Chủ Nhật, 20 tháng 6, 2021

 

LÊ-VĂN-LƯU

Giáo sư nghỉ hưu

cựu Phó thị trưởng thành phố Chợ Lớn

 

  

     

CHÙA TÀU VÀ AN NAM

 TẠI CHỢ LỚN

(Đính kèm 26 bức ảnh)

  

 

HÀ NỘI

NHÀ IN TONKIN

80-82, ĐƯỜNG DU CHANVRE, 80-82

1931

 

CHƯƠNG I

Sự thành lập người Tàu ở Nam Kỳ.

Tổng quan về xã hội Tàu - An Nam tại

Sài Gòn - Chợ Lớn trước khi bị người Pháp chiếm đóng

 

 

 

Chợ Lớn, ngày nay được coi là thủ phủ thương mại của Đông Dương thuộc Pháp, được cư trú dưới thời cựu đế chế gần như riêng người An Nam và người Tàu từ các tỉnh phía Nam: Quảng Đông và Phúc Kiến (Hai tỉnh này đã xuát đi hàng triệu người Tàu đến các nơi khác nhau trên thế giới. Người Tàu của phía Bắc lại chọn thuộc địa  Mãn Châu và Mông Cổ).

. Số lượng sau này đã tăng lên theo thời gian và đáng kể từ sự sụp đổ của triều đại Thanh và những biến động đã làm rung chuyển nước Tàu.

Hiện tại, người Tàu chiếm ưu thế ở Chợ Lớn, nơi họ độc quyền, thương mại vừa và nhỏ, buôn bán gạo và hầu hết các các ngành công nghiệp địa phương. như ở Thái và các nơi khác. Và điều này có vẻ tự nhiên, cho rằng những hậu duệ nhà Hán, mà người An Nam nằm dưới ách thống trị kinh tế và chính trị trong nhiều thế kỷ của họ, và họ vẫn còn nhiều chuẩn bị tốt hơn người bản xứ cho cuộc đấu tranh giành sự sống.

Người Tàu không vô dụng đối với đất nước họ đã đóng góp cho sự thịnh vượng đó mà hậu duệ của họ, người Minh-Hương đã trở thành Người An Nam, từ hôn phối của họ với phụ nữ bản xứ.

Một số lượng đáng kể đồng hương của chúng tôi ở Nam Kỳ được đánh giá hơn một phần ba tổng dân số là hậu duệ xa hoặc gần đây của những người Tàu (Những tên họ như: Âu, Bành, Ca, Chung, Cổ, Cù, Diệp, Giang, Hoa, Hông, Khẩu, Khương, Khứu. La, Mã, Nhan, Ôn, Ông, Quàch, Tàn, Tăng, Thái,…và rất nhiều họ khác được mang bởi một số đồng hương của chúng tôi biểu thị tên tổ tiên người Tàu xa xôi) tị nạn chánh trị (Chúng ta biết rằng người Hoa định cư ở Nam Kỳ hầu như cùng thời với người An Nam (thế kỷ 17). Hai tướng Tàu Dương Ngạn Địch và Trần Thắng Tài là những người ủng hộ nhà Minh sau khi bị người Mãn bị lật đổ, sang lánh nạn ở Nam Kỳ năm 1679, cùng với 3000 người trên 50 chiếc thuyền, được sự chấp thuận của các nhà cai trị An Nam tại Huê). và những người di dân sau đó. Hầu hết tất cả những người nước ngoài này, có phẩm chất bền bỉ, được biết đến tánh giản dị và tiết kiệm, đều là những con người hơp thức được sinh ra ở đất nước đang nuôi dưỡng họ.

.

Luật cấm phụ nữ Tàu xuất ngoại cuối cùng cũng bị bãi bỏ ở Trung Hoa vào cuối thế kỷ 19,

Trước khi bị chiếm đóng, Tày-Gôn (Chắc chắn là sự thay đổi cách đặt tên Cam Bốt của dân địa phương như Phsadek thành Sa Đéc, chợ thiếc và Sroc Khlang thành Sóc Trăng, làng kho báu và một số lượng lớn các tên gọi hiện tại khác của các tỉnh hoặc địa phương quan trọng của Nam Kỳ) (Chợ Lớn và Sài Gòn ngày nay) mà người Tàu vẫn gọi là Hê-ngan (hay còn gọi là Thầy Ngòn) là thủ phủ của Hạ Nam Kỳ và là huyện lỵ của huyện Tân Long.

Nơi đây bao gồm hai mươi ngàn người trải rộng trên nhiều ngôi làng nhỏ (3), nơi hình thành rất nhiều khu dân cư khác biệt. Những người bản xứ có cùng một loại hoạt động thương mại sống trong cùng một khu vực, giống như những người cùng khai thác một ngành kỹ nghệ được nhóm lại với nhau tại các khu vực trong phường hội của họ. Do đó đã tồn tại trong thành phố đang phát triển là các Xóm Dầu, một nơi chủ yếu sản xuất dầu dừa hoặc dầu lạc, Xóm Than nơi sản xuất và bán than củi gỗ, Xóm-Củi nơi củi, v.v.

Đình Vĩnh Hội ở Xóm Cũi



Đình Vĩnh Hội ngày nay

 

Kiều dân người Tàu-ở Sài Gòn được chia theo bang hội và thương cục. Họ đến thường xuyên mỗi năm, vào một thời điểm cố định, trên những chiếc thuyền, được ưa ái bởi gió mùa đông – bắc. vào tháng 12 hoặc Tháng Giêng và rời đi một lần nữa, tận dụng các đợt gió mùa thuận lợi của Đông Nam. trên cùng các chiếc thuyền mang nặng lúa gạo và sản pẩm địa phương.

Các thương nhân này chủ yếu mua vào thuốc và thảo dược thô, chè, sành sứ, vải lụa và bông, pháo, dù bằng giấy thấm dầu, dép hoặc dép da, đèn lồng Tàu, gỗ đàn hương, giấy vàng mã, v.v. rồi họ có thể bán toàn bộ cho thương nhân cùng quốc tịch với họ ở trong nước hay cho thương nhân người An Nam mua bán lẻ ngay tại chỗ.

Cảng Sài Gòn, ngày nay, đã tiếp nhận những thuyền đến từ các bờ biển An Nam mang theo Niróc-Mâm, cá khô và muối, dây xơ dừa, bánh gai, đồ nội thất khảm xà cừ và các sản phẩm khác từ miền Trung và Miền Bắc

Tiền tệ lưu thông trong cả nước được đại diện bởi những chuổi dồng trinh giá 10 tiền sắp theo 60 đồng trinh bằng kẽm mỗi chuổi, Bạc dinh, thỏi bạc cỡ nhỏ ngón tay và bạc nén, thỏi bạc lớn hơn nặng 375 gram và trị giá 16 piastres và tiền Mễ có giá trị bằng 7 chuổi đồng trinh.

Hầu hết tất cả các nhà kỹ nghệ nhỏ hoặc nghệ nhân là người bản địa. Họ khau thác việc buôn bán hoặc kỹ nghệ của họ trong các căn nhà hoặc trong những ngôi nhà gỗ lợp ngói, vừa làm chổ ở vừa làm hội quán.

Những ngôi nhà này đều sâu, nhìn chung là thấp, tối tăm và ẩm thấp. Riêng giới tư sản và thương nhân Tàu sống trong những ngôi nhà xây bằng gạch, lợp ngói nhưng cũng thấp.

Phần còn lại của cư dân sống rải rác trong các nhà lá, ép vào nhau, dọc theo những con đường nhỏ ngoằn ngoèo, biến thành những vũng nước trong mùa mưa.

Các hiệp hội thương mại dưới tên tập thể hoặc ẩn danh rất hiếm ngay cả đối với cư dân Tàu; mỗi người đều làm việc cho quyền lợi và bằng sức lực của chính mình. Cư dân Tàu nói chung là giàu có hoặc khá giả.

Từ đó, người ta có thể suy ra rằng thương mại là không đáng kể và ngành kỹ nghệ gia đình chỉ đủ cho tiêu dùng địa phương, đất nước bị đóng cửa với người nước ngoài, ngoại trừ người Tàu, chủ thể của quốc gia bá chủ.

Tuy nhiên, trong thành phố còn có những thợ kim hoàn, thợ sáng lập, thợ rèn, thợ dệt, thợ nhuộm, thợ thêu, thợ sơn mài-mạ vàng, thợ cưa xẻ, thợ tiện, thợ đóng thuyền, thợ đóng đồ nội thất và quan tài, v.v.

Người Tàu chủ yếu là thương nhân, thợ nề, thợ gốm, bán thuốc, lương y, thấy bói.

Chỉ trong thời kỳ Pháp chiếm đóng, cuộc di cư của người Tàu mới tăng lên và khuyến khích bằng các phương tiện di chuyển nhanh, đặc biệt là tàu chạy bằng hơi nước. Những phẩm chất nhạy bén của người Tàu đã góp phần tạo nên sự đoàn kết, được biết, đã chiến thắng mọi trở ngại và cho phép họ thay thế hoàn toàn người bản xứ trong tất cả các ngành hoạt động: thương mại, Kỹ nghệ, giao thông đường sông.

Người Minh Hương, kết quả của sự hôn phối với những phụ nữ bản địa, thành người An Nam bởi ngôn ngữ và cách cư xử.

Họ cũng tuân theo luật pháp sở tại. (Đường nhơn hậu duệ nghi sáp nhập Minh Hương xã tịch)

Họ buộc phải búi tóc và mặc trang phục dân tộc An Nam và được tập hợp thành các xã (làng Minh Hương), những người đăng ký được miễn đi lính và xâu dịch bằng hiện vật thông qua một loại thuế đặc biệt được trả bởi những người thân hào. Những điều này thường được các nhà chức trách đánh giá cao.



Bên trong đình Vĩnh Hội


Bên trong đình Vĩnh Hội ngày nay


Thuế hoặc các khoản đóng góp đã được trả bằng tiền mặt và hiện vật. Các kho thóc công cộng được thành lập ở tỉnh lỵ của các tỉnh hoặc các trung tâm quan trọng. Kho chứa đầy thóc nhằm mục đích có thể giúp đỡ những nạn nhân của thiên tai do nhiễu động khí quyển: bão, sóng triều, lũ lụt, đặc biệt là nạn đói. đôi khi hoành hành ở một phần của vương quốc, trong khi phần còn lại của đất nước rất dồi dào và điều đó, vì thiếu cách thức và phương tiện vận chuyển nhanh chóng.

Người dân sử dụng kiệu, đi ngựa và đặc biệt là thuyền tam bản, tất cả các địa phương quan trọng cũng như các tỉnh lỵ có thể tiếp cận ở Nam Kỳ cho thuyền tam bản và tàu làm phương tiện vận chuyển.

Ngành đường thủy nội địa luôn hoạt động khá sôi động trên sông và kênh rạch.

 

                                       (Còn tiếp)

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Tết Sài Gòn trăm năm trước ra sao?   Biết những gì xảy ra trong quá khứ xa xưa dường như là mơ ước muôn đời của con người. Bởi trong c...