Sự thành lập Sài Gòn
từ thời chúa Nguyễn đến năm 1954
TS Vũ Hồng Liên
Học viện Anh quốc và các thành viên
ECAF 2013
Một sự thật đáng kinh ngạc về Việt
Nam mà các du khách hàng hải không nhận ra cho đến khi họ đến Sài Gòn, thành phố
Hồ Chí Minh ngày nay, là tàu của họ dù bất kể kích thước nào cũng có thể dễ
dàng đi ngược dòng sông Sài Gòn để cập bến trung tâm thành phố, Việc dễ dàng đi
vào nội địa từ tuyến đường chánh Hàng hải Đông Tây, nối Trung Hoa với Ấn Độ và
xa hơn về phía Tây qua Biển Đông, đã thu hút hàng ngàn hàng rồi ngàn người tham
gia hành trình này trong nhiều thế kỷ; những cuộc hành trình của họ cuối cùng
đã trở thành lý do cho sự ra đời của chánh thức thành phố vào thế kỷ 17. Công bằng
mà nói: không có sông Sài Gòn thì không có Sài Gòn, ‘không có Sài Gòn thì không
có Việt Nam hiện đại, đổi mới và hội nhập như chúng ta thấy ngày nay.
Là trung tâm thương mại quan trọng nhất
của Việt Nam, Sài Gòn có nguồn gốc khiêm tốn như một đồn biên giới, nơi mọi người
từ nhiều nguồn gốc khác nhau đến để lập nghiệp hoặc vì bất cứ lý do gì để thoát
khỏi cuộc sống trước đây của họ, Thành phố Sài Gòn như chúng ta biết ngày nay
đã hình thành trong một thời gian dài gần 400 năm, trải qua nhiều giai đoạn
phát triển dưới nhiều thời kỳ của các chủ nhân khác nhau, từ các vị vua Khmer đến
triều Nguyễn của Việt Nam, thực dân Pháp, rồi lại là Việt Nam. Lần đầu tiên
lãnh thổ này được đề cập trong các tài liệu của Việt Nam là vào năm 1623 khi nó
được gọi là Prei Nokor của Zhenla - tên cũ của Campuchia. Ngày này là dịp vua
Cam Bốt lúc bấy giờ Chey Chetta II đồng ý cho người Việt lập hai đồn thuế quan
tại địa điểm này và một địa điểm liền kề có tên là Kas Krôbey (ngày nay là Bến
Nghé của Quận 1). Tên của hai địa điểm này sau đó đã được thay đổi trong thời kỳ
Pháp chiếm đóng, Tên Sài Gòn trước đó được gọi cho thành phố Tàu Chợ Lớn ngày
nay, và Bến Nghé trở thành Sài Gòn ngày nay.
Trong lịch sử, Sài Gòn ngày nay là một
vùng đất hoang vu và lầy lội nhưng không phải là không có người ở như những gì
nhà Nguyễn quan sát thấy khi họ đến lập các đồn quán. Họ tìm thấy một khu định
cư của người Khmer ở đây, được bao quanh bởi những ao tù và khu rừng rậm rạp
đầy động vật hoang dã. Người Khmer đã định cư ở đây trong nhiều năm, nếu không
muốn nói là hàng thế kỷ, sống có lẽ bằng các sản phẩm thô mà họ tìm thấy trong
khu vực, chẳng hạn như động vật hoang dã, cây để làm nhà và chất đốt và một loại
lá cây được gọi là cần đóp để lợp nhà. Thuật ngữ ‘Prei’ trong tiếng Khmer có
nghĩa là rừng hoặc rừng rậm. Họ sống trong những ngôi nhà sàn trên nền đất cao
khô ráo dọc theo một dải đất chạy về phía bắc đến sông Đồng Nai, cách đó khoảng
20 km. Các hoạt động khảo cổ trong những năm 1940 đã phát hiện ra một số đồ tạo
tác cổ của người Khmer, trong số đó có một chiếc nồi đất được làm theo kiểu
Khmer điển hình. Trên mặt đất, sự hiện diện của người Khmer được ghi nhận bởi
hai đặc điểm điển hình: các mảnh hoặc phiến của nền đá, được xây cao hơn mặt đất
xung quanh, được cho là nền chùa của họ, và ít nhất một cây đa, một loại cây
yêu thích của người Khmer. mà họ thích trồng ở những nơi thờ tự của Phật giáo. Di
tích này được xác định là chùa Cây Mai, trước đây trong lịch sử Việt Nam có tên
là Chùa Phật giáo Cam Bốt (Chùa Cao Miên), tọa lạc tại một điểm phía bắc Kênh Bến
Nghé thuộc khu vực Phú Lâm / Chợ Lớn ngày nay (Quận 6)
Người Khmer tiếp tục sinh sống tại đây
hoặc gần địa điểm này ngay cả sau khi người Việt đến định cư với số lượng lớn.
Nhờ mối liên hệ này, nhà Nguyễn sau này đã chọn khu vực này làm thủ phủ lưu
vong của vị vua thứ hai của Cam Bốt, Ang Nan (Nặc Ông Nộn) vào năm 1674 khi Ang
Nan bị đuổi khỏi Cam Bốt trong một cuộc tranh chấp hoàng tộc. Ang Nan sống ở
đây 15 năm, và được con trai nối nghiệp. Năm 1697, người con trai quay trở lại
thủ phủ Oudong của người Khmer để kết hôn với con gái của vị vua hiện tại và cuối
cùng kế vị ông trở thành Quốc vương mới của Cam Bốt.
Ngược dòng lịch sử, từ lâu nơi này đã
tồn tại một dân tộc văn minh cao thuộc nền văn hóa Sa Huỳnh, có kỹ năng chế tác
đồ kim loại, đồ trang sức tinh xảo và biết trồng lúa, bằng chứng về sự tồn tại
của họ đã được tìm thấy dưới đất ở nhiều khu vực của Sài Gòn ngày nay. Người Sa
Huỳnh tồn tại từ khoảng 1000 TCN đến 200 TCN trước khi tên của họ biến mất. Thế
hệ cư dân tiếp theo thay thế họ, hoặc có lẽ, tiếp thu bản sắc của họ, được gọi
là những người thuộc văn hóa Óc Eo, đến lượt mình, tồn tại cho đến thế kỷ thứ 7
khi lãnh thổ của họ trở thành một phần của Zhenla.
Các đồ tạo tác của cả người Sa Huỳnh
và người Óc Eo cho thấy họ đã giao thương với những người phương xa, chẳng hạn
như Đế chế La Mã và Trung Hoa, nhưng liệu địa điểm Sài Gòn có phải là một cảng
của mạng lưới giao thương vào thời điểm đó hay không vẫn chưa được biết rõ. Các
vụ đắm tàu và hàng hóa của họ ngoài khơi Việt Nam từ thế kỷ 9 đến thế kỷ 14 cho
thấy rằng giao thương đường dài đã được tiến hành qua Vịnh Thái Lan, các cảng
miền Bắc Việt Nam và duyên hải miền Trung Việt Nam. Cho dù không có thương mại
hay không có bằng chứng về giao thương được tìm thấy trong khu vực Sài Gòn
trong những thế kỷ này vẫn là một câu hỏi chưa có lời giải đáp ở giai đoạn này.
Từ thế kỷ 14 trở đi, sự bùng nổ của
thương mại hàng hải với Trung Hoa dưới thời nhà Minh (1368 -1644) và với các
thương nhân từ châu Âu, Trung Đông và các quốc gia Đông Nam Á khác đã tạo ra
nhiều cơ hội cho hoàng gia Cam Bốt, Miến Điện, Xiêm và Việt Nam. để làm giàu
thông qua độc quyền kinh doanh hay bình thường thông qua các hoạt động ngoại vi
của họ. Các thương nhân quốc tế đến để bán hàng hóa của họ và mua đá quý, kim
loại, gốm sứ, lụa và bông, hương, ngà voi, sơn mài, vật nuôi như voi, và sừng
tê giác, được đưa đến từ xa nội địa qua hệ thống sông nối Xiêm, Cam Bốt và đồng
bằng sông Cửu Long. Các hoàng gia thu lợi nhiều hơn từ việc thực hiện các nhiệm
vụ thu thuế của họ. Việt Nam vào thời điểm đó được hưởng những lợi ích tương tự
từ các cảng của họ ở xa hơn về phía bắc, chẳng hạn như Vân Đồn, Hà Nội, Đà Nẵng
và Hội An, trong khi người Chăm ở phía nam của họ hưởng lợi từ Vijaya của họ,
thành phố Quy Nhơn ngày nay, cho đến khi họ bị nhà Nguyễn lấn át.
Đi thuyền ở Đông Nam Á, bất cứ nơi
nào các thủy thủ cũng thấy mình, phụ thuộc vào gió mùa, gió đông bắc đối với
các chuyến đi hướng nam từ cuối tháng 12 đến đầu tháng 3 và gió đông nam vào
tháng 7 đối với các chuyến đi hướng bắc. Giữa giao mùa, các thương gia cần một
nơi nào đó để ở và một số kho giao dịch dọc theo Đông Tây Do đó, tuyến đường
Hàng hải được thành lập, Sài Gòn được biết đến là một trong những tuyến đường
này từ thế kỷ 17 trở đi. Trong khi nghỉ ngơi, các thương nhân tích trữ các sản
phẩm địa phương được đưa đến từ nội địa chủ yếu bằng thuyền. Một sà lan, hoặc ghe,
có thể chở khối lượng lớn và di chuyển hiệu quả hơn xe bò, hoặc bởi những người
khuân vác, những họ sẽ phải thương lượng về những con đường khó và không thể
đoán trước. Giữa Cam Bốt, Xiêm, Lào và bờ biển Việt Nam ngày nay, đường thủy
chính là sông Mê Kông, và nhiều phụ lưu của nó như Tonle Sap. Xa hơn về phía bắc
từ sông Mekong, sông Đồng Nai đóng vai trò là huyết mạch chính giữa nội địa và
bờ biển. Sài Gòn, Prei Nokor và Kas Krôbei của thế kỷ 17, chỉ cách bờ biển chưa
đầy 100 km và cách Đồng Nai 18 km hợp lưu với sông Sài Gòn tại thành phố Biên
Hòa ngày nay trước khi đổ ra biển.
Thế kỷ 17 là thời kỳ bận rộn của các
chúa Nguyễn nắm quyền ở miền Trung Việt Nam và cư trú tại Phú Xuân, ngày nay là
Huế. Mặc dù, do cuộc chiến đang diễ n ra với đối thủ của họ, họ Trịnh, thế lực
đứng sau triều đình ở Hà Nội ngày nay, nhà Nguyễn bắt đầu mở rộng về phía nam để
chiếm nhiều đất hơn, và đảm bảo các nguồn cung cấp thiết yếu như gạo và nguyên
liệu cho đóng tàu và sản xuất vũ khí. Theo dấu chân của chúa Nguyễn Hoàng đầu
tiên và tiếp nối những người kế vị của ông, người Việt đã tiến về phía nam một
cách ổn định và có hệ thống trong một cuộc di chuyển thuộc địa sau này được gọi
là Nam Tiến. Lần đầu tiên họ tiếp quản một nhóm lớn đất của các vương quốc
Champa, nhóm các chính thể ven biển chiếm giữ phần dưới của miền Trung Việt
Nam. Đến năm 1653, người Việt đã di chuyển đủ xa về phía nam để có biên giới
Khmer - Việt mà trước đó chưa có. Vào cuối thế kỷ XVII, nội bộ rắc rối đã làm
suy yếu triều đình Khmer đến mức người Việt Nam có thể mở rộng thêm về phía tây
và nam mà hầu như không gặp phải sự kháng cự nào. Sau đó, với lý do người Việt
nhập cư bị ngược đãi ở Đồng bằng sông Cửu Long và tại những địa điểm mà họ coi
là của họ, hoặc họ được yêu cầu can thiệp thay cho một số phe phái của triều
đình Cam Bốt, nhà Nguyễn đã kiên quyết chiếm giữ vùng đất giữa hai con sông
chính Mekong và Đồng Nai, đẩy mạnh hơn nữa về phía nam sông Mekong, và củng cố
sự hiện diện của họ ở Sài Gòn.
Trước thời đại của Chey Chetta II
(r.1618-28), thủ đô của Cam Bốt là Lovek bên sông Tonle Sap, nằm giữa Phnom
Penh và hạ lưu của Tonle Sap, một trạm buôn bán sầm uất khác của Đông Nam Á. Thật
không may, sự giàu có của Lovek đã lọt vào mắt xanh của người Thái ở Xiêm và họ
đã nhanh chóng chiếm thành vào năm 1594, bắt đi nhiều người Khmer làm nhân công
/ nô lệ. Sự cướp phá Lovek đã làm suy giảm tài sản của Cam Bốt và tầm quan trọng
địa chính trị của thủ đô của họ. Khi vị vua mới Chey Chetta II giành được độc lập
một phần từ Xiêm, ông đã chọn thành lập một thủ đô mới tại Oudong, phía nam
Lovek, vào năm 1618, cách Phnom Penh ngày nay khoảng 40 km. Chey Chetta II nhận
thức rõ vị thế của mình bấp bênh như thế nào, và đã tìm cách củng cố nó bằng
cách quay sang nhà Nguyễn ở Việt Nam. Mối quan hệ giữa hoàng gia Khmer và nhà
Nguyễn đã rất tốt đẹp kể từ đầu thế kỷ 17. Mối quan hệ càng được thắt chặt bởi
cuộc hôn nhân của ông với Công chúa Ngọc Vạn, con gái của chúa Nguyễn Phúc
Nguyên vào năm 1620. Ba năm sau, nhờ mối quan hệ này, chúa Nguyễn Phúc Nguyên
xin vua Cam Bốt cho phép lập hai trạm thu thuế bên sông cảng Prei Nokor và Kas
Krôbei, lý do là để thu thuế của các thương nhân Việt Nam buôn bán giữa Việt
Nam, Cam Bốt và Xiêm. Các thương nhân có xu hướng tập trung và nghỉ ngơi tại
khu vực này trước khi đi theo một trong hai hướng. Chey Chettha II đồng ý; thời
hạn của thỏa thuận là 5 năm. Không lâu trước khi cả hai địa điểm đều thịnh vượng,
đông dân hơn và biến thành những thị trường giàu có, thời hạn 5 năm không được
nhắc đến nữa, mặc dù theo biên niên sử Cam Bốt, nó đã từng được nêu lên như một
vấn đề sau khi Chey Chetta qua đời. II vào năm 1627, nhưng nhanh chóng bị góa
phụ người Việt của mình, Công chúa Nguyễn, bác bỏ. Cam Bốt sau đó rơi vào một
cuộc nội chiến khi các phe phái liên minh với các quốc gia láng giềng khác nhau
để nâng cao yêu sách của họ đối với ngai vàng. Một trong những phe phái đã đưa
họ Nguyễn Việt Nam vào can thiệp bằng vũ lực và cố thủ ở Cam Bốt. Vấn đề của
Prei Nokor và Kas Krôbei được gạt qua một bên và người Việt tiếp quản các nơi
này thvĩnh viễn.
Sau sự thành lập Sài Gòn và Bến Nghé
của nhà Nguyễn vào năm 1623, những người Việt di cư bắt đầu đến định cư trong
vùng, bắt đầu từ khu vực phía đông bắc Mô Xoài (Bà Rịa ngày nay, một phần giữa
Sài Gòn và Vũng Tàu) và thị trấn Nông Nại (Biên Hòa ngày nay) trước khi chuyển
vào chính Sài Gòn. Hai thị trấn Mô Xoài và Nông Nại sau đó đóng vai trò là hai
đầu của một vòm lãnh thổ đánh dấu ranh giới khu định cư ở cực bắc trở thành Phủ
Gia Định vào cuối thế kỷ XVII. Trong vùng đất bên dưới vòm này, mọi người từ mọi
tầng lớp xã hội và nhiều sắc tộc khác nhau đã sống cùng nhau, mặc dù không phải
lúc nào cũng hòa hợp. Nổi bật nhất trong số này là người Khmer, người Việt và
sau đó là người Tàu đến vào năm 1679. Những người Tàu này thuộc một trong hai
nhóm gồm 3000 người trung thành với nhà Minh. đã đi thuyền về phía nam từ Trung
Hoa để xin nhà Nguyễn tị nạn nhà Thanh và được cho định cư ở Biên Hòa ngày nay,
nhưng dần dần mở rộng về phía nam để trở thành láng giềng của người Khmer truyền
thống và người Việt. Nhóm người Minh thứ hai được đưa đến định cư ở Mỹ Tho ngày
nay trên sông Mekong.
Dù xuất thân từ dân tộc nào, người
dân đã tận dụng tối đa diện tích đất đai màu mỡ, nguồn cá dồi dào ở nhiều suối,
rạch, kênh, sông trong khu vực và sử dụng đường thủy làm phương tiện giao thông
chính. Các hoạt động thương mại phát triển khi có nhiều người nhập cư đến định
cư và khu vực này nhanh chóng trở thành một khu định cư thịnh vượng. Từ đó cho
đến khi miền nam Việt Nam bị quân Pháp đánh chiếm năm 1859, nhiều cư dân ở Gia
Định đã sống bên cạnh. cạnh nhau, và ở mức độ thấp hơn, trộn lẫn trong ba vùng
đất khác biệt: người Khmer ở Phú Lâm, người Tàu ở Chợ Lớn và người Việt ở Bến
Nghé. Người Tàu đặc biệt siêng năng tại địa điểm được chọn đầu tiên của họ bên
sông Đồng Nai. Tại đây, họ đã thành lập một cảng lớn trên một con cù lao có tên
là Cù Lao Phố. Chẳng bao lâu, cù lao này đã trở thành nơi tập kết hàng hóa lớn
của vùng cao nguyên Việt Nam và Cam Bốt, lấy tên là Cảng Đại Phố (cảng lớn của
Phố), một khu chợ sầm uất chỉ đứng sau Bến Nghé, gần biển hơn. Các hoạt động
thương mại tăng lên, dân số mở rộng, cư dân sau đó mở rộng các khu định cư một
cách ngẫu nhiên, biến thành các khu vực của một thị trấn nhộn nhịp cho đến khi
nhà Nguyễn quyết định chiếm đóng dưới quyền chúa Nguyễn Phúc Chu.
Đến năm 1693, nhà Nguyễn đã chiếm được
vùng đất cuối cùng của người Chăm là Panduranga và đang ở giữa một cuộc đình
chiến không dễ dàng với đối thủ của họ, họ Trịnh từ phía bắc. Đó là thời điểm
tình cờ để họ quan tâm nhiều hơn đến mảnh đất phía Nam. Với việc thêm Panduranga
vào các tỉnh hiện có, vùng đất mới dưới sự kiểm soát của nhà Nguyễn giờ đây trải
dài từ Bình Thuận ngày nay đến đồng bằng sông Cửu Long, một vùng đất rộng lớn
được đổi tên thành Phủ Gia Định. Nguyễn Phúc Chu sau đó cử quan Tổng đốc Nguyễn
Hữu Cảnh về Phủ này.
Nguyễn Hữu Cảnh đã nhanh chóng thiết
lập các đơn vị hành chính cho vùng như thị trấn, huyện lỵ, làng xã rồi kêu gọi
nhân dân các tỉnh phía Bắc vào lập nghiệp. Người Tàu hiện có được nhóm lại
thành các làng riêng của họ và được gọi là Minh Hương (Những người trung thành
với nhà Minh), một cái tên vẫn còn quen thuộc với nhiều người Việt Nam ngày
nay. Trong năm này, người Minh Hương chính thức được ghi vào sổ đăng ký dân số
Việt Nam. Nông Nại / Biên Hòa trở thành huyện Phước Long và Sài Gòn trở thành huyện
Tân Bình. Mỗi đơn vị hành chính được quản lý bởi một quan chức dân sự, được hỗ
trợ bởi một lực lượng chung của lục quân và hải quân, và được bảo vệ bởi các
nhân viên an ninh. Dưới thời Nguyễn Hữu Cảnh, số người ở Phủ Gia Định là được
ghi nhận là hơn 40.000 hộ gia đình, khu vực được liệt kê là hàng nghìn km
vuông. Để đảm nhiệm chức vụ quản lý của mình, Nguyễn Hữu Cảnh đã chọn Prei
Nokor trước đây, Sài Gòn, nơi nhanh chóng được phát triển thành một địa điểm tập
trung các sản phẩm từ miền núi và đồng bằng sông Cửu Long để tìm kiếm những
thương nhân hàng hải giỏi nhất từ Ấn Độ, Nhật Bản, Trung Hoa và thậm chí xa
hơn ở cả hai hướng đông tây. Sản vật từ sông Mekong được vận chuyển về phía bắc
qua hệ thống sông rạch và từ miền núi bằng những người bốc vác dọc theo thượng
nguồn sông Đồng Nai, nơi đầy ghềnh thác. Xa hơn về phía hạ lưu, hàng hóa được
chở bằng thuyền khi nước trở nên dịu hơn ở phía bắc Biên Hòa.
Trong phần lớn thế kỷ 18, khu chợ đã
trở thành thành phố của Sài Gòn tiếp tục phát triển do cần thiết. Nhà cửa, công
trình chính thức và đồn trú được xây dựng nhưng đường xá được xây dựng lộn xộn,
'một số thì thẳng, một số lại quanh co', vì phương tiện giao thông chủ yếu vẫn
là đường thủy. Tuy nhiên, giữa thế kỷ 18 là thời điểm bận rộn của thương mại với
gạo từ Đồng bằng sông Cửu Long là mặt hàng được săn lùng nhiều nhất. Khi chiến
tranh giữa họ Nguyễn và họ Trịnh gia tăng, nhu cầu về gạo cũng tăng theo. Nhiều
kênh mới được đào bằng tay trong thời kỳ này để tạo ra các sông và lạch nhỏ tự
nhiên phục vụ cho khu vực có xu hướng phù sa bồi đắp trong mùa khô, buộc các
thương gia phải ngừng mọi hoạt động và đợi đến khi nước lên đủ cao để đi lại. Sự
chậm trễ trong mùa khô trở nên không thể chấp nhận được đối với chính quyền nhà
Nguyễn. Họ ra lệnh dọn dẹp rộng rãi các kênh hiện có và đào các kênh mới để tạo
điều kiện cho dòng chảy của nước. Những cái đầu tiên đã được đào Sài Gòn, ngày
nay là Chợ Lớn. Một con kênh lớn tên là Ruột Ngựa được tạo ra vào năm 1772, được
gọi như vậy vì nó ‘thẳng như ruột ngựa’. Khi hoàn thành, con kênh này đóng vai
trò quan trọng trong việc lưu thông giao thông ven sông ra vào Sài Gòn khi đó.
Các kênh đào khác nối tiếp nhau sau
khi Sài Gòn trở thành nơi ẩn náu của các chúa Nguyễn hai năm sau đó. Một số con
kênh được đào theo đơn đặt hàng chính thức, những con kênh khác do cư dân để
đáp ứng nhu cầu cụ thể của họ, chẳng hạn như Phố Xếp ở Chợ Lớn ngày nay được
đào vào năm 1778 bởi những người trung thành với nhà Minh, những người di cư đến
khu vực này từ vùng đất của họ ở Biên Hòa sau khi họ bị Tây Sơn tàn sát vào năm
1773. Những người tị nạn Trung Hoa đã tái định cư trên vùng đất cao ở đây và sống
bằng trồng rau, con kênh mới Phố Xếp rất cần thiết để sản phẩm của họ đến được
chợ Bến Nghé, thông qua hệ thống đường thủy hiện có nối khu vực với các cảng.
Sự thuận tiện của việc đi lại bằng đường
thủy ở Sài Gòn và Bến Nghé đã thu hút nhiều người đến định cư ven sông rạch,
mang theo nhiều nghề như làm gốm đóng thuyền, chạm khắc gỗ, làm đồ trang sức, mộc
v.v ... Mỗi nhóm. các nghệ nhân tập hợp trong khu vực của riêng họ, tạo ra sự
đa dạng như một tấm thảm phong phú của các phường chuyên nghiệp phát triển mạnh
mẽ cùng sông và kênh của Sài Gòn, một số trong số đó, chẳng hạn như thợ gốm vẫn
còn kinh doanh cho đến đầu thế kỷ 20, khi một chiến dịch làm sạch và lấp kênh của
Pháp đã đẩy họ ra khỏi hoạt động kinh doanh. Đến lượt nó, sự phát triển của các
ngành thủ công mỹ nghệ lại truyền cảm hứng cho các kênh đào được đào, mỗi kênh
mang tên của sản phẩm mà chúng được tạo ra. Dọc theo các con kênh và các con
sông, có một số xưởng đóng thuyền hoạt động như một "ga ra" để sửa chữa
và bảo dưỡng thuyền. Những bãi này được xây dựng trên nền đất cao hơn một chút,
thuận tiện cho việc xây dựng đất đai sau này, sau khi kênh rạch bị lấp để trở
thành đường vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20.
Trở lại thế kỷ 18, xây dựng kênh đào
là một trong những hoạt động quan trọng nhất của nhà Nguyễn vì không chỉ giúp
tăng sản lượng lương thực, thực phẩm mà còn vai trò quan trọng trong việc tiếp
tế trong và ngoài Gia Định cho cuộc chiến tiếp diễn của nhà Nguyễn với Tây Sơn.
Đời sống dưới thời Nguyễn là cuộc sống phụ thuộc vào con nước và nó mang theo một
kiểu nhà ở vẫn còn thịnh hành ở nhiều vùng Sài Gòn ngày nay, đó là kiểu nhà sàn
nửa xây. Theo phong cách này, một nửa ngôi nhà sẽ nằm trên cạn trong khi nửa
còn lại nhô ra mặt nước và được hỗ trợ bởi các cột gỗ. Thuyền của chủ sở hữu có
thể buộc vào cột và các chất thải sẽ được thả xuống mặt nước. Bên cạnh loại
hình nhà ở này là phiên bản nhà thuyền, nơi những người chủ sống hoàn toàn trên
những chiếc thuyền của họ, đây cũng là phương tiện đi lại chính và phương tiện
kiếm sống của họ, tương tự như những người châu Âu và các đoàn lữ hành trên đất
liền. Lối sống nhà thuyền sau đó đã đặt tên của nó cho một địa điểm quen thuộc
khác là Sài Gòn, Nhà Bè, trung tâm buôn bán chính của Gia Định dưới thời Nguyễn
Hữu Cảnh.
Nhà Bè (nhà sà lan) là nơi giao nhau
của ba con sông Đồng Nai, Sài Gòn và Nhà Bè hội tụ, cách trung tâm Sài Gòn ngày
nay vài km về phía nam. Nó có tên lần đầu tiên khi một doanh nhân có sáng kiến
đóng một chiếc sà lan có mái che và trang bị phương tiện nấu ăn để phục vụ
cho những người buôn bán thuyền neo đậu trong khu vực trong khi chờ thủy triều
thích hợp để đi xa hơn hoặc trở về nhà. Do thuyền rất nhỏ nên các chủ thuyền
khó có thể nấu ăn thoải mái trên tàu, nên nhà bếp trên sà lan được hoan nghênh
nhất. Sau đó, nhiều nhà hàng hoặc sà lan thực phẩm đã làm theo, biến địa điểm
này thành một khu chợ sầm uất và đặt tên cho địa điểm này vẫn còn được sử dụng
cho đến ngày nay, mặc dù bản thân chợ đã biến mất từ lâu vào cuối thế kỷ 18.
Cho đến năm 1775, Nhà Bè còn có một kho lớn, nơi cất giữ các sản vật làm thuế để
cống nạp hàng năm cho triều đình ở Hà Nội. Phủ này bị bãi bỏ sau khi chúa Nguyễn
là Nguyễn Phúc Thuần vào lập dinh ở Sài Gòn.
(C2n tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét