Thứ Hai, 18 tháng 6, 2018


Phục hồi Chợ Lớn góp phần phát triển Việt Nam


Nguyễn Quang Duy Gửi đến BBC từ Melbourne, Úc




Thời Pháp thuộc, Chợ Lớn từng là một đặc khu thương mại lớn nhất Đông Nam Á, một khu vực thịnh vượng nhất của người Hoa hải ngoại, nổi tiếng hơn Singapore, ngang tầm với Hong Kong và Thượng Hải.
Ngày nay Chợ Lớn thua xa, thua rất xa ba đặc khu kể trên. Đến cái tên Chợ Lớn cũng biến mất trên bản đồ.
Khách quan nhìn nhận sự suy thoái của Chợ Lớn là hậu quả một chuỗi những thất bại trong việc hoạch định chính sách từ thời Việt Nam Cộng hòa đến nay.
Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đang diễn ra, Việt Nam đến nay vẫn chưa có một trung tâm về tài chính, công nghiệp hiện đại và thương mại được quốc tế công nhận. Thiết nghĩ, Chợ Lớn nếu được phục hồi sẽ là địa điểm thuận lợi nhất.
Nhân tranh cãi về việc thành lập ba đặc khu, xin dành chút thời gian cùng nhau suy ngẫm về quá khứ biết đâu sẽ tìm ra con đường phục hồi Chợ Lớn góp phần phát triển Việt Nam. Rất mong nhận được ý kiến bạn đọc.
Chợ Lớn xưa
Chợ Lớn vốn mang tên Chợ Sài Gòn do người Minh Hương thành lập từ năm 1778.
Người Minh Hương trung thành với nhà Minh chống lại nhà Thanh nên trốn xuống miền Nam. Họ theo chúa Nguyễn đánh Tây Sơn và có công rất lớn trong việc mở mang bờ cõi về phía Nam.
Vì thế Vua Gia Long trao cho họ nhiều đặc ân như quyền tự trị, nhẹ thuế khóa, miễn lao dịch và không phải đóng thuế thân. Các đời vua sau tiếp tục duy trì.
Nhờ thế ngay từ thời Nguyễn, Chợ Lớn đã trở thành khu thu hút Hoa kiều đến lập nghiệp làm ăn buôn bán. Với địa thế vô cùng thuận lợi cho việc xuất nhập cảng nơi này đã trở thành một đặc khu thương mại nổi tiếng trong vùng.
Người Minh Hương từ lâu đã trở thành người Việt nên không có trong số thống kê hay không được nói trong bài này. Hoa Kiều là ngoại kiều Trung Hoa. Còn người Hoa là người Việt gốc Hoa khi đã có quốc tịch Việt Nam. Hoa Kiều và người Hoa là trọng tâm bài viết.






Chợ Lớn thời Pháp thuộc
Khi người Pháp chiếm nước ta, những quy chế ưu đãi được duy trì như cũ, đặc biệt là quyền tự trị của các bang. Người Pháp còn nhìn xa hơn biến Chợ Lớn thành một trung tâm thương mại mang tầm vóc quốc tế.
Ngay khi chiếm được Gia Định năm 1859, người Pháp đã cho rời Chợ Sài Gòn về khu Bến Thành để thành lập thành phố Sài Gòn làm trung tâm hành chính.
Ngày 6/6/1865, Pháp cho thành lập Thành phố Chợ Lớn như một đặc khu phát triển thương mại. Chợ Lớn do các bang trưởng người Hoa quản trị về hành chính là một khu vực giao thương tự do, thuế nhẹ, ít bị người Pháp can thiệp…
Đến ngày 20/10/1879, Pháp ra Nghị định công nhận thành phố Chợ Lớn là đô thị loại 2 ngang cấp tỉnh. Chợ Lớn khi ấy đã trở thành một trung tâm thương mại xuất nhập cảng và sản xuất công nghệ vào bậc nhất của Đông Dương.
Ngày 20/12/1899, Pháp cho thành lập tỉnh Chợ Lớn. Đến thập niên 1950, tỉnh Chợ Lớn có xấp xỉ 1 triệu dân, quá nửa là Hoa Kiều và đa số sinh sống chung quanh Thành phố Chợ Lớn.
Thời Đệ nhất Cộng hòa
Khi đất nước chia đôi, Hoa Kiều gần như nắm trọn việc xuất nhập cảng, sản xuất và cung cấp hàng hóa tại miền Nam.
Đáng quan tâm là Hoa kiều Chợ Lớn vẫn mang quốc tịch Trung Hoa (hoặc Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa - Trung Hoa đại lục, hoặc Trung Hoa Dân quốc - Đài Loan). Họ lại có quan hệ rất chặt chẽ về gia đình, buôn bán với cộng đồng người Hoa ở Singapore.
Cùng lúc, Singapore là thuộc địa Anh, nơi cộng đồng người Hoa chiếm đa số đang nổi lên đấu tranh đòi tự trị. Người Pháp đã nghĩ đến việc Hoa Kiều Chợ Lớn sẽ đòi chính thức tự trị vì thế năm 1948 đã bãi bỏ quy chế các bang trưởng .
Khi Việt Nam thu hồi độc lập ảnh hưởng của các bang trưởng tại Chợ Lớn vẫn còn rất mạnh. Thành phố Chợ Lớn vẫn tự trị và điều hành ngầm dưới quyền các bang trưởng .
Chủ trương của Thủ tướng Ngô Đình Diệm là người Hoa phải bình đẳng và chia sẻ trách nhiệm dân sự như bao công dân Việt Nam khác trong một đất nước vừa thu hồi độc lập.
Chiến lược của ông Diệm là tự do giao thương quốc tế, khuyếch trương công nghiệp và tất cả những hoạt động kinh tế phải do người Việt chủ động làm lấy.
Ngay năm 1955, ông Diệm cho nhập thành phố Chợ Lớn vào thủ đô Sài Gòn đổi tên thành Đô thành Sài Gòn - Chợ Lớn.
Ngày 22/10/1956, Tổng thống Ngô Đình Diệm ký Sắc lệnh 143/VN đổi tên Đô thành Sài Gòn - Chợ Lớn thành Đô thành Sài Gòn. Chợ Lớn chỉ còn là một khu vực nằm trong Đô thành Sài Gòn.
Theo Sắc lệnh 143/VN tỉnh Chợ Lớn hợp nhất với tỉnh Tân An thành tỉnh mới có tên là tỉnh Long An. Một khu vực nhỏ của tỉnh Chợ Lớn nhập vô tỉnh Gia Định. Đặc Khu Chợ Lớn xem như không còn tồn tại.
Trước đó ngày 7/12/1955, Tổng thống Ngô Đình Diệm cho ban hành Dụ số 10 qui định tất cả những ai sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam đều là người Việt Nam. Như vậy hầu hết con cái của Hoa kiều đều là người Việt Nam.

 Tổng thống Ngô Đình Diệm nhận lời chúc mừng từ cao ủy Pháp Henri Hoppenot

Dụ số 48 ban hành ngày 21/8/1956, quy định Hoa kiều sinh trưởng tại Việt Nam là người Việt Nam, bắt buộc phải nhập quốc tịch Việt Nam. Nếu ai không chịu nhập tịch thì phải xin hồi hương về Đài Loan trước ngày 31/8/1957.
Dụ số 52 ban hành ngày 29/8/1956 qui định Hoa kiều sinh sống tại Việt Nam phải mang quốc tịch Việt. Khi có quốc tịch, họ được tự do giao dịch, đi lại và buôn bán. Tên hiệu các cơ sở thương mại, văn hóa phải viết bằng Việt ngữ.
Dụ số 53 ban hành ngày 6/9/1956 cấm người ngoại quốc không được làm 11 nghề. Hoa kiều có vợ Việt có thể tiếp tục kinh doanh dưới tên vợ với điều kiện phải hợp thức hóa bằng một văn kiện hộ tịch chính thức.


Hoa kiều biểu tình phản đối ba Đạo dụ 48, 52 và 53 cho rằng nội dung bài Hoa, cưỡng bức không cho người Hoa quyền chọn lựa quốc tịch, trái với Hiến chương về Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc. Chính quyền nhất quyết không nhượng bộ tuyên bố nếu Hoa Kiều không đồng ý gia nhập quốc tịch thì hồi hương về Đài Loan.
Tòa Tổng lãnh sự Trung Hoa Dân Quốc tại Sài Gòn can thiệp đề nghị Tổng thống Diệm xét lại ba Đạo dụ 48, 52 và 53. Trung Hoa Dân Quốc và Hoa kiều vận động cả Hoa Kỳ can thiệp. Nhưng đều không được ông Diệm nhượng bộ.
Năm 1957, cảnh sát tại Sài Gòn bắt giữ nhiều Hoa kiều, tịch thu thẻ căn cước Đài Loan và tự động cấp cho họ thẻ căn cước Việt Nam, bất kể ý muốn của họ. Nhiều địa phương khác cũng có hành động tương tự.
Vài ngày sau khi ba đạo dụ trên bắt đầu có hiệu lực, Hoa kiều ồ ạt đến các ngân hàng rút hết tiền ký thác đồng thời tìm cách chuyển ngân ra ngoại quốc.
Đồng bạc Việt Nam trên thị trường chứng khoán Hong Kong liên tiếp bị mất giá từ 35 đồng đổi 1 Mỹ kim năm 1956 tăng lên đến 90 đồng năm 1957, và trên thị trường chợ đen lên đến 105 đồng.
Nhiều cơ sở, xí nghiệp thương mại của Hoa Kiều đóng cửa, hay dời về Đài Loan, Hong Kong, Singapore hay những quốc gia Đông Nam Á.
Thương gia buôn bán thịt và vải chống đối mạnh nhất, những người bán thịt đóng cửa tiệm và chuyển sang nghề làm thịt nguội, những người bán vải tích trữ vải để sau đó tuôn ra bán trên thị trường chợ đen.
Người Hoa trong vùng Đông Nam Á, nhất là Singapore và Hong Kong, làm áp lực với chính quyền Việt Nam bằng cách tẩy chay hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam. Hong Kong từ chối mua 40.000 tấn gạo đã ký hợp đồng trước đó. Số gạo này được chở qua Singapore và cũng bị từ chối mua.
Toàn bộ sinh hoạt kinh tế của Hoa kiều ngừng hoạt động. Kinh tế miền Nam bị ảnh hưởng nặng nề.
Nền kinh tế không hoàn toàn sụp đổ phần nhờ những người miền Bắc di cư có vốn và kinh nghiệm đã nhanh chóng thay thế Hoa kiều. Phần khác nhờ mùa màng thuận lợi, nông nghiệp phát triển mạnh và khi ấy du kích quân Cộng Sản gần như chưa xuất hiện.
Cơ hội làm ăn tại Việt Nam không còn thuận lợi đa số doanh nhân Hoa Kiều rời Việt Nam. Những Hoa Kiều còn lại, đa số là giới bình dân lao động, ít vốn, hay đã an cư lạc nghiệp nhiều đời tại Việt Nam.
Theo số liệu của Nha thống kê Sài Gòn, trong năm 1955 có 620.858 Hoa kiều trên toàn lãnh thổ, năm 1958 chỉ còn 123.638 người. Con số khác biệt là 497.220 người, trong số này có gần 235.000 người đã xin nhập tịch, những người còn lại chưa quyết định còn chờ sự can thiệp của Đài Loan.
Theo báo cáo của tòa Tổng lãnh sự Trung Hoa Dân quốc tại Sài Gòn, cho đến ngày 19/7/1957 đã có 52.144 người xin hồi hương.
Những năm đầu Đệ nhất Cộng hòa là thời kỳ vàng son của người Việt thì lại là thời kỳ tăm tối của đa số người Hoa. Cuối cùng những người Hoa còn ở lại đều xin vào quốc tịch, trở thành người Việt gốc Hoa.
Có 2 lý do chính sách quốc tịch gặp khó khăn. Thứ nhất, Hoa kiều chưa tin vào chính sách quốc gia và chưa chuẩn bị tinh thần để sống dưới sự quản trị của người Việt. Thật ra chưa có dấu hiệu nào cho thấy Hoa kiều muốn tách Chợ Lớn khỏi Việt Nam. Và thứ hai là họ không muốn thi hành lệnh tổng động viên hay đi quân dịch.
Khi trở thành công dân Việt Nam, người Hoa được phép kinh doanh trở lại. Người Hoa nhận ra chính sách tự do thương mại và khuyếch trương kỹ nghệ có lợi cho họ. Nhiều cơ sở kỹ nghệ lớn được thành lập đóng góp gia tăng tổng sản lượng quốc gia và đáp ứng phần nào nhu cầu tiêu dùng trong nước.
Nền kinh tế miền Nam cất cánh trở lại. Chính phủ và giới lãnh đạo người Hoa ngày càng hiểu nhau hơn càng gắn bó vì lợi ích chung cả cộng đồng dân tộc, trong đó có người Việt gốc Hoa.
Ngày 2/11/1963 khi bị phe quân nhân đảo chính, Tổng thống Ngô Đình Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu đã vào Chợ Lớn tá túc trong nhà ông Mã Tuyên, một thương gia Việt gốc Triều Châu. Ông là Tổng bang trưởng của 10 bang người Hoa tại vùng Chợ Lớn. Sau đó được ông đưa vào nhà thờ Cha Tam để lánh nạn.
Năm ngày sau ông Mã Tuyên bị bắt giam ba năm. Tài sản ông bị tịch thu và đem bán đấu giá nhưng người Hoa mua lại được trong cuộc đấu giá và trả lại cho gia đình ông.
Sau 30/4/1975, ông hai lần bị bắt giam, lần đầu bốn tháng, lần sau bốn năm tù. Nhà cửa và tài sản của ông bị tịch thu.
Năm 1983, ông và gia đình chính thức rời Việt Nam đi định cư tại Đài Bắc, Đài Loan. Đến tháng 2 năm 1992 thì ông cùng một phần gia đình về lại Chợ Lớn và qua đời tại đây tháng 9/1994. Ông được chôn tại nghĩa trang Triều Châu ở Biên Hoà.



Chợ Lớn
Sau thời Đệ nhất Cộng hòa
Người Hoa bắt đầu đầu tư trở lại. Khu kỹ nghệ Biên Hòa tràn ngập các đại công ty kỹ nghệ tân tiến do người Hoa thành lập với sự giúp vốn và kỹ thuật của người Hoa Đông Nam Á, đặc biệt là Đài Loan. Người Hoa mở ngân hàng và làm chủ phần lớn các hãng bảo hiểm tại miền Nam.
Nhiều hãng xưởng được xây dựng quanh khu vực Chợ Lớn. Nhiều công ty đúc, cán sắt và lắp rắp nông cơ tầm vóc nhỏ hơn, kiểu gia đình, hoạt động rất náo nhiệt quanh khu vực Chợ Lớn.
Đời sống của cộng đồng người Hoa trở nên sung túc. Nhiều khách sạn, nhà hàng, rạp chiếu phim, khu giải trí được mở ra. Chợ Lớn dần dần hồi phục.
Với sự tham chiến của quân đội Hoa Kỳ và đồng minh năm 1965, người Hoa nhanh chóng đầu tư vào các khu vực chiến tranh như cung cấp vật liệu xây dựng, hàng tiêu dùng và nơi giải trí.
Khi chiến tranh gia tăng, người Hoa nhận thầu cung cấp cho quân đội Hoa kỳ rồi ký hợp đồng với Hoa kiều Đài Loan, Hong Kong, Singapore và Thái Lan sản xuất đáp ứng nhu cầu quân đội. Đóng góp không ít cho sự phát triển của các nước này.
Có đến 80 tỷ phú người Việt gốc Hoa, đa số đứng đầu hay độc quyền trong lĩnh vực kinh doanh nào đó nên được gọi là "vua" như vua gạo, vua xăng dầu, vua nông cụ, vua bột mì…
Chủ nhân người Việt gốc Hoa thường chăm lo đời sống công nhân một cách tận tình và chu đáo. Bởi thế trước năm 1975 không hề có biểu tình hay đình công đòi quyền lợi xảy ra như ngày nay.
Qui chế bang hội tuy không được chính thức thừa nhận nhưng những bang hội người Hoa được tự do hoạt động. Các trường tư thục Hoa ngữ được mở lại.
Báo chí Hoa ngữ hoạt động tự do, có 11 nhật báo và 5 tuần báo, với số lượng phát hành khá cao và rất nhiều sạp báo nơi đông người Hoa cư ngụ. Chính quyền còn dành cho mỗi bang chương trình phát thanh riêng.
Nhiều viện đại học và trường kinh doanh với vốn đầu tư chính từ người Hoa đã được thành lập, đào tạo nhiều chuyên viên trong lĩnh vực kinh doanh và quản trị. Người Hoa còn gửi con em đi du học trong các ngành kinh tế, kế toán, ngân hàng, kinh doanh và quản trị.
Mặc dù chiến tranh đang leo thang người Hoa vẫn xuất tiền thành lập doanh nghiệp lớn ngay trong nước, tạo công ăn việc làm cho rất nhiều người, thay vì cất gửi vào các ngân hàng ngoại quốc hay chuyển ra nước ngoài.
Dân số cộng đồng người Hoa tăng nhanh từ 620.858 người năm 1956 lên 2,2 triệu năm 1972. Rất đông Hoa kiều đã đến từ Hong Kong và Đài Loan.
Mặt tiêu cực, người Hoa bị mang tiếng là trốn lính, làm lính kiểng, lính hậu cần… Tuy nhiên, cũng có không ít thanh niên đã gia nhập quân đội, anh dũng chiến đấu và nhiều người đã hy sinh để bảo vệ miền Nam tự do.
Một số thương gia bị cho là đóng thuế hay buôn bán với cộng sản. Sau 1975 mới rõ tỷ lệ này không nhiều vì người Hoa thường sinh hoạt trong vùng có an ninh và rất e ngại bị chính quyền phát hiện. Nếu có, chẳng qua họ bị cộng sản cưỡng bách cộng tác.
Người Hoa bị mang tiếng là đầu cơ tích trữ, thâu tóm thị trường, làm tăng giá hàng một cách giả tạo, hay hối lộ, đút lót cho các viên chức chính quyền. Chẳng qua vì thời chiến nên luật pháp còn lỏng lẻo tạo ra những hiện tượng này.
Nói chung thời Việt Nam Cộng hòa kinh tế tự do, ít hay gần như không bị đánh thuế, người Việt không cạnh tranh trên thương trường, văn hóa không mấy khác biệt, người Việt vốn không kỳ thị xem người Hoa như anh em một nhà,… người Việt gốc Hoa thực sự muốn hội nhập vào cộng đồng dân tộc Việt Nam. Đất lành chim đậu.
Sau 30/4/1975
Cùng chung số phận với người miền Nam, người Việt gốc Hoa gánh chịu những chính sách kỳ thị như phân chia thành phần giai cấp, thành phần xã hội.
Tại Chợ Lớn một số người treo cờ Trung Quốc đào thêm mối nghi ngờ là cớ để nhà cầm quyền nhận xét có người Hoa trong "đạo quân thứ 5" và người Hoa sẽ tiếp tay với Trung Quốc khi có chiến tranh…
Sài Gòn đổi tên. Chợ Lớn cùng chung số phận. Cả Sài Gòn và Chợ Lớn hoàn toàn biến mất trên bản đồ địa chính.
Nhiều đợt đánh tư sản liên tục xảy ra. Đợt đánh tư sản năm 1978 hầu hết các nhà mặt đường là cửa hàng buôn bán nên nằm trong diện bị đánh. Nhiều gia đình bị bắt đi kinh tế mới. Nhiều người phải bỏ nước ra đi. Nhà cửa họ bị tịch thu cấp cho cán bộ miền Bắc vào.
Người Hoa chỉ còn sống trong các hẻm nhỏ nhưng họ không bỏ Chợ Lớn. Trong số họ chắc không ít người vẫn ước mơ một ngày Chợ Lớn được phục hồi như xưa.
Trong số một triệu người bỏ nước ra đi trên một nửa là người Việt gốc Hoa. Đa số họ xem người Việt là người đồng hương. Có người dù cả cha lẫn mẹ người Trung Hoa, nhưng lại nhận là người Việt.
Người Việt và người Việt gốc Hoa sống quần tụ bên nhau. Nhiều khu vực mang tên Little Sài Gòn nhưng hầu hết thương gia là người Việt gốc Hoa.
Chưa bao giờ nghe nói đến Little Chợ Lớn ở hải ngoại nhưng trong thâm tâm nhiều người Việt gốc Hoa vẫn ước mong một ngày Chợ Lớn sẽ phục hồi.




Phục hồi Chợ Lớn thành trung tâm công nghệ hiện đại
Về mặt kinh tế, Việt Nam đã thay đổi khá nhiều nhưng vai trò của người Việt gốc Hoa gần như còn rất khiêm nhượng. Chợ Lớn chỉ đóng góp một phần rất nhỏ trong nền kinh tế Việt Nam. Chưa ai công khai bàn đến việc phục hồi Chợ Lớn để phát huy tiềm năng nội lực của người Việt gốc Hoa trong và ngoài nước.
Ngày 9/3/2018, Việt Nam, Singapore và 9 quốc gia khác chính thức ký kết Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương. Hiệp định là gỡ bỏ mọi rào cản thương mại giữa 11 nền kinh tế trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương.
Singapore một thành viên khác ký hiệp định từ lâu đã là một trung tâm tài chính và thương mại nổi tiếng. Cộng đồng người Hoa ở Chợ Lớn và ở Singapore có quan hệ rất chặt chẽ về gia đình và buôn bán hàng trăm năm nay. Chính quyền Singapore rất thân thiện với Việt Nam.
Nhiều người Việt đã và đang học tập, sinh sống và làm việc tại Singapore. Khu vực chung quanh Chợ Lớn khá thuận lợi để các nước đầu tư nghiên cứu và phát triển công nghiệp hiện đại… cơ hội rất lớn cho việc phục hồi Chợ Lớn.
Thế giới đang bước vào Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4, Việt Nam cần một trung tâm vừa để tiếp công nghiệp hiện đại vừa là trung tâm tài chính và thương mại được quốc tế công nhận. Rất mong sự sáng suốt của tầng lớp cầm quyền biến giấc mơ phục hồi Chợ Lớn của không ít người thành hiện thực.

Bài viết thể hiện quan điểm và văn phong của tác giả là Chủ nhiệm kiêm chủ bút Cộng Hòa Thời Báo, hiện ông sống tại Melbourne, Australia.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Tết Sài Gòn trăm năm trước ra sao?   Biết những gì xảy ra trong quá khứ xa xưa dường như là mơ ước muôn đời của con người. Bởi trong c...