CHÙA TÀU VÀ AN NAM
TẠI CHỢ LỚN
(Tiếp Theo)
CHƯƠNG IV
Chùa An
Nam
Nhiều ngôi chùa An Nam ở Chợ Lớn được
chia thành "Miêu" dành để thờ các nhân vật thần thánh và ông từ đặc
biệt được giao nhiệm vụ cho việc thờ
cúng Đức Phật và các vị bồ tát Phật giáo. Ba trong số bốn Miêu An Nam được tôn
sùng là Quan Công, vị anh hùng thời Tarn quôc được đề cập trong § 4, chương III
và ngôi chùa cuối cùng được dành cho việc sùng bái các vị Hoàng đế cuối cùng của
nhà Minh bị triều đại Mãn Châu truyết phế.
1. — Minh Hương Gia Thanh
Ngôi chùa nổi tiếng này, có lẽ lâu đời
nhất trong số các di tích của người An Nam ở Nam Kỳ, và là dấu tích cuối cùng của
nhà Minh ở đất nước này, được xây dựng dưới thời trị vì của vị vua áp chót của
triều đại Lê Cânh Hưng vào năm Kỳ Dậu (1788) do các cháu của những tướng lãnh
và binh lính của Trần Thâng Tài lánh nạn ở Biên Hoà. Chúng ta hãy nhắc lại đây
là nơi tụ hội đầu tiên của người Tàu ở Nam Kỳ, mà lúc đó thuộc Cam Bốt. Theo
câu chuyện, Dương Ngạn Địch (Yang Yenti) và Trân Thâng Tài (Chengt'-Sai), là những
người ủng hộ triều đại nhà Minh mà người Mãn Thanh đã đánh đuổi khỏi ngai vàng,
đã đổ bộ Đà Nẳng (Tourane) cùng với 3.000 người trên 50 thuyền vào năm 1679. Họ
xin được yết kiến chúa Hiền Vươ'ng cư trú tại Huê, xin được định cư và phục
tùng những người cai trị An Nam.
Chúa xứ Huê tiếp đón, mời dùng bữa tối
cùng các tướng sĩ của họ gồm Huỳnh Tấn (còn gọi là Hoàng Tiến) và Trần An Bình
Và sau khi phong cho họ các chức quan,
chúa đã cho phép họ và người của họ đến định cư ở Nam Kỳ, nơi nhiều thuộc địa của
người An Nam.
Chúa thậm chí còn viết thư cho nhà
vua Cam Bốt đang cư trú tại Sài Gòn để thúc giục nhờ ông tiếp và đối xử tốt với
khách Tàu.
Một bộ phận của hải đội, theo lệnh của
Trần Thâng Tài, nhổ neo trước tiên và đi về phía nam, tiến vào Cần Giờ và ngược
sông Đồng Nai đến Biên Hòà, nơi những người tị nạn định cư. Còn lại, đứng đầu
là Dương Ngạn Địch, có thể không biết về tình hình địa lý của nơi mà đoàn tàu
đi tới, đã vào Cửa Tiền và cặp bến Mỹ Tho. Người Hoa ở Biên Hòà đã biến địa
phương cuối cùng này trở thành một thành phố thạnh vượng nơi người Tàu, người
Châu Âu, người Nhật, người Chà Và (Mã Lai hoặc Ấn Độ).
Ngôi mã của
S E Ngô Nhân Tịnh tìm thất trong một góc của nghĩa địa tư nhàn làng Chi`Hòa (Gia Định) cách
trường đua Phú Thọ 500m.
Vùng đất khai phà của người Tàu ở Mỹ Tho,
là sự tổng hợp phần lớn là những thành phần hỗn loạn, vào tháng 6 năm 1689,
theo sự xúi giục của Hùynh Tấn, đã ám sát thủ lãnh và đưa ông lên. Vị này đã
xây dựng đồn lũy ở Rạch Nan (tỉnh Định Tường), trang bị nhiều chiến thuyền và đúc
đại bác, chặn được con đường thương mại của Cam Bốt. Nặc Ong Thu, người trị vì ở
Nam Vang, sợ hãi trước sự chuẩn bị và thái độ của những người Tàu này, cũng đã
dựng ba đồn dọc sông. cái thứ nhất ở Ba Cầu Nam (có lẽ là Banam), cái thứ hai ở
Nam Vang và cái cuối cùng ở Gò Bich có lẽ là Gô sát (Pursat) và chặn sông bằng
một con đập bằng dây cáp kim loại.
Vị vua thứ hai của Cam Bốt, cư trú tại
Sài Gòn, còn gọi Ngải vương, người kế vị Hiên Vu'o'ng, biết những sự kiện nêu
trên. Sau đó, theo lệnh của tướng Thôi Khương Định, vương hầu của (Mai)
Van Long, một đội quân do Tổng đốc người Tàu ở Biên Hoà và thủ lãnh Huỳnh Tấn
phụ trách chỉ huy đội tiên phong.
Tin đồn được cho lan truyền rằng cuộc
thám hiểm nhắm vào Cam Bốt.
Những chiếc chiến thuyền chở đầy quân
đổ bộ đang đi qua Rạch Gầm (Mỹ Tho) thì Huỳnh Tấn bị bắt và bị xử tử. Sau đó họ
quay lại phá hủy pháo đài đã tấn công họ, rồi lại tiếp tục hành quân về phía
trước, doàn thuyền đến Nam Vang, sau khi phá hủy mọi thứ trên đường đi..
. Trở lại ngôi chùa Minh Hirong Gia Thạnh. Những người tị nạn
chính trị Tàu là những người có góc gác tráng kiện, như chúng tôi đã viết trước
đây, đến một đất nước cưu mang họ và kết duyên với phụ nữ bản địa. Sau đó họ cùng
những người đồng hương khác, những người di cư độc thân, cùng với nhiều người
An Nam nối tiếp nhau từ miền Trung vào vùng đất khai phá, trong đó phần lớn là dân
Nam Ky. Do đó, ngôi đền mà chúng ta đang nói đến được dựng lên bởi hậu duệ của
những người tiên phong Tàu để duy trì sự sùng bái nhà Minh và Trân Thâng Tài, một
trong những chiến binh dũng cảm của họ đã lưu vong và hy sinh ở nước ngoài vì sự
nghiệp mà ông đã bảo vệ.
Ngôi đền dành riêng cho việc cúng hiến
vong linh hoàng gia, nằm trên đường Marins gần đồn cảnh sát trung tâm, vẻ ngoài
khiêm tốn.
Ở cả hai bên của chánh điện dành
riêng cho hoàng hiệu Long phi (Rồng), chúng ta thấy, được khắc bằng chữ lớn,
tên và tước vị của Trần Thắng Tài và Nguyễn Phước Lễ một bên và những người
Minh-hu'o'g đầu tiên nổi tiếng ở bên kia. (1. Trịnh Hoài Đức, sanh ra ở Biên Hoà, là con của
người tị nạn năm 1811, được Ngụyễn Ánh (Gia Long) cử đến triều đình Bắc Kinh để
cầu phong cho người đã thống nhất ba phần đất nước dưới quyền của mình. Ông là thượng
thư bộ hộ và chịu trách nhiệm viết Quốc Sử. Ông có một cuốn địa lý sơ cấp về Hạ Nam Kỳ "Gia Định Thông Chí"
được dịch sang tiếng Pháp.
2. Ngô Nhơn Tịnh cũng từng là Thượng thư bộ Công tại triều đình Huế và là phó sứ của Trịnh
Hoài Đức.
3. Vương Hữu Quang, người cùng thời với
hai người đi trước, là một quân đại thần có công, rất uyên bác)
Không cần phải nói, việc thờ cúng những
người này đã không xuất hiện trong ngôi đền sau khi thành lập và rất lâu sau
khi họ mất, chỉ khi người ta nhớ lại những cống hiến đặc biệt của họ đối với
nhà vua.
Ban đầu, những hậu duệ nam giới khá
giả của những người Tàu định cư đầu tiên được liệt kê vào danh sách thành lập của
ngôi chùa. Sau này, người ta ghi tên tất cả người Minh Hương mong muốn trở
thành một phần danh sách.
Ban trị sự được đại diện bởi bốn người
phú hào, quản lý tài chánh, trông coi việc thờ cúng và bảo quản đền, ngân sách
được cung cấp bởi thu nhập đáng kể từ tiền cho thuê nhà.
Một thân hào An Nam của Chợ Lớn, Ông
Kha Vân Lân, một lương y, được lòng công chúng, đã nhiều năm phụ trách Minh Hương
Gia Thạnh được nhiều người biết đến.
Lễ hội tưởng nhớ nhà Minh, diễn ra
hàng năm vào hai tuần đầu tháng Giêng theo âm lịch, luôn được tổ chức hào nhoáng.
Ông Kha Văn Lân, chủ ban trị sự Minh
Hương Gia Thạnh
Ngôi đền được giao phó, giống như các
đền khác, sự chăm sóc cho một ông từ chịu trách nhiệm duy trì việc nhang đèn,
trong dịp này được chiếu sáng rực rỡ, được trang bị và trang trí rất nghệ thuật.
Bạn có thể chiêm ngưỡng vô số những tấm thảm sang trọng. những bức tranh thêu thếp
vàng được treo dọc theo những cột gỗ cứng khổng lồ nâng đỡ các cổng bao bọc bằng
những mảnh lụa dài nhiều màu được sắp xếp một cách nghệ thuật để tạo thành các
tua, huy hiệu, phù hiệu bằng lụa. Các bàn thờ được sắp xếp trong gian chánh và
phủ lên mặt trước bằng những tấm lụa hình chữ nhật có thêu hình các con vật tượng
trưng là rồng, lân, phụng, ... bày hàng loạt đồ vật cổ và quý hiếm: bình sứ cổ,
ấm trà có giá trị. và bộ trầu cùng với những chiếc ku7 hương hoa nghệ thuật
và những chiếc chân đèn cầy bằng đồng và đồng thau.
Vào ngày quy định, buổi lễ bắt đầu
vào khoảng bảy giờ tối với âm thanh của một dàn nhạc đặt gần đó, cùng các lễ vật
cúng dường cho các anh linh bao gồm một con heo, một Bò, một dê, thui và mổ ra,
mỗi thứ đặt trên một mâm riêng (Những lễ vật này được gọi là Tế Tam Sanh
(lễ cúng ba đầu gia súc. Theo một phong tục cổ xưa, ở đây cũng như ở nơi khác,
chùa tiến hành việc chặt xác các con vật, thui và cung cấp nhiều hơn hoặc ít phần
lớn hơn cho các thành viên tùy theo cấp bậc của họ hoặc của họ. thứ bậc) kèm
theo hoa dồi dào, đèn cầy sáp ong lớn, nhang đã đốt. Những chức sắc của đền,
trong trang phục nghi lễ lớn (Những bộ trang phục xưa này và vẫn được mặc
bao gồm các nghi lễ hoặc lễ cưới, ngoài chiếc khăn xếp quấn quanh đầu một cách
nghệ thuật, còn có một chiếc váy lụa màu xanh lơ với ống tay rộng dài quá cánh
tay và quần dài bằng lụa trắng.), đắm chìm trong âm thanh của âm nhạc,
trong hàng dài người đông đúc đang quỳ lạy. Bữa tiệc ấn tượng sau đó được đãi
cho tất cả các thành viên được mời vào dịp này, có đến hàng trăm người. Lễ kéo
dài hai ngày, riêng phần thứ hai, vào khoảng bảy giờ tối, để cúng dường những
người sáng lập ngôi đền, bao gồm thức ăn và heo quay nguyên con, cũng như tất cả
các nghi lễ thông thường là không quên pháo. và 'rượu gạo truyền thống đi kèm cho
tất cả các lễ hội và nghi lễ Tàu An Nam.
2 — Nghîa Nhuận Hội Quán
Bến nhà máy rượu
Ngôi chùa An Nam này được xây dựng
sau khi Pháp chiếm đóng vào khoảng năm 1872, với số tiền thu được từ quyên góp,
để thờ Quan công khi chùa (Miêu) đang rơi vào cảnh hoang tàn. Nó là kiểu kiến
trúc kiểu Tàu, nhỏ hơn một chút so với các miếu khác, nhưng được bảo quản tốt
hơn.
Ngân sách của nó, thuộc loại khiêm tốn
nhất, được cung cấp bởi tiền thuê từ các mảnh đất đô thị. Việc quản lý, trong
những năm đầu tiên tồn tại, được giao cho một ban bao gồm các nhà tài trợ chánh,
những người đã đóng góp tài chánh cho việc xây dựng. Ban này, trong một thời
gian dài, do ủy viên hộ đồng thành phố Chợ Lớn S. E. Đỗ Hữu Phương (Đỗ Hữu
Phương (1840-1914) được đặt tên cho một đại lộ ở Chợ Lớn, là một
người bạn lớn của Pháp, ông đã có nhiều giúp đỡ nổi tiếng. Ông là một nhân vật
cao quý được biết đến, là dây nối giữa người bảo hộ và dân Nam Kỳ trong việc
bình định mà ông đóng góp phần lớn. Ông được phong chức Tổng Đốc và chỉ huy
quân đoàn danh dự. Các con trai của ông, lớn lên ở Pháp, là những người xuất sắc
và phục vụ quốc giabảo hộ với nhiều tư cách khác nhau.)
Giống như tất cả các ngôi chùa ở An
Nam, Nghĩa Nhuận Hội Quàn ít nhiều được điều hành tốt bởi ban bệ nói trên mà
các thành viên không được xác định rõ ràng. Ông Đỗ Hữu Trí, cố vấn ưu tú của
tòa phúc thẩm ở Sài Gòn, một trong những người con của Tổng Đốc lừng lẫy, người
quan tâm đến mọi thứ từ người cha quá cố của mình, đã ủng hộ cho hội chùa một
tư cách dân sự bằng cách thay đổi sự tổ chức ban đầu của nó.
Ban quản trị hiện do một doanh nhân ở
Nam Kỳ làm chủ tịch, ông Trương Văn Bền, nhà kỹ nghệ nổi tiếng, cựu cố vấn thuộc
địa.
Lễ và nghi thức được cử hành hàng năm
ở đây, cũng như tại các ngôi đền tương tự, giống nhau tận hôm nay, chẳng hạn
như cách tổ chức và nghi lễ đã áp dụng, miễn mà khi chúng tôi quay trở lại đây.
Cũng cần phải nói thêm rằng đó là ngôi
chùa An Nam duy nhất được chính thức công nhận, nhờ ông Đỗ Hữu Trí và sự quản
lý của ông đã làm thay đồi mới.
3 — Phước An
Hội Quán
Đại lộ
Frédéric Drouhel (Hùng Vương).
Bữu Sơn Hội
Quán
Đường Xóm Vôi
Ngôi đền được đề cập giá đầu tiên ở
trên hầu như trong tình trạng mới, mặc dù nó đã có từ một phần tư thế kỷ.
Ban đầu là một Miêu nhỏ như các ngôi
chùa đã nói ở trên dùng để thờ Quan-công và đã rơi vào cảnh hoang tàn vì thiếu tu
bổ. Một ban trị sự người An Nam đã chăm sóc, nhưng không thể xây dựng lại, đã
quyết định vào năm 1900 trao quyền quản lý và đặc quyền cho một hiệp hội Minh
Hương được thành lập có chủ đích nhằm hồi sinh nó và duy trì sự sùng bái mà miếu
đã từng cống hiến.
Ngoài ra, An Hòa Cổ Miếu xưa cũng được
xây dựng lại dưới dạng một ngôi chùa mới, đẹp đẽ và được trang bị những đồ sang
trọng, được trang bị hợp lý. Ban trị sự năng động vận mạng của chùa do ông Nguyễn
Chiêu Thông, nguyên ủy viên hội đồng thành phố chỉ đạo.
Bữu Sơn Hội Quán. - Cuối cùng ngôi
chùa An Nam theo dạng Miêu thờ Quan-công ở đường Xóm Vôi, quận 2 (thời
Pháp thuộc). Đây là một ngôi đền bình thường với ít của cải và có niên
đại xây dựng khoảng ba mươi năm. Chùa có tên là Chùa Bữu Sơn, việc quản lý ngôi
chùa được giao cho một ban trị sự do ông Dương Công Cẩn làm chủ tịch.
4 — Giác
Viên Tự
Thường gọi là
chùa Hổ Đất
Ngôi chùa quan trọng, nổi tiếng nhất
và được nhiều người lui tới, là kiểu chùa hoàn hảo của Phật giáo An Nam. Tọa lạc
tại một khu yên bình, cách xa sự ồn ào của thành phố, giữa những tàn cây xanh
tươi, tắm mát bởi một con rạch nhỏ. Giác Viên Tự được tạo ra bởi tôn sư Hôa thượng
Hải Tịnh của chùa Giác Lâm (Phú Thọ) cách đó khoảng một cây số. Ban đầu nó là một
ngôi đền chật chội và thấp, được thành lập ở nơi này, năm Gia Long thứ 2 (1803)
để thuận tiện cho việc thờ tự. Quả thật, Hải Tịnh đã ấp ủ mong muốn xây dựng lại
ngôi chùa Phú Thọ của mình và vì mục đích này, ông tạm thời cất giữ những khúc
gỗ lớn và vật liệu làm chùa do ông đề xuất xây dựng lại. Những khúc gỗ và vật
liệu theo đường nước sau đó được xe bò vận chuyển đến xây dựng.
Giác Viên
Tự
Sau đó, Giác Viên Tự được trông coi bởi
các vị sư trụ trì tốt, bằng lòng vị tha và cuộc sống khắc khổ của mình, đã có
được niềm tin và sự kính trọng của các tín đồ. Với số lượng tín đồ ngày càng
tăng, thông qua sự hào phóng và sự quyên góp, đã đảm bảo sự thịnh vượng của chùa,
phần lớn là do Hòa Thượng hiện nayi, đặc biệt nhất mà chúng ta được biết.
Đại Đức
hòa thượng Hoàng Ngãi (Trần Văn Phong) trụ trì Giác Viên Tự (Chợ Lớn) qua đời
ngày 28 tháng 12 năm 1929
Được tôn lên bởi ý muốn của người dân,
ông có chức phẩm tương đương với Hòa Thượng vào năm 1924, theo các nghi lễ Phật
giáo trang nghiêm cùng lúc với hai. đồng sự (Đại dức Từ Phong (Nguyễn Van Tường)
và Thanh Ân (Ngùyên Văn Bân) hòa thượng các chùa Giàc Hải và Từ Ân)
Đai đức Trân Vân Phong (pháp danh Hoàng Ngâi) sinh năm 1857 tại Bà Điểm (Gia Định).
Cha của ông, một lương y, đã dạy ông chữ Hán từ rất sớm.
Vào năm 18 tuổi, thiên hướng của ông
đối với việc gia nhập giáo hội mạnh mẽ đến nỗi, việc từ chối kết hôn có nguy cơ
làm mất lòng người bác và chú của ông. (Ông mất cha mẹ sớm) ông cân nhắc đi tu
và được thụ giới sa môn ở tuổi 25 tại ngôi chùa mà ông đã trông coi hơn ba mươi
lăm năm với rất nhiều tinh thông, lòng nhiệt thành và sự tận tụy. Với lương tâm
tu nghiệp, tân sa môn mang những phẩm chất mạnh mẽ nhất của trái tim, chỉ sống
trên cây cỏ, đi chân đất, nằm nghiêng và chỉ chấp nhận một cách miễn cưỡng những
danh hiệu mà các giáo sĩ Phật giáo ban tặng cho mình bằng con đường thăng tiến.
Đây là cách mà ông ấy phải mất hơn 25
năm để vượt qua hai cấp bậc của hệ thống tôn giáo. Không cần phải nói rằng một
cuộc sống khắc khổ như vậy không thể không nhận thấy và rằng vị đại đức không
thể áp đặt mình lên sự tôn kính của các tín hữu bằng rất nhiều sự hy sinh và khổ
lực cống hiến cho việc phục vụ Tôn giáo.
Không bằng lòng với việc làm cho ngôi
chùa của mình trở nên thịnh vượng nhất ở Chợ Lớn, ông đã tiến hành tu bổ lại
chùa Giác Lâm (Phù Thọ) mà vị thượng tọa đầu tiên là Hòa thượng Hải Tịnh –- được
thành lập vào năm 1903 do ông hiện trụ trì. Ông đã dành 3 năm liên tục nỗ lực
cho chùa, giám sát công nhân, chia sẻ với họ những vất vả của lao động thủ công,
chăm sóc mọi thứ một cách thành thạo.không thể chối cãi.
Giác Lâm Tự
(nhìn bên hông) ở Phú Thọ (Gia Định)
Ông ấy đã thành công trong việc đưa
Giác Lâm Tự 'trở thành một trong những ngôi chùa đẹp nhất trong nước, và giao
quyền trông coi cho Yết ma Phạm Vân Tiên đệ tử của ông.
Để nhìn thấy hai
ngôi chùa vừa nói được xây dựng tốt như vậy với rất nhiều đồ trang trí và điêu
khắc tinh xảo và trang bị sang trọng đến mức người ta sẽ nghĩ rất giàu có. Đúng,
nhưng không phải bằng tiền mặt hoặc thu nhập đáng kể - Chùa có được là nhờ sự
tiết kiệm khôn ngoan của vị sư trụ trì và bằng cách sử dụng tốt những quyên góp
nhận được. Chúng tôi đã không nhận ra thời gian hoặc sự kiên nhẫn mà vị sư trụ
trì tốt bụng này dành cho việc chắt chiu từng đồng theo thời gian, mà không bao
giờ chạm vào nó, cho đến khi số tiền thu được cho phép thực hiện những việc nhất
định mà ông ta cho rằng nên làm cho chùa của mình. Sau đó,ông ta đưa thợ đến
làm việc và trả tiền cho họ.
Ngôi mã của
đại đức Hoàng Ngãi
Ông rất yêu mến ban tặng cho ngôi
chùa của mình vô số đồ trang trí, điêu khắc, lư hương và chân đèn nghệ thuật,
góp phần vào việc làm đẹp chung. và ông ta không thể có được ngay lập tức, vì thiếu
tiền.
Giác Viên Tự ngoài các khoản đóng góp
nhận được, có một khoản tiền thuê là 1000 gia thóc do ruộng lúa là tài sản độc
quyền mang lại. (Chúng tôi thông báo về sự tiếc nuối cái chết của nhà sư ưu
tú, đang đề cập ở đây với độc giả. Ông viên tịch vào ngày 23 tháng 12, ở tuổi
63. Đám tang của ông, diễn ra vào ngày 3 tháng 1, được tổ chức trang trọng. Đã
có nhiều đoàn tín hữu đến từ khắp nơi của Nam Kỳ)
Yết ma Phạm
Vân Tiên, người kếvị đại đức Hoàng Ngâi sinh năm 1875 tại làng Bình nguyên i
(Gia Định) sáp nhập vào thành phố.
5 — Giác Hải
Tự
Phú Lâm
Ngôi chùa có niên đại gần đây (Mậu Tý 1887) được thành lập ở
giữa một khu đông dân bản địa, trong một khu vườn rộng lớn, do một phụ nữ An
Nam làm chủ đất. Bà Hồ Thị Lộc (đó là tên của người sáng lập) đã xây dựng ngôi
chùa và giao việc trông voi cho Chủ tọa Nguyễn Minh Sự.
Sau cái chết của ông vào năm 1908, một
nhà sư cấp tiến, thông minh, có học thức và đầy sáng kiến đã kế vị ông, và dưới
sự lãnh đạo của ông này, ngôi chùa đã phát triển sau cái chết của nhà sư trước
đó. Chùa phất lên nhanh chóng và không bao lâu thì quá chật hẹp không đủ chỗ
cho đông đảo tín hữu thu hút bởi tiếng tốt của nhà sư trụ trì Nguyễn Văn Tường,
sinh tại Vình Thạnh - (Gà Công) năm 1863, cha mẹ giàu có. . Lẽ ra, ông có thể sống
hạnh phúc giữa gia đình và lặng lẽ tận hưởng di sản của cha mẹ.
Nhưng ông lại thích dùng năng lực của
mình vào việc phụng sự Đức Phật và trở thành nhà sư. Sau khoảng thời gian năm
năm, ở trong một ngôi chùa trong tỉnh mình, ông đã đến tiếp quản chùa từ Chủ tọa
Nguyễn Minh Sự và làm cho nó trở nên thịnh vượng.
Ông thành Yêt-ma vào năm 1912, năm mà
ông đảm nhận, với sự giúp đỡ của một số tín hữu giàu có, việc tái thiết ngôi
chùa đã được thực hiện, như nói ở trên, quá chật hẹp và không còn đáp ứng với vệ
sinh cơ bản hiện nay.
Bàn thờ chánh
Giác Hải Tư Phú Lâm (Chợ Lớn)
Đại đức hòa
thượng Từ Phong (guyễn Văn Tường)
trụ trì Giác Hải Tự
Ngôi chùa mới đã thấy ngày khánh
thành trang trọng; không chỉ ở cái tân. Trụ trì của chùa đồng thời là kiến
trúc sư, nhà sư cấp tiến, như chúng tôi đã nói, ông đã dịch một số kinh
thiêng liêng sang tiếng Quốc Ngữ phổ biến để sử dụng cho những tín đồ không đọc
được chữ Hán và ông đã thực hiện nhiều chuyến thuyết giảng ở miền tây Nam Kỳ, cho
rằng nhiệm vụ của ông là phải cung cấp kinh kệ ra bên ngoài như của nhà thờ
Công giáo hoặc nhà nguyện Tin lành.
Và ngôi nhà, có dáng vẻ bên ngoài này
như một ngôi nhà chung, được bố trí như một ngôi chùa, sạch sẽ, được giữ gìn cẩn
thận và nhộn nhịp. Để tưởng thưởng cho những cống hiến của ông, nhà cải cách
Yêt-ma đã được nâng lên hàng hòa thượng vào năm 1924. Về mặt thể chất, ông ta
là một vị trụ trì cao cấp, ốm và xanh xao giống như, nói chung, các nhà sư Phật
giáo. sống bằng chay tịnh. Ôg ấy là người niềm nở, không tước đi sự thoải mái
tương đối và thích nghi rất tốt với việc giao tiếp kiểu phương tây.
CHƯƠNG V
1 - Đám ma của nhà sư Hoàng Ngãi
Chiều hôm qua, vào lúc 15 giờ, tại Phú Lâm (Chợ Lớn), đám ma
trọng thể của lãnh đạo các vị sư Nam Kỳ là Trần Văn Phong, pháp danh Hoàng Ngãi
mà chúng tôi đã đề cập về cái chết của ông trước đó.
Hơn một ngàn Phật tử đến tham dự, từ
khắp Nam Kỳ. Họ ở mọi lứa tuổi và thuộc mọi tầng lớp xã hội, bằng chứng là có rất
nhiều chiếc xe hơi sang trọng đã chuyên chở nhiều người trong số họ.
Vào lúc 1 giờ rưỡi chiều, chiếc quan
tài xa hoa, sơn màu đỏ, có khắc các ký tự bằng vàng, được đưa ra khỏi nhà tang
lễ một cách trang trọng, ku7u lại giây phút trước sự tôn kính của các tín đồ,
trong khi các nhà sư Phật giáo, trong trang phục nghi lễ sặc sỡ, đọc kinh cầu
an, tiếng vang đều đều của mõ cây và chuông đồng.
Theo phong tục, lễ chôn cất diễn ra
trong sân chùa nơi nhà sư quá cố cư ngụ, và la nơi an nghĩ của nhiều nhà sư tiền
bối nằm trong các ngôi mã bằng đá Biên Hoà đã tạo ra diện mạo của một nghĩa
trang Phật giáo nhỏ
Huyệt đã được chuẩn bị trước và được
tráng xi măng theo kiểu mới thay vì trước đây chỉ đơn giản là phủ một lớp vữa mỏng
lên các thành trong.
(Báo Echo
Annamite ngày 1 tháng 1 năm 1930)
2 – Một vị
tổ sưi tự thiêu
Quý độc giả còn nhớ cách đây vài năm,
phóng viên riêng tại Huế đã tường thuật cho chúng tôi một sự kiện gây chấn động
ở cố đô An Nam: Huề thượng Hoàng Nguyên đã hạ quyết tâm chấm dứt cuộc đời, bằng
cách thiêu (thân tàn) của ông theo nghi thức của Phật giáo. Nhưng chánh quyền
Pháp đã can thiệp, cấm tự sát kiểu này, Được coi là dã man. Nhà sư phải tuyệt
thực để được lên cõi Niết bàn.
Một sự kiện tương tự cũng vừa xảy ra ở
Biên Hòa tại chùa Phước Long, thuộc làng Hiêp Hoà thuộc thị trấn Phước Vĩnh Tường.
Vị sư trụ trì Đào Văn Nuôi, 60 tuổi ra lệnh cho các đạo hữu rời rời chùa, vài
giờ sau quay lại.
Khi vắng mặt họ, vị tu sĩ Phật giáo
già đã tười dầu hỏa và leo lên giàn thiêu, là một đụn cây ngâm trong chất cháy,
rồi ông châm lửa.
Sau đó, ông chờ đợi cái chết, ngồi
yên lặng, chắp tay cầu nguyện, trong tư thế xuất thần, trên đầu cột rơm.
Khi trở lại, các đạo hữu đã thấy xác
chết cháy của ông ta.
Đào Văn Nuôi có cá tính rõ rệt và
khiêm tốn không nói cho ai biết về dự tính rùng rợn của mình, điều mà chánh quyền
địa phương chắc chắn sẽ phản đối, nếu họ được biết. Hoàng Nguyên không biết cách
nào để quan sát sự định đoạt này. Chúng ta hãy nói, để miễn tộ cho ông ta, rằng
ông ta không mong đợi sự chống đối gặp phải khi thực hiện mong muốn của mình. Đạo
hữu của ông ở Nam Kỳ chắc chắn đã tận dụng được kinh nghiệm này.
cái chết của hai vị sư ngoan đạo này
đủ chứng minh rằng, bất chấp sự suy đồi đạo đức hiện nay, thậm chí ảnh hưởng đến
giới tôn giáo, chúng ta vẫn tìm thấy, ở đất An Nam, các môn đồ của Thích Ca, những
người khá tin tưởng và tách ra khỏi những vương vấn cuộc đời để hy sinh mạng sống
cho đức tin của họ.
(Báo Echo Annamite ngày 31 tháng 3 năm 1930)
(hết)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét