (đường hai
nghĩa trang) trước khi nó trở thành rue Mayer vào cuối năm 1880.
Mộ của kiến trúc sư Marie-Alfred Foulhoux (1840-1892)
Ngày 14 Tháng 12 năm 1912, sự thay đổi quy định
này của nghĩa trang của người Châu Âu thành một nơi chôn cất cho tầng lớp
thượng lưu thuộc địa được nhắc trong một báo cáo quan trọng của tờ Courrier
Saigonnais.
Đầu thế kỷ 20, nghĩa trang được chia cắt thành
những con đường nhỏ có trồng cây và kiểng do các nhân viên của thào cầm viên
Sài Gòn. Nghĩa trang lúc này được bao bọc bởi bốn bức tường vôi cao 2m5 với
cổng chính ở phía nam đường Legrand de la Liraye. Cổng chính này nằm đối diện
trực tiếp cuối phía bắc của đường Bangkok, và sau năm 1920, khi đường Bangkok
được đổi tên thành đường Massiges, nghĩa trang được biết đến với cái tên mới là
nghĩa trang đường Massiges.
Năm 1880 nghĩa trang được chuyển cho văn phòng
bảo tồn nghĩa trang thuộc một phần của văn phòng sở vệ sinh Sài Gòn có trụ sở
số 67 đường Massiges (hiện nay là đường Mạc Đĩnh Chi)
Nhiều nhân vật nổi tiếng của thời kỳ thuộc địa
sau đó đã được chôn cất ở đây, bao gồm cả sĩ quan hải quân Pháp Alain
Penfentenyo de Kervéréguin (mất 12 tháng 2 năm 1946), nhà truyền giáo Grace
Cadman (qua đời ngày 24 tháng 4 năm 1946) và nhà báo và chính trị gia Henri
Chavigny de Lachevrotière (qua đời ngày 12 tháng 1 1951). Tuy nhiên, trong tất
cả các phần mộ, ngôi mộ ấn tượng nhất của thời gian này là lăng mộ lớn của
Nguyễn Văn Thinh (qua đời ngày 10 tháng 11 năm 1946), Chủ tịch đầu tiên của
thời tự trị Cộng hòa Nam Kỳ (République de Cochinchine Autonome, 01 tháng 6
1946- 8 Tháng 10 năm 1947).
Vào tháng Ba năm 1955, đường Massiges được đổi
tên thành đường Mạc Đĩnh Chi từ đó nghĩa trang này được mang tên nghĩa trang
Mạc Đỉnh Chi.
Trong hai thập kỷ tiếp theo, thế hệ của các
chính trị gia cao cấp, các nhà lãnh đạo quân sự và các thành viên nổi bật khác
của xã hội miền Nam Việt Nam đã chôn tại đây cùng với một số lượng nhỏ của
người nước ngoài như làm việc cho bài Time và Newsweek như phóng viên François
Sully (qua đời vào tháng Hai 1971).
Tuy nhiên, có lẽ người nổi tiếng nhất của thời
kỳ này là Tổng thống Nam Việt Nam Ngô Đình Diệm và em trai của ông là giám đốc
cố vấn chính trị Ngô Đình Nhu, người đã bị ám sát vào ngày 02 tháng mười một
năm 1963. (nguồn Historic Vietnam.com do Tim Doling viết)
Người ta lén chôn xác hai ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu
Ngoài ra nơi đây còn có mộ của
thống tướng VNCH Lê Văn Tỵ, mộ của chuẩn tướng Lưu Kim Cương chết trong trận
Mậu Thân, mộ của hai học sinh một theo đạo Phật, một theo đạo Thiên chúa chết
trong vụ xung đột giáo phái năm 1964.
Mộ của thống tướng VNCH Lê Văn Tỵ
Năm 1971, theo Arthur J Dommen (Tác giả cuốn
Kinh nghiệm Đông Dương của Pháp và Mỹ: Chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa cộng sản
tại Campuchia, Lào và Việt Nam, 2001) vào thời tổng thống Nguyễn Văn Thiệu một
phần bức tường phía tây bị sụp mà theo lời của một nhà tiên tri Cao Đài nói là
ông Thiệu phải chịu trách nhiệm về cái chết của ông Diệm và phải làm gì đó để
giải thoát cho linh hồn ông Diệm.
Tuy nhiên, câu chuyện ma về nghĩa trang chỉ thực
sự bắt đầu lan truyền rộng rãi sau năm 1983, khi chính quyền thành phố quyết
định ngừng hoạt động nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi và chuyển đổi nó thành công viên
Lê Văn Tám.
Hàng rào nghĩa trang bên đường Hai Bà Trưng
Hàng rào bên đường Phan Thanh Giản
Binh lính VNCH đang truy lùng VC trong tết Mậu Thân
Sự giải tỏa nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi nằm trong
một dự án lớn bao gồm việc giải tỏa nghĩa trang quân đội Pháp tại ngã tư Bảy
Hiền và Lăng Pigneau de Béhaine gần sân bay Tân Sơn Nhất, cũng như các nghĩa
trang cũ của Pháp ở Vũng Tàu. Những người có thân nhân chôn trong các nghĩa
trang được hướng dẫn để sắp xếp cho việc cải táng trong vòng hai tháng. Còn lại
nếu không có người nhận thì được hỏa táng và di dời nơi khác. Còn lại hài cốt
của những người lính Pháp được đưa về Pháp chôn cất ở Fréjus, nơi một đài tưởng
niệm được dựng nêu ra tôn vinh họ. Trong thời gian khai quật để di dời các ngôi
mộ tại đây người ta đã phát hiện tấm bia mộ của tướng Barbe là tấm bia mộ của
Phạm Đăng Hưng được khắc phía sau.
Công viên Lê Văn Tám thay thế cho Nghĩa trang
Mạc Đình đã trở thành một nơi phổ biến cho hoạt động giải trí, vẫn còn nhiều
người dân địa phương mê tín dị đoan người không muốn đến đó vì lịch sử trước
đó.
Video clip cảnh
quân Mỹ lùng sục nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi tết Mậu Thân 1968. Qua đoạn video này
chúng ta hình dung được quang cảnh bên trong nghĩa trang.
Đây là bản dịch của bài viết Tim Doling http://www.historicvietnam.com/former-massiges-cemetery/ Xin ghi tên của tác giả.
Trả lờiXóaHello Tim, since your comment is in vietnamese so here are my two cents :bài viết trên của anh thaoLQD củng ko hoàn toàn là bài dịch của Tim Doling:Le Van Tam Park – the former Massiges Cemetery vì có 1 vài chi tiết và ý tưởng của anh ta và 1 số tin tức , tài liệu , hình ảnh giống của bài Tim Doling viết nhưng những tài liệu này T.D củng phải nghiên cứu , sưu khảo trích dẩn từ những tài liệu , sách vỡ , hình ảnh đả có . Tôi củng đả đọc được vài bài viết về nghĩa trang MDC trên mạng của 1 số người viết với những tin tức , tài liệu giống như bài viết của T.D củng ko có đề trích dẫn từ đâu ra.....so, you demanded to include your name and denoted this was translated from your article is irrelevant.
Trả lờiXóaCó những chi tiết tôi thêm vào bài nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi là những thực tế mà tôi đã biết và đã chứng kiến thí dụ như tôi đã từng vô nghĩa trang dự buổi cầu nguyện cho anh em ông Diệm (thời điểm đó nhà của tôi chỉ cách nghĩa trang 1km đường chim bay) còn nguyên bài là bản dịch từ Tim Doling. Xin chân thành cám ơn lời nhận xét của ông.
Xóa