HỒI ỨC LỊCH SỬ
SÀI GÒN VÀ NHỮNG VÙNG PHỤ CẬN
DIỄN THUYẾT TẠI TRƯỜNG TRUNG HỌC
THÔNG NGÔN
CỦA M. P. TRƯỜNG VĨNH KỲ
Thưa quý vị,
Thành phố
Sài Gòn đã trải qua một bước chuyển mình hoàn toàn kể từ ngày lá cờ Pháp thay
thế lá cờ vàng của người An Nam trên vùng đất này. Sự thay đổi này, bắt đầu vào
năm 1859, đã diễn ra dần dần không dừng lại, và chúng ta chắc chắn dáng vẻ thú
vị hiện nay của thủ phủ Hạ Nam kỳ.
Hôm nay tôi
muốn phác họa lại bức tranh xưa và nay của Sài Gòn, đặt ra trước mắt hai sư mô
tả này, để làm nổi bật sự so sánh, sự khác biệt của hai trạng thái văn minh của
hai thời kỳ chỉ cách nhau 1/4 thế kỷ.
Để được
lưu giữ ký ức về một địa điểm, đặc biệt đó là bối cảnh của rất nhiều sự kiện
liên tiếp trong khoảng thời gian ngắn, cái này xóa sạch cái kia.
Dấu vết lịch
sử là mắt xích nối liền với nhau giữa kỷ nguyên của các dân tộc, và thường là
những tình huống đã biến mất trong quên lãng của thời gian. Ký ức về các sự kiện
mất dần theo tỷ lệ với số thế hệ bao trùm chúng. Những cuộc cách mạng liên tục
này là điều kiện cần thiết cho sự sống của vạn vật và các dân tộc; nhưng ký ức
của sự kiện sẽ bị thay đổi nếu lịch sử không kịp ghi lại để bảo tồn tình trạng
này.
Một Sài
Gòn, mà chúng ta nhìn thấy một cách bàng quan ngày nay, đã chứng kiến những sự
kiện hầu nhưng lại không thu hút sự tò mò của chúng ta vì vẫn chưa đi lvào lĩnh
vực lịch sử, nhưng điều đó lại thích thú bởi những người kế tục của chúng ta.
Đi khắp Sài Gòn xưa, đến thăm tất cả các lãnh vực và ghi lại những quan sát về
mặt địa lý và lịch sử.
Sài Gòn
ngày xưa là gì? Trước và trong thời Gia Long? Dưới thời Minh-mang, Thiêu Tri và
Tự Đức? Diện mạo như thế nào khi trước người Pháp đến?
Cái tên Sài Gòn
Trước khi
miêu tả thành trì cổ này, chúng ta phải tìm xem cái tên đến từ đâu mà chúng ta
có ngày hôm nay.
Sài Gòn là
tên được đặt cho thành phố của tàu hiện nay. Dựa theo tác giả của Gia Đinh
Thông Chi. Sài được mượn từ chữ Hán có nghĩa là gỗ; Gòn là tên của bông trong
tiếng An Nam hay cây bông gòn. Người ta nói rằng cái tên này xuất phát từ số lượng
những cây bông mà người Cam Bốt đã trồng xung quanh các công sự bằng đất cũ của
họ, mà dấu vết của nó vẫn còn tại chùa Cây Mai và các khu vực xung quanh.
Đối với
chúng tôi, dường như cái tên này chỉ có thể là của người Cam Bốt đã gán cho nơi
này và. sau đó đã được áp dụng cho thành phố. Tôi vẫn chưa thể tìm ra nguồn gốc
thực sự của tên này.
Thành phố
Sài Gòn được người Pháp gọi như vậy đã tìm thấy trong các bản đồ địa lý châu
Âu, được đặt dưới cái tên tổng quát nhưng nôm na này. trước kia được gọi cho
toàn bộ, tỉnh Gia Định.
Sài Gòn trước triều Gia Long
Sài Gòn
trước triều Gia-long dường như chỉ là một làng của Cam Bốt. Tuy nhiên, vào năm
1680, trong một giai đoạn thời gian, là nơi cư ngụ của vị vua thứ hai của Cam Bốt,
Theo lịch
sử, vùng đất này đã bị xâm lược một cách hòa bình bởi Người An Nam, dưới sự
thúc đẩy của triều đình Huế, vào năm 1658, dưới thời trị vì của Nguyễn Hiến
Vương, chúa phương nam.
Sau khi
chinh phục Ciampa (Chiêm Thành) bằng cách đẩy lùi những cư dân có cựu, người An
Nam trỏ thành hàng xóm của người Cam Bốt (người Khmer), mà tinh thần, bị ảnh hưởng
bởi những thành công của người An Nam (con vua trời). Quá trình thuộc địa hóa
ngay lập tức diễn ra lớn nhanh hơn nhiều, khi thời cơ các bang hội người Tàu của
nhà Minh, được triều đình Huế cho phép và khuyến khích. Năm 1680, hai viên quan
cao cấp của quân Minh, thích phục vụ người An Nam hơn là nhà Thanh, bọn Mãn
châu man rợ, những kẻ mới chinh phục Trung Hoa, đã đến Tourane trong 60 chiến
thuyền, theo sau là 3.000 binh lính, trong ý định định cư lại ở đó. Họ đã gửi một
yêu cầu cho mục đích này với Chúa của Huế. Vua Annain, sau khi đãi tiệc, đã ban
thư cho vua Cam Bốt và xin phép cho họ đến Nam Kỳ định cư để khai phá vùng đất
hoang hóa rộng lớn ở đó. Khi đến Đông Nai, họ chia làm hai nhóm, một nhóm đi về
hướng Đông Nai (Biên Hòa), nhóm còn lại đi về hướng Mỹ Tho.
Hai vị vua
của Cam Bốt: một, vị vua đầu tiên, tại Gò Bích; người kia, vua thứ hai, ở Sài
Gòn. Người thứ hai, thấy mình bị đe dọa, một bên là người Tàu ở Mỹ Tho và một
bên cũng là người Tàu ở Biên hòa, đã viết thư cho vua Huế để cảnh cáo về mưu đồ
của những người theo hầu ông.
Vua Huế tự
cho mình là người phân xử sự tranh chấp và làm trung gian giải quyết giữa họ.
Ông ủy nhiệm việc thực hiện này cho Tướng Vạn vào chinh phạt người Tàu và vua
Gò Bích, người trú ẩn sau pháo đài, chắn sông Mekong với dây xích sắt và làm cản
trở việc buôn bán của người An Nam.
Sau khi
đánh bại quân Tàu ở Mỹ Tho, vị tướng này chuyển đến Gò Bích. Vị vua đầu tiên, Nặc
Ông Thu đã thoái vị đang ở Au Dông (Oudong, còn được gọi là Udong hay Odongk, là cố
đô của Cam Bốt từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19;) và cuối
cùng ông đã ký một hiệp ước với tướng An Nam, xong ông rời Cam Bốt và trở về
Bën Nghé (Sài Gòn).
Một năm
sau (1684) Nặc Ông Thu bất tuân với việc thi hành hiệp ước, Nguyễn Anh Tông
(vua Huế) sai Nguyễn Hữu hào tuyên chiến với ông. Quốc vương Cam Bốt bị bắt đi
tù và khi đến Sài Gòn, ông chết do bệnh tật. Vua thứ hai, đang cư trú tại Sài Gòn,
cũng đã băng hà.
Con trai của
ông là Nặc Ông Yểm được người An Nam đặt lên ngai vàng ở Gò Bích.
Sự can thiệp
của triều đình Huê đã dẫn đến một cuộc di cư của những người khai phá An Nam,
những người được triều đình khuyến khích, dần dần chiếm đóng cả vùng đất, mà một
ngày nọ, vào năm 1699, cho phép Nguyễn Hiền Vương, người kế vị Nguyễn An Tông,
thành lập các trấn, phủ, tổng và làng mạc và tạo ra cho vùng đất này một chánh
quyền tương tự của phần còn lại của vương quốc An Nam. Trước hết, Biên Hòa và Gia
Định tự hợp thành một phủ, chia thành hai huyên. Từ đó có tên người hai
huyên, khi nói về cư dân Biên Hòa và Gia Định.
Tây Sơn
(cư dân miền núi phía tây), Nhạc, Lữ và Huệ khởi nghĩa vào năm 1772 chống lại
Huế; họ Trinh (Trinh Sum) đã đến tấn công cùng lúc thành Huế. Chúa Nguyễn Dụ
Tông cùng các cháu là Mục Vương và Nguyễn Ánh (sau là vua Gia-long) lánh nạn
năm 1774 tại Gia Định (Đồng Nai), Sài Gòn.
Suót mười
lăm năm, Gia Long bị truy đuổi và săn lùng bởi Tây Sơn. Thỉnh thoảng ông quay lại
Sài Gòn, nhưng ở đó ít vì bị kẻ thù, từ Qui-nhon, đánh bật. liên tục..
Sài Gòn dưới triều Gia Long
Đó là vào
năm 1789, Gia-long, sau khi tiếp quản Sài Gòn, trước đó do Tây Sơn chiếm đóng,
đã xây dựng thành lũy đầu tiên., trong đó chúng tôi sẽ cho biết vị trí và dấu vết,
trên vùng đất Sài Gòn ngày nay. Năm 1788, M. Pigneaux de Behaine, Giám mục
Adran, đại diện tông tòa ở Nam Kỳ, người đã mang theo hoàng tử Cânh, con trai
Gia-long, sang Pháp, để nhờ giúp đỡ, đã trở về Sài Gòn với các sĩ quan Pháp. Gia-Long
đã láy lại Sài Gòn và dần thiết lập
Xây dựng thành cổ Sài Gòn
Năm sau,
Gia-long cho xây dựng thành cổ: Sài Gòn dưới sự chỉ huy của Ông Ollivier, sĩ
quan công binh,
Nó có dạng
gần như bát giác (sơ đò do Gia Long đua ra) với tám cửa ra vào theo kiểu Bát
Quái (tám quẻ của bói toán Trung Hoa) đại diện cho bốn phương trời cùng vời các
phân hướng.
Thành lũy,
cùng các mương và cầu, xây bằng đá lớn Bièn Hòa. Chiều cao của bức tường là mười
lăm khuỷu tay An Nam (5 met. 20)
Ở giữa
thành, nơi có cột cờ, nằm ở vị trí ít gần nhà thờ hiện nay (Nhà
thờ Đức Bà). Có thể thấy từ khoảng cách xa, trên đầu ngọn phi
lao. Thành trải dài: từ nam ới bắc, từ đường Mac-Mahon (Công
Lý/Nam Kỳ Khởi Nghĩa) đến bức tường thành bị phá hủy (vị
trí ngả tư Cường Để/Tôn Đức Thắng và Thống Nhứt/Lê Duẩn) và được người
Pháp đắp lại bằng đất và, từ đông sang tây, từ đường Espagne (Lê
Thánh Tôn) tới đường des Mois (Phan
Đình Phùng/Nguyễn Đình Chiểu).
Về phía
đông, hai cửa trước mở ra (cửa tiền). Một cái tên Gia Định Môn, nhìn vào bùng
binh và kênh chợ Sài Gòn (Lúc này là kênh Chợ Vãi/Nguyễn Huệ
và chợ Sài Gòn cũ); cái kia, tên là Phan Yến Môn,
nằm về phía trại pháo binh, trên con đường dẫn xuống kênh đào của Kênh Cây Cám (Đường
Lê Thánh Tôn hiện nay).
. Phần
sau, về phía Tây, cũng có hai cửa. Vọng Khuyết Môn và Cộng Thìn Môn, theo hướng
cầu thứ hai và thứ ba (Cầu Bông và cầu Xóm Kiệu) của kênh Avalanche (Thị
Nghè). {Đó là 3 cầu: Cầu Sắt, Cầu Bông và Cầu Kiệu}
Phần bên
trái về phía bắc, có hai cửa, Hoài lai Môn, Phúc Viên Môn, trên kênh Avalanche
(cầu đầu tiên)
Phần bên
phải thành có cửa Bình Môn. và Tuyên Hòa Môn, nằm ở đường Mac Mahon; một trên
đường stratégique (Hồng Thập Tự/Nguyễn Thị Minh
Khai), một trên đường route haute de Chợ Lớn (Nguyễn
Trãi)
Thành này
đã bị Gia Long chiếm đóng trong hai mươi hai năm, là nơi mà ông ta tới hàng năm
trong cuộc chinh phạt chống Tây Sơn, vào những lúc gió mùa thuận lợi.
Vị trí thành Bát Quái (Thành Quy) so với bản đồ Sài Gòn
Khi lễ
tang của Giám mục d'Adran diễn ra tại Sài Gòn trong giai đoạn này. Chúng tôi mạn
phép nói xa đề một chút về buổi lễ này mà tôn giáo và ngai vàng đã hỗ trợ quan
trọng với nhau.
Ngài
d'Adran, sau khi từ Pháp trở về, cư ngụ tại Sài Gòn, trong một ngôi nhà mà
Gia-long đã xây cho ông ở góc phố ngoài thành lũy, ở chổ bây giờ là kho đạn, gọi
là Dinh Tân Xá. (Vị trí đầu tiên của Dinh Tân Xá là trong Thảo
cầm viên, sát cầu Thị Nghè ngó sang khu vực mà thời Pháp gọi là Kho Đạn. Về sau
Dinh Tân Xá được dời về Tòa Giám Mục Sài Gòn, đường Phan Đình Phùng/Nguyễn Đình
Chiểu), Dân theo đạo thiên chúa ở Thị Nghè có nhà thờ
gần đó, bên bờ kênh Avalanche, và là một phần của giáo xứ Tân Sơn, nơi có lăng
của giám mục.
Đức Ngài
có một ngôi nhà theo kiểu nông thôn, thỉnh thoảng được dùng để thư giãn cùng với
hoàng tử Cânh, học trò của Dức Ngài.
Hoàng tử
Cânh được cử đến bao vây Quy Nhơn. Đức cha, trước sự thúc giục của Gia Long, đã
đi cùng để phục vụ như là cố vấn. Nhưng, sau ba mươi ba năm sống rất sóng gió
và vất vả, ông đã bị tấn công bởi bệnh kiết lỵ cấp tính, vào lúc này, tình trạng
này càng trở nên trầm trọng hơn bởi các khó khăn tinh thần.
Gia-long,
được thúc đẩy bởi tình cảm chân thành dành cho giám mục, người đã cung cấp cho ngài
những trợ giúp tốt nhứt, cử những thầy thuốc giỏi nhất để bằng mọi cách bảo
toàn mạng sống của ngài. Hoàng tử Cảnh ngày nào cũng đến thăm thầy, còn Gia Long cũng mấy lần đến thăm ân nhân của mình,
bất chấp lo ngại về sự bao vây Quy Nhơn, xé lòng vì cảm kích. Vào ngày 9 tháng
9 năm 1799, giám mục qua đời trong vòng tay của M. Lelabousse, nhà truyền giáo
đã đồng hành với ngài; ông thọ 58 tuổi. Gia Long nhận được tin buồn về cái chết
của vị khách lẫy lừng, đã gửi một chiếc quan tài lộng lẫy và lụa để bọc thi thể.
Vào ngày 10, Ngài được lên một trong những con tàu của nhà vua trở về Sài Gòn,
nơi chôn cất ngài.
Đến Sài
Gòn vào ngày 16, thi hài ngài được vào ngôi nhà giám mục và quàn tại đó trong
hai tháng.
Hoàng tử
Cành, người đã đi cùng thi hài của thầy, coi mình như một đệ tử, như một người
con cả của vị giám mục, thầy của ông, người mà ông đã chịu tang lớn. Anh ta đã
cho dựng một ngôi nhà tạm trước Tòa giám mục. Ông ở đó ngày đêm và tiếp đón nhiều
quan lại. đến từ tất cả các vùng của vương quốc để kính viếng người đã khuất lừng
lẫy trong tang lễ.
Gia Long
cuối cùng cũng trở về từ Quy NHơn. Để thể hiện lòng biết ơn của mình đối với vị
giám mục, ông muốn chủ trì tang lễ. Đám tang diễn ra vào ngày 16 tháng 12 tại
Tân Sơn, cách 5 cây số từ Sài Gòn.
Hoàng tử Cảnh
phụ trách dẫn đầu đám tang bắt đầu khởi hành khoảng hai giờ sau nửa đêm.
Một cây
thánh giá lớn, được làm bằng những đèn lồng được xếp một cách nghệ thuật ở đầu
đoàn đưa đám, theo sau là sáu tán (bài
vị) được chạm khắc phù điêu và mở, và được mạ vàng trên nền đỏ.
Chúng được đặt trên những chiếc bàn trang trí và do bốn người khiêng mỗi chiếc.
Trong cái
đầu tiên, bốn ký tự vàng, Hoàng thiên chúa tể (vị chúa tể của bầu trời); trong cái
thứ hai là hình Thánh Paul và trong cái thứ ba là Thánh Peter, vị thánh bản mệnh
ngài d'Adran. Cái thứ tư là của thiên thần bảo hộ, cái thứ năm là của Đức Trinh
Nữ Maria. Sau đó, xuất hiện một lá cờ bằng vải hoa, dài khoảng mười lăm bộ,
trên đó có thêu các ký tự bằng vàng các danh hiệu được các vị vua của Pháp và
Nam Kỳ phong tặng cho Đức Cha D’Adran cùng các phẩm chức tôn giáo. Một chiếc
cáng mang theo cái thứ sáu, trong đó người ta có thể nhận thấy huy hiệu của vị
giám mục, gậy quyền và mũ lễ, đi trước xe tang. Những chiếc kiệu và bài vị này
đi cùng với một số lượng lớn thanh niên Cơ đốc và các giáo lý viên từ các nhà
thờ ở Nam Kỳ.
Quan tài của
giám mục được bao phủ bởi một loại gấm hoa tuyệt đẹp, Đóng khung trong hai ngăn
chồng lên nhau, mỗi vạch chứa 25 ngọn đèn cầy lớn được thắp sáng. Một chiếc kiệu
đẹp dài khoảng 20 bộ, được tám mươi người đàn ông tuyển chọn khiêng, được che bằng
một cái tán bằng vàng, che cho chiếc quan tài tráng lệ.
Đội cận vệ
của nhà vua, gồm hơn mười hai ngàn người, không kể số lượng riêng của hoàng tử,
con trai của ông, võ khí trong tay, xếp hàng hai, súng thần công dã chiến dẫn đầu.
Trăm hai mươi con voi võ trang xung trận cùng đoàn hộ tống và quản tượng đi hai
bên. Trống, kèn, quân nhạc An Nam và Cam B6t đi theo đám tang ảm đạm được chiếu
sáng bởi một số lượng lớn những ngọn đèn cấy và ngọn đuốc cùng hơn hai ngàn đèn
lồng hình dạng khác nhau. Ít nhất bốn mươi ngàn người, người theo đạo Thiên chúa
và người ngoại giáo, đi theo đám tang.
Vua Gia
Long tham dự cùng mẹ, chị gái, hoàng hậu, cô trẻ em, tất cả các phu nhân của
triều đình và các quan lại của các bộ khác nhau. Tất cả đều muốn chứng kiến cho
sự tiếc thương của họ đối với vị giám mục lỗi lạc và nhân đức đã không còn nữa,
tháp tùng thi hài của ngài đến ngôi mã được chuẩn bị sẳn.
Tới huyệt
mã, nhà vua để M. Liot, nhà truyền giáo, có thời gian cần thiết để thực hiện
các nghi thức Công giáo.
Lễ an táng
theo Công giáo đã hoàn tất, Vua Gia Long, tiến lên nghiêm trọng, giong hằn vẻ
đau đớn và đôi mắt ướt đẫm, thốt lên điếu văn do nhà vua soan và đó là sau đó
được chép lại trên lụa thêu và trao cho giám mục dưới dạng một bằng truy tặng
các tước vị hoàng gia. Hiện nó được đóng khung và trưng bày trong phòng khách tại
Tòa giám mục Sài Gòn ( Căn cứ theo bài ciễn thuyết của ông
được in vào năm 1885 thì lúc này tòa Giám mục nằm ở góc ngả tư Norodom/Thống Nhứt/Lê
Duẩn và Pellerin/Psateur chứ không phải bên đường Phan Đình Phùng/Nguyễn Đình
Chiểu thành lập năm 1900).
Vị trí đầu tiên của Dinh Tân Xá
Vị trí Tòa Giám Mục đầu tiên về sau là Bộ Ngọai Giao VNCH
. “Trậm có
một bậc hiền nhân, người bạn tâm giao hiểu được tâm tư thầm kín nhất của trậm,
bất chấp khoảng cách hàng ngàn dặm, đã nhìn thấy những tâm trạng của trậm và
không bao giờ rời bỏ tôi, ngay cả khi tài sản tôi không còn. Tại sao như thế
này, hôm nay, sự việc lại lại đến dưới ngọn cờ của trậm, vào thời điểm chúng ta
đoàn kết nhất, mà một cái chết sớm và không đúng lúc lại đến, chia cắt chúng ta
mãi mãi? Trậm đang nói về Pierre Pigneaux, giám mục Adran, luôn ghi nhớ trong
tâm trí những đức tính của ngài, trậm muốn là chứng nhân của lòng biết ơn. Trậm
nợ ngài những giá trị hiếm có. Nếu ở châu Âu, ngài được coi như là một người có
tài năng siêu việt thì ở đây, ngài được coi là một người ngoại quốc lừng lẫy nhất
triều đình Nam Kỳ. Ngay từ thời thanh niên, trậm đã may mắn được gặp người bạn
đáng quý này, người có tính cách rất phù hợp với trậm. Khi trậm bước những bước
đầu tiên để lên ngai vàng của tổ tiên, trậm đã có ngài ấy bên cạnh. Đó là một
kho tàng phong phú đối với trậm, nơi trậm có thể rút ra tất cả những lời khuyên
cần thiết để dẫn dắt bản thân. Nhưng đột nhiên, ngàn vạn tai họa giáng xuống
vương quốc trậm, đôi chân trậm trở nên loạng choạng như Thiêu Khang nhà Hạ,
đành phải đứng về một phía ngăn cách như trời với đất. Nhưng, ngài thầy kính mến,
đã nắm giữ sự nghiệp của chúng ta bằng một bàn tay kiên định và trung thành, giống
như bốn lão hiền nhân tên Hao đã khôi phục vị thế cho thái tử của hoàng đế Hãn
Cao Tổ! Trẩm đã giao Thái tử cho ngài, khi ngài chấp nhận sứ mệnh đi trình bày
những mong muốn của trẩm đến nhà vua vĩ đại đang trị vì đất nước của ngài. Ngài
đã dành được một số sự cứu giúp cho trẩm. Họ đã đi được nửa chặng đường, cho dù
khi dự tính của ngài gặp phải những trở ngại khiến họ không thể đạt kết quả. Mặc
dù vậy, ngài đã trở lại bên cạnh trẩm, coi kẻ thù của trẩm như kẻ thù của ngài,
tìm kiếm cơ hội và phương tiện để chống lại chúng. Năm 1788, khi lá cờ của tôi
xuất hiện trở lại ở Sài Gòn, trẩm đã nóng lòng chờ đợi một số thông tin vui vẻ
báo ngài trở về từ Pháp. Và vào năm 1790, thuyền của ngài đã đến vùng biển Nam
Kỳ. Từ cách khéo léo và dịu dàng mà ngài đã dạy cho hoàng tử, con trai của trẩm,
người mà bạn mang về, rõ ràng là thượng đế đã đặc biệt ban tặng cho ngài lòng dạy
dỗ và hướng dẫn cho tuổi trẻ. Lòng kính trọng và tình cảm của trẩm dành cho ngài
lớn lên từng ngày. Trong những thời điểm khó khăn, ngái đã cung cấp cho chúng
tôi những phương tiện mà chỉ ngài mới có thể tìm thấy. Sự khôn ngoan trong lời
khuyên của ngài và đức tính tỏa sáng ngay cả trong cuộc trò chuyện vui vẻ của ngài
đã đưa chúng ta ngày càng gần nhau hơn; chúng ta đã là bạn và thân thuộc với
nhau đến nỗi khi cuộc chiến đấu gọi trẩm ra khỏi cung điện, ngựa của chúng ta tiến
ra mặt trận. Chúng ta chưa bao giờ có chung một trái tim. Kể từ cái ngày mà
chúng ta gặp nhau ngẫu nhiên hạnh phúc nhất, không gì có thể làm thay đổi tình
bạn, sự cống hiến lẫn nhau và tin tưởng vô hạn đã đánh dấu mối quan hệ của
chúng ta. Trẩm tính rằng sức khỏe thăng hoa này sẽ khiến trẩm được nếm trái ngọt
của tình đoàn viên khăng khít trong một thời gian dài sắp tới! Nhưng bây giờ cát
bụi vừa phủ lên cây cao bóng cả xinh đẹp này! Thật là tiếc nuối cay đắng!
Để cho mọi người thấy công lao to lớn của người
ngoại quốc lừng lẫy và lan tỏa bên ngoài mùi thơm của những đức tính mà ngài ấy
luôn khiêm tốn che giấu, trẩm sắc phong banh hiệu thái phó của thái tử, phong cho
ngài phẩm giá và danh hiệu của quàn công và đặt tên cho ngài là Vẹn toàn (Trung
Ý). Chao ôi! Khi cơ thể khuỵu xuống và linh hồn tiếp tục bay về trời, ai có thể
giữ nó bằng xiềng xích? Trẩm hoàn thành bài điếu văn ngắn này, nhưng sự hối tiếc
của trảm sẽ không bao giờ kết thúc. Ôi tâm hồn cao đẹp của thầy! Xin nhận được lòng
kình trọng này! "
Sau bài điếu
văn này, các giáo sĩ và những người theo đạo ra về và nhà vua, một mình với các
quan, dâng lên nghi thức cho linh hồn của người chết; sau vua, Hoàng tử Cảnh và
các quan đại thần đọc điếu văn. tang lễ.
Nhà vua cho
dựng kên một lăng tẩm sang trọng phủ lên những gì còn sót lại của vị khách
trung thành có những cống hiến lỗi lạc được công nhận, và ban cho ngài một đội
canh gác danh dự năm mươi người. Ngôi mộ này đã trải qua sự vững bền, được bảo
vệ bởi ký ức về người cha lớn (cha cà), theo cách gọi của người An Nam) và bởi sự
sùng bái cái chết, đó là một trong những đức tính của người An Nam.
Sau khi
chiếm đóng, Pháp muốn ngôi mã của những người con tận tụy nhất của đất nước
mình ở Viễn Đông được nâng lên hạng một di tích quốc gia!
Cuối cùng
vào năm 1811, Gia Long về Huế và cai trị toàn An Nam, từ Bắc Kỳ đến Nam Kỳ. Lê
Văn Duyèt, người chiến thắng ở cảng Thị Nại (Bình Đinh), được bổ nhiệm làm Tổng
trấn Hạ Nam Kỳ. Ông ta ở tại Sài Gòn. Nơi ở chính thức của ông ở phía sau Hoàng
cung (chùa hoàng gia), nay là Đại lộ Norodom, gần tòa giám mục (khu
vực về sau là trụ sở hảng Esso và lãnh sự Pháp). Còn vợ của
ông thì ở khu vực Dinh toàn quyền bên ngoài thành lũy và tường thành (Ngoài
2 nơi ở đã nói thì nguyên khu đại lộ Norodom (Thống Nhứt/Lê Duẫn), dinh toàn
quyền (Độc Lập/Thống Nhất), vườn Maurtce Long (Tao Đàn) và trường Chasseloup
Laubat (Lê Quý Đôn) thuộc quyền sở hữu của ông.)
Hãy cùng
nhau xem qua sự trị vì của thái giám vĩ đại này sống ở Sài Gòn cổ kính này, từ
lúc ông ta còn sống đến khi qua đời. Lè Vân Duyêt, khi đó được gọi là Ông lớn
Thượng, đã cai trị đất nước này một cách hòa bình dưới thời Gia-long và phần đầu
của triều đại Minh Mang, thỉnh thoảng ông vẫn tiến hành các cuộc viễn chinh chống
lại người Cam Bốt nổi dậy. Ông ta là nỗi khiếp sợ của người Cam Bốt; người cầm
quyền An Nam giỏi, công bằng, cương nghị và thậm chí quá đáng. Ông là đaỊ diện
toàn quyền, được trời phú cho những khả năng phi thường, người lãnh đạo bất khả
xâm phạm, miễn tội chết; có quyền kết án tử hình và thi hành án mà không cần phải
có sự xác nhận của Bộ Hình. Ông ta chỉ yêu cầu lập một báo cáo đơn giản sau cuộc
hành quyết. Nhờ sức mạnh này mà ông đã hoàn toàn bình định đất nước.
Không đi
sâu vào chi tiết về cuộc sống riêng tư hoặc công khai của ông ấy, chúng ta hãy
nhìn vào sự nghiệp hành chánh của ông ấy.
Vì ông ấy
rất thích chiến đấu, đã thiết lập một một loại đấu trường để xem người đánh với
cọp hoặc voi. Ông cũng đam mê chọi gà và tuồng tích (Vị
trí trường Chasseloup Laubat/Lê Quý đôn là nơi đặt sân khấu hát bộ). Những trò
giải trí này đã chiếm hết thời gian nghỉ ngơi của ông.
Mỗi năm,
ngay sau tết, ông tổ chức duyệt binh cho sáu tỉnh tại Sài Gòn, ở đồng mồ mã (Đồn
tàp tràn) hay cánh đồng đa giác ngày nay. Cuộc duyệt binh này được xem xét dưới
mối quan hệ kép chính trị và tôn giáo hoặc đúng hơn là mê tín. Mục đích là để
phô trương rằng đã sẵn sàng để trấn áp mọi rối loạn và đồng thời để xua đuổi những
linh hồn xấu xa. Đây là cách thực hiện cuộc duyệt bình Ra Bình này:
Vào đêm
trước ngày mười sáu tháng giêng của năm mới, sau khi ăn chay và kiêng khem, ông
phẩm phục chỉnh tề, đến bày tỏ lòng tôn kính với vị vua trong dinh thự của
mình, sau đó, sau ba phát súng thần công, leo lên kiệu (sedes modatoria/ngai
nghi lễ) nằm ở trước và theo sau là binh lính. Ông đi ra theo đám rước, hoặc
ở cửa Gia Định Môn, hoặc ở Phan Yên Môn; đi về phía Chợ Vâi và đi lên đường Mac
Mahon để đến các mô đât, mô súng. (Khu vực công trường Dân Chủ)
Ở đó, người ta bắn đại bác, điều động
binh lính, huấn luyện voi. Tổng trấn sau đó thực hiện chuyến đi phía sau thành
và đi đến xưởng thủy quân (xưởng hoặc Thủy, hạm đội hoặc hải quân), tham dự một
cuộc tập trận thủy chiến và trở về thành. Trong suốt quá trình này, cư dân đã
gây ồn ào trong nhà của họ, đốt pháo để xua đuổi những ma quỷ có thể ám ảnh
ngôi nhà. ngay tết thứ hai, tức là vào tháng thứ năm, tổng trấn đến Tich Diên (nơi
nhà vua, hoặc đại diên của ông, nêu gương cho dân chúng bằng cách tự mình lao đông).
Địa điểm được dành cho buổi lễ này nằm gần trước bệnh viện của các nữ tu Saint
Enfance, ở Thị Nghè (Về sau là viện dưỡng lão Thị Nghè).
Sài Gòn
trong thời Minh Mạng cai trị
Bây giờ chúng ta hãy đến với triều đại
của Minh Mang. Tổng trấn đã đến Huế nhân dịp vua Minh Mang lên ngôi. Nguyễn Văn
Thiêng, bạn đồng ngũ của ông, là Thống đốc Bắc Kỳ. Minh Mang, sau khi loại bỏ
các đối thủ bất chánh của mình (xem Lịch sử An Nam), nghĩ lan man về của hai cựu
tướng lẫy lừng, những người có hành động ưu thế đã cản trở ông trong việc hoàn
thành các ý định của mình: thống đốc trung ương Nguyễn Văn Thiêng, sau đó đươc
coi là phó vương Bắc Kỳ, và đại hoạn quan Lê Vân Duyêt, người rất quý trọng người
Pháp, và sự hiện diện ở Huế gây bất lợi cho việc tự tiện trù tính của ông.
Nhà vua đề nghị thuyết phục những kẻ nổi
loạn, khi không thể tiêu diệt họ. Để đạt đến việc đó, ông đã nắm giữ thông phán
và người giữ con dấu của họ. Bắt đầu là Phó vương Bắc Kỳ; người ta bắt chước
cách viết của tổng trấn và con trai của ông. Tạo ra một bức thư, một bức thư giả
được cho là đã bị phát hiện, và đưa đến cho Minh Mang. Nội dung kêu gọi chống lại
nhà vua, chữ viết giả chữ của con trai phó vương Bắc Kỳ, và bức thư có đóng dấu
của phó vương. Minh Mang liền gọi gấp Thiêng từ Bắc Kỳ. Bằng chứng thật rõ ráng;
Thiêng và con trai bị xử tử. Sự ban ơn này, được gọi là tam ban triêu điễn, bao
gồm việc gửi cho các tội nhân đặc quyền ba vật dụng để tự sát: 1 ° ba mét lụa hồng
để treo cổ hoặc thắt cổ tự tử; 2 ° một ly chất độc; 3 ° một thanh kiếm để cắt cổ.
Lê Vân Duyêt, khi nhìn thấy người bạn
bị kết án trước mắt, nạn nhân của sự hai mặt của nhà vua, đã đoán ra âm mưu mà
ông đã phải bị khuất phục. Bằng một điềm
báo thực sự quan trọng, ông rời cung điện để về nhà để xem con dấu của mình có
còn ở vị trí cũ hay không. Không tìm thấy con dấu ở đó, ông ta vội kiếm người
canh giữ con dấu, và tìm thấy bất tỉnh, ở bờ giếng. Khi tìm kiếm anh ta, họ tìm
thấy con dấu bị mất và một bức thư giả chưa được đóng dấu. Anh ta bị chặt đầu ngay
tại chỗ theo lệnh của tổng trấn! Sau đó, ông ta đến tìm Minh Mang, nói với cua
rằng vùng Hạ Nam Kỳ là nạn nhân của sự tống tiền của các thủ lãnh băng đảng và
sự hiện diện của ông ta tại chỗ sẽ chấm dứt tình trạng rối loạn đang có nguy cơ
trầm trọng. Minh Mang không dám giữ ông lại, và hơn nữa hài lòng với sự xa cách
tự nguyện này, đã để ông ra đi. Lê Vân Duyêt do đó trở về Sài Gòn làm phó
vương; ông đến vào thời điểm thích hợp để trấn áp cuộc nổi dậy của người Cam Bốt
ở Trà Vinh (1822), và ông ở lại Hạ Nam Kỳ cho đến năm 1831, năm ông mất. Ông ta
là sợ hãi của Minh Mang, i tuy nhiên không dám có bất kỳ hành động nào chống lại
người tướng trung thành và dũng cảm này, người đại diện của cha ông ta, người
giám hộ và gia sư của chánh anh ta. Sự vĩ đại của các cống hiến của ọng ấy đã
khiến ông ấy gần như bất khả xâm phạm.
Sau khi LVD chết, Minh Mang, người đã
giữ hận thù và chưa bao giờ dám làm bất cứ điều gì chống lại ông ta trong suốt
cuộc đời của mình, đã tìm cách báo thù. Ông ta đã làm ô uề ka8ng mộ của LVD bằng
cách xiềng một sợi dây xích trên đó và áp một trăm nhát trượng vào mã; Sự báo
thù hèn hạ, đáng xấu hổ và đau khổ này là sự báo thù duy nhất mà vua có thể báo
thù vào người đại thần lừng lẫy, bên cạnh Gia Long, Từ ông Thiêng, Vô Tánh, các
sĩ quan Pháp và rất nhiều bạn đồng hành anh dũng, đã tiêu diệt Tây Sơn và xây dựng
lại vương quốc An Nam. Lăng mộ này được trùng tu bởi Thiêu-tri, người kế vị và
là con trai của Minh Mang. Ngày nay được sửa chữa và bảo dưỡng bởi chánh quyền
Pháp, trước sự kiểm tra của chánh quyền Sài Gòn.
Khi Duyêt chết, Bô chânh của Sài Gòn
là Bạch Xuân Nguyên, lấy lòng Minh mang, đã moi lại ký ức của vua và tố cáo qua
báo cáo điều tra của ông rằng phó vương muốn quyền tự chủ và đặc biệt là ông
thông đồng với Nguyển Văn khôi (phô vê ûy) để khai thác rừng Nguyễn Vân Khôi bị
hạ chức và được lệnh ra Huế để giải thích. Thay vì tuân theo, ông đã nổi dậy cùng
các quan lại của phó vương Lê Vân Duyệt.
Đến đêm, các tù nhân được thả, và tất
cả đều tuân theo Nguyễn Vân Khôi, người đã chém đầu Tổng Đốc và bố chânh Bach Xuân
Nguyên người tố cáo ông ta đã được khen ngợi,
Thành phố Sài Gòn rơi vào tay Khôi.
Ngày hôm sau, các bản đại cáo được thông báo: Mỹ Tho và các tỉnh miền Tây, một
mặt là Biên Hòa, Bà Ria và Mô Xoài, đặt dười quyền thủ lãnh nghĩa quân. Hạ Nam
Kỳ là của họ. Nghe tin về cuộc khởi nghĩa này, Minh Mang đã cho gởi quân bằng
đường bộ và đường biển ... Họ đến từ từ cùng một thời điểm: điểm thứ nhất ở điểm
A, nơi có tên là Đồng Chây (cánh đồng cháy), và điểm thứ hai ở sông Sài Gòn, đoạn
qua Giồng Ông Tô! Con sông được ngăn bằng xích sắt, giữa pháo đài phía nam và
pháo đài nằm ở bờ đối diện. Cuộc tấn công bắt đầu trong đêm ngày 6 tháng 7, khu
này bị vây hãm, đến ban ngày, quân của Khôi rút vào trong thành. Hạm đội của
Minh Mang neo ở sông Sài Gòn và ở rạch Avalanche. Quân bộ đến đóng ở trước
thành. quân bao vây đã dựng chổ này chổ khác những công sự bằng đất, cao hơn cả
bức tường thành. Nhưng việc đánh chiếm
Sài Gòn bị trì hoãn do sự can thiệp của người Xiêm, theo yêu cầu của Nguyển Văn
Khôi, xuất hiện ở phía Hà Tiên và Châu Đốc, và khiến vua Cam Bốt phải chạy sang
Vĩnh Long. Quân Xiêm bị đẩy lui về Xiêm theo ngã Gô sat (Pursat) và rút về
Battambang.
Để canh giữ Xiêm La, đồng thời cầm cự
với Cam Bốt, Trircng Minh Giảng, Tham
tán quân vụ An Nam, cho
xây dựng một thành lũy gọi là An Man ở Pnom Pênh và ở đó (1834). Người Xiêm bỏ
đi, năm tỉnh nhanh chóng rơi vào tay các tướng Minh Mang. Nhưng Sài Gòn, bị bao
vây trong khoảng một năm, vẫn giữ vững được.
Cuộc tấn công đầu tiên được thực hiện
vào tháng thứ tư năm 1834 trong tám giờ và không thành công: những kẻ tấn công
đã bị đánh bại. Thành không chiếm giữ lại được dù bị tấn công nhiều lần (vào
ngày 6 tháng 7). Chiến thắng đã phải trả giá đắt. Khốn cho kẻ bị đánh bãi! Ngày
chiến thắng cũng là ngày tàn sát, chúng ta không thể đếm xuể những người bị đem
ra xử ngay lập tức!
Con trai của Khôi, một nhà truyền
giáo người Pháp, ông Marchand, đứng giữa những người bị vây, bị bắt làm tù
nhân, tất cả đều bị đóng cũi và đưa về Huế, nơi họ chết dần chết mòn; 1.137 người
bị hành quyết ở đồng mồ mã (trong khu vực đa giác hiện tại, gần đường lên Thuân
Kiêu) và được chôn trong cùng một cái hố có đắp cao có tên là Mã Biền Tru (mã
người bị giết dã man, tàn sát) và nghĩa dung tục là Mã Ngụy (mã quân phản loạn..
Sau khi chiếm được Sài Gòn, Minh Mạng
cho phá hủy thành quách. ông Ollivier xây dựng, dưới thời Gia Long, chi phì cao
và đòi hỏi quá nhiều quân để được phòng thủ tốt. Nó đã được thay thế bởi một công
trình ở mức độ thấp hơn, được thực hiện bởi người Pháp vào năm 1859 và trên khu
vực ngày nay là doanh trại mới của thủy quân lục chiến.
(Còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét