Đây là một ký sự của ông M.
Delteil, dược sĩ trưởng của hải quân đã về hưu viết về chuyến du hành của ông đến
Nam Kỳ trước năm 1887 (thời gian phát hành bài này). Tôi chỉ lược dịch những phần
liên quan tới thành phố Sài Gòn thôi, để cho các độc giả hình dung cái không
khí của thành phố trong những thời kỳ đầu hình thành.
MỘT NĂM LƯU LẠI TẠI NAM KỲ:
HƯỚNG DẪN CHO KHÁCH DU LỊCH ĐẾN SÀI
GÒN
M. Delteil
CHƯƠNG HAI
TÓM TẮT. .- Đến Sài Gòn.-
Khách sạn Favre. - Làm thế nào để tìm chổ ở và tiện nghi ở Sài Gòn – Giặt ủi –
may mặc – đóng giầy – thăm chính quyền - Ông Le Myre de Yillers, cách thức ông
tiếp đón – mô tả thành phố - tiệm ba za – khu vườn thích nghi khí hậu – đại lộ
Norodom – thánh đường – dinh toàn quyền – đường Catinat – Những ngôi nhà – tháp
nước.
Chuyến đi du khảo ở Gò Vấp –
điều tra thực địa Chợ Lớn – dòng người Tàu
lễ trong chùa – viếng đồn Cây Mai – những khu vườn trồng rau – trở về
Sài Gòn
Đã được báo trước một ngày tại
Sài Gòn, bởi văn phòng điện báo của mũi Saint-Jacques, chúng tôi được chờ đợi bởi
các đồng nghiệp và bạn bè đến bên tàu Oxus để chào đón chúng tôi và sẵn sàng hướng
dẫn và đưa chúng tôi đến nơi ở. Chúng tôi cùng hành lý xuống một chiếc ghe tam
bản, một loại ghe nhỏ điều khiền bời một người An Nam và con gái của ông; đưa
chúng tôi vượt kênh Tàu Hủ, một nhánh của sông Sài Gòn chia cắt hảng
Messageries và thành phố (thời gian này chưa có cầu quay nối Khánh Hội với
thành phố.N.D) và đưa chúng tôi lên bờ tại bờ kè có nhiều băng đá nơi
đó có một cột cờ được dựng lên (Cột cờ Thủ Ngữ). Nơi đây được biết
với cái tên thân thuộc là điểm của những kẻ tán dóc (Pointe des Blagueurs); là
nơi thường xuyên vào mỗi buổi chiều tôi, sau buổi ăn, những người đi dạo đến để
hít thở không khí trong lành của dòng sông và tham dự những chuyến đi không ngừng
của những chiếc thuyền đưa họ đến Chợ Lớn, thành phố người Tàu, nơi có nguồn
hàng hóa phong phú. Từ đó chúng tôi leo lên một loại xe địa phương, như một cái
hộp vuông được kéo bởi con ngựa nhỏ ốm nhom do người Tàu lái và không biết một
chút tiếng Pháp nào cả. Muốn di chuyển bên phải hay trái hoặc đằng trước. anh
ta chỉ cần đập cây gậy vào lưng con ngựa. Những người mới đến, thường nghỉ rằng
sẽ có người hướng dẫn trong xe, thường rất bối rối khi giao phó cho những người
xa lạ này, nên họ bị lợi dụng bởi sự ngây thơ để đưa họ đi lung tung rồi tính
tiền giờ thật nhiều vào.
Chúng tôi băng qua một phần
của cảng Commerce (Bến Bạch Đằng), ở cuối đường Catinat và xuống
xe tại khách sạn Favre, một dạng trạm dừng cho du khách theo kiểu các khách sạn
của Tích Lan (Skrilanca) và Singapore. Khách sạn này là một sự quan tâm thực sự
cho du khách; đó là khách sạn duy nhứt của thuộc địa chúng tôi có cơ ngơi được
ưa thích và hiểu biết ý của du khách. Cái người đã lập bảng thiết kề và xây dựng
hẳn là một đầu bếp lành nghề và một nhà tổ chức xuất sắc. Ông nghĩ rằng, vì số lượng
đáng kể du khách quân sự hoặc dân sự đến thuộc địa, mỗi năm cần phải thiết lập ở
Sài Gòn không chỉ là nơi nghỉ dường tạm thời trong những ngày đầu tiên, mà còn
là một khách sạn phù hợp có khả năng giữ lại những người độc thân và vãng lai,
cung cấp cho họ các phòng lớn và được trang bị tốt, một bàn ăn tuyệt vời, một
nơi gặp gỡ và một dịch vụ được thực hiện tốt. M. Favre đã thành công trong việc
hiện thực hóa ý tưởng này; và, sau một vài năm, các quan niệm này đã thành công
đến nỗi ông ấy đã trổ về Pháp về một tài sản nhất định, để lại cho người kế nhiệm
của ông ấy một cơ sở thịnh vượng hoàn toàn.
( - Ông
Delteil ghi trong sách ông là “Hôtel
Favre” nhưng theo Niên giám Nam Kỳ thuộc Pháp (“Annuaire de la Cochinchine française”) các năm
1879, 1880, 1881 thì có ghi là “Hôtel
Fave” (khách sạn Fave) trên đường Catinat chứ không phải
Favre. Và người điều hành khách sạn là ông A. E. Fave (hôtelier, restaurateur).
Đến năm 1881 thì khách sạn Fave là do ông Laval quản lý và niên giám năm này có
ghi ông A. E. Fave làm bánh mì (boulanger) ở đường Catinat và đường Bonnard.
Như vậy thì ông Delteil đã ghi lầm Fave thành Favre. Theo ông Fabiani (22)
trong hồi ký xuất bản năm 1878 thì khách sạn “Hôtel Fave” (ghi
đúng là Fave) là khách sạn tiện nghi, đẹp, có vườn và thiết kế qui cũ. Các
phòng đều rộng rãi, có nước, phòng tắm. Khách sạn do ông Élisée Fave thiết kế
và được xây bởi các ông Bazin, Cazaux và Salvaire dưới thời của chuẩn Đề đốc
(Contre-Amiral) Duperré trên một nền đất đầm lầy mà mọi người cho là khó xây dựng
được. Niên giám Nam Kỳ 1876 ghi các ông François Bazin là thầu (entrepreneur),
ông Cazeaux là thợ thiếc (ferblantier) và ông Salvaire làm đèn (lampist) trên
đường Catinat.
- Ngoài khách sạn “Hôtel
de l’Univers” ở đường Turc, một khách sạn lớn, tiện nghi trên đường
Catinat vào những năm của thập niên 1870 và 1880, trước khi có khách sạn
Continental là khách sạn “Hôtel Fave”. Khách sạn Fave là nơi
đầu tiên mà những viên chức quân, dân sự từ Pháp mới đến Sài Gòn làm việc hay
lập nghiệp đến tạm trú ngụ trước khi kiếm được nhà riêng. Theo ông Arthur
Delteil (20), nhà dược học người Pháp, ghi lại (7) khi ông đến Sài Gòn năm 1882
thì khách sạn Fave gồm 3 tầng: tầng trệt là nhà ăn có các quạt “panca” trên trần nhà, hai
tầng trên là các phòng, mỗi phòng đều có nước “robinet” và vòi sen (một tiện
nghi lúc bấy giờ). Khách sạn được ông Fave xây, và với sự thành công của khách
sạn, ông đã trở nên giàu có khi trở về Pháp (21).
Cũng theo ông Delteil thì
khách sạn Fave ở trên đường Catinat, chiếm hầu hết không gian giữa đại lộ
Bonnard và đường d’Espagne. Đối diện với khách sạn Fave là phòng bán đấu giá
các bàn ghế, giường tủ… rất tiện lợi cho những ai muốn có hay mướn được nhà
riêng đến để mua trang bị cho nhà mới. Hiện nay vẫn chưa xác định chính xác
được “Hôtel Fave” ở đâu (ở vị trí cũ
của khách sạn Continental, góc đường Catinat và đường d’Espagne hay cạnh đó?).
Nguồn: Nguyễn Dức Hiệp- Đường
Catinat đầu thế kỷ 20)
Khách sạn Favre chiếm gần
như toàn bộ phần của đường Calinat giữa đại lộ Bonard và đường d' Espagne (Lê
Lợi và Lê Thánh Tôn). Khách sạn nằm ở trung tâm thành phố, trên con đường
nhộn nhịp buôn bán sầm uất và gần bến cảng và các điểm vận chuyển của Messageries
và vận tải chiến tranh. Ở tầng trệt có một phòng bi-a, một nhà hàng lớn cho những
người muốn ăn một mình hoặc cho các nhóm nhỏ, và hai hoặc ba phòng ăn nhỏ khác
cho khách trọ tháng. Trong bữa ăn, khách được làm mát bằng sự di chuyển chậm chạp
của những chiếc Panca khổng lồ đặt trên đầu họ, hoạt động như những chiếc quạt
khổng lồ. Biệt thự bao quanh ngôi nhà từ phía trước và từ phía sau. Những mái
hiên bao bọc khách sạn từ trước ra sau. Tầng thứ nhất và thứ hai chiếm từ 50 đến
60 phòng. Một hành lang rộng, thông thoáng, ngăn cách các phòng thành hai hàng,
một hàng nhìn ra sân và một hàng nhìn ra đường. Đó là những phòng rất đắt và được
đặt chổ nhiều nhất. Các phòng được xây dựng và trang bị theo một kiểu cách thống
nhất, không sang trọng, nhưng luôn có sự hài hòa nhất định. Bên cạnh mỗi hàng
là một phòng tắm có vòi sen, bồn tắm và rô bi nê mà bạn chỉ phải xoay để lấy nước
sạch. Sự lắp đặt này là một nét thiên tài của người thiết kế khách sạn, vì thực
tế, cạnh bạn, chỉ có tầm tay, bất cứ lúc nào ở một nơi nóng như Sài Gòn. Nước
được sử dụng tùy thích tha hồ dưới các dạng tắm, vòi sen, rửa lạnh, tạo thành một
niềm vui mà không thể so sánh với bất kỳ việc gì! Khi trong cái nóng ngột ngạt
của tháng Tư và tháng Năm, nhiệt kế vẫn ở mức 31 độ. Ngày cũng như đêm, niềm
vui thể chất lờn nhứt là được đắm mình trong làn nước lạnh, tạo thành một sự
tiêu hao năng lượng kéo dài đủ lâu để mang lại sự thư giãn và hạnh phúc trong
vài giờ. Chính sự tắm rửa với nước lạnh này giúp bạn vượt qua những tháng nóng
nhất trong năm mà không phải căng thẳng bực dọc.
Việc mưu cầu cho sự thoải
mái cho các khách trọ đã tạo ra nhiều điều hơn cho việc thành công của khác sạn.
Ngoài ra, nhiều sĩ quan đã không ngần ngại cư trú ở đó trong suốt thời gian họ ở
Nam Kỳ, thay vì ra ở tại những ngôi nhà riêng, bắt buộc phải bày biện tiện nghi,
phục vụ ít hơn tại khách sạn và chắc chắn không đáp ứng các tiện nghi như tôi vừa
nói đến.
Giá của các phòng là từ 13 đến
15 piastres (65 đến 75 fr.). Về tiền thuê, đây là một mức giá rất phải chăng
cho các sĩ quan đến phục vụ tại Nam Kỳ và có mức lương thường khá cao. Đó là 30
piastres mỗi tháng (150 fr.): Rượu, nước đá, cà phê, rượu mùi, 10 món ăn để lựa
chọn và dịch vụ đi kèm.
Tôi quyết định ở lại khách sạn
và thuê ở đó hoàn toàn trong suốt thời gian tôi ở Sài Gòn, Những người thích sống
ở thành phố và đặt mình vào vị trí đặc biệt của họ khi được tha hồ lựa chọn. Họ
có thể tìm thấy, trung bình từ 75 đến 100 fr. mỗi tháng, cho những ngôi nhà nhỏ
hoặc nhà lớn hơn một chút thì từ 125 đến 150 franc; người ta lấy chúng cả hai để
trả ít hơn. Mỗi một gia đình có nghĩa vụ phải đặt ít nhất 100 fr. trong tiền
thuê nhà Vì việc cho thuê các tòa nhà rất có lời ở Sài Gòn, những người kiếm được
tiền từ việc kinh doanh hoặc có một số vốn nhỏ thường đầu tư vào những ngôi nhà
mà họ xây hay mua để cho thuê. Họ đảm bảo thu nhập từ 10 đến 12%. do đó khá dễ
dàng để tìm chỗ ở khi bạn không muốn sống trong khách sạn.
Bạn phải có nhiệm vụ phải tự
trang bị cho ngôi nhà và thực hiện các chi phí bày biện ban đầu. Trong trường hợp
này, chúng tôi rẽ vào phòng đấu giá trên đường Catinat, nằm đối diện khách sạn
Favre. Bạn có thể tìm thấy, rất rẻ, đồ nội thất, giường, bát đĩa, vv, từ những
người đã rời khỏi thuộc địa. Đối với những chiếc ví ít tiền hơn, tôi khuyên đến
các cửa hàng Tàu ở đường Catianat chuyên bán giường và ghế bằng tre với giá rẻ
không đáng kể. Thật nhẹ, chắc và sử dụng tốt. Nếu bạn không kén chọn, bạn ngủ
trên một chiếc nệm Cam Bốt, có thể gấp lại cho mỗi chuyến đi; giường phải trang
bị một cái mùng và là tất cả để có khi đi ngủ.
Vấn đề lớn sau đó là có được
một người giúp việc và một đầu bếp, nếu bạn ăn ở nhà. Người giúp việc nói chung
là người An Nam; rất đắt, từ 30 đến 40 fr. mỗi tháng, kể cà nuôi ăn, và không
có giá trị nhiều. Đó là những chàng trai trẻ từ 18 đến 20 tuổi được gọi là bồi
(boy), họ lười biếng, hầu như luôn là kẻ trộm, chúng ta phải thay đổi họ mọi
lúc. Đầu bếp thường là người Tàu: có giá 40 hoặc 50 fr. mỗi tháng. Chúng tôi hầu
như luôn hài lòng với họ và họ nhanh chóng tìm hiểu về thói quen của ẩm thực
châu Âu và thị hiếu của những người mà họ phục vụ. Chỉ có họ là không thích bị
làm phiền trong công việc của mình. Vào buổi sáng, chúng ta đưa tiền cho anh ta
đi chợ và chúng ta nói với anh ta: "Với số tiền này, anh sẽ mua cho tôi
bánh mì và thức ăn để làm cho tôi ăn ngon." Anh ta luôn xoay sở với số tiền
bạn đưa cho anh ta và để cung cấp cho bạn một bửa ăn tốt với giá tương đối thấp.
Bạn không bao giờ tính toán với anh ta; nếu có sự khác biệt có lợi cho anh ta,
thì đó là việc của anh ta.
Trong một gia đình có con nhỏ
chúng ta thường cần một người nữ nuôi trẻ. Có những người khá giỏi ở
Sainte-Enfance, họ được các xơ đào tạo, biết may vá, làm việc và nói tiếng
Pháp. Thật không may, vì họ trông xinh đẹp, họ thường suy xét không tốt, như
thường xuyên xảy ra ở Pháp cho các cô gái cùng loại. Tuy nhiên, tôi nghe nói rằng
dịch vụ của những người nuôi trẻ này không tệ. Chúng tôi hài lòng bất cứ điều
gì tốt hơn.
Ngày đầu tiên đặt chân đến
Sài Gòn, tôi đã nhận được chuyến thăm của một số người Tàu đến để cung cấp cho
tôi dịch vụ của họ: đó là tiệm giặt ủi, thợ may, thợ đóng giày, v.v. Mỗi người
trong số họ tự giới thiệu hoạt động cơ sở họ cho sự quan tâm của những người mới
đến. Trung bình một lần thuê là 12 fr. 50 c, người giặt có trách nhiệm giặt và ủi
tất cả đồ giặt có khả năng bị bẩn trong tháng. Và Chúa có biết nếu chúng ta có
thay đổi vải lanh thường xuyên ở một đất nước mà chúng ta hầu như luôn đổ mồ
hôi này không!
Ở Sài Gòn, việc giặt giũ do
đàn ông đảm trách. Thừ nhìn ở đường Catinat, nơi chủ yếu các nghiệp đoàn loại
này đang hoạt động, các thợ thủ người Tàu tiến hành ủi vải lanh; đó là một hoạt
động ban đầu xứng đáng được mô tả. Người thợ ủi ngậm đầy miệng anh ta bằng hỗn
hợp nước và tinh bột và anh ta phun bằng đôi môi của mình, tạo một làn sương rất
mịn của chất lỏng này trên chiếc áo nằm trước mặt anh ta; rôi từ từ sau đó anh
ta lướt qua phần này bằng một loại xoong có cán chứa đầy than đỏ. Với các kiểu
cách nguyên thủy và lò sưởi đơn giản như vậy, vải lanh được ủi thẳng một cách
đáng kinh ngạc và màu trắng rực rỡ.
Đối với quần áo và giày dép,
người Tàu sản xuất cho bạn với giá rẻ đến mức không cần mang từ Pháp một loại
trang phục như vậy để dùng cả. Nào thử đánh giá! Một bộ quần áo hoàn chỉnh kiểu
flannelle (bằng len hay bông) màu xanh nhạt, bao gồm quần, áo ghi
lê và áo veston không có giá hơn 40fr., bao gồm vải cùng kiểu cách. Về phần mình, các thợ đóng
giày Tàu làm cho bạn một đôi giày vải màu đen, mềm mại và mới toanh với giá chỉ
5 fr. Phải không, nếu bạn thích, thanh lịch và tinh tế; nhưng nó lại thuận tiện
và hoàn toàn liên quan đến các yêu cầu của khí hậu. Tuy nhiên, các thợ may và
thợ đóng giày Tàu không chịu đi vào những sáng tạo phóng túng và cách cắt may
có nghiên cứu; vì họ không có khả năng đó. Họ chỉ sao chép một cách mù quáng những
mô hình mà bạn cung cấp cho họ. Chính sự bắt chước này mà tham vọng của họ luôn
bị giới hạn. (Lời nhận xét của tác giả cả trăm năm trước vẫn đúng cho tới
nay)
Bộ đồ vải flanelle và nón kiểu
lô hội nói chung tạo thành loại trang phục được mặc bởi phần lớn người châu Âu ở
Sài Gòn. Một số người trẻ tuổi đã áp dụng kiểu thời trang của các sĩ quan Anh ở
Ấn Độ và Singapore và là ở chổ mặc trực tiếp trên da những chiếc áo khoác trắng
được cài nút từ trên xuống dưới, cái này thay đổi vào mỗi buổi sáng và trừ chiếc
áo Đó là cách ăn mặc giảm đến mức cần
thiết.
(Còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét