Lịch sử cuộc viễn chinh Nam Kỳ năm 1861
(Histoire de L’EXPÉDITION DE COCHINCHINE en 1861)
(Tiếp Theo)
CHƯƠNG III
Ðề cương:
Kế hoạch chiến dịch đánh chiếm Saĩgon _Hạm đội chế ngự
sông Don-naĩ_Giới tuyến các chùa cầm chân quân địch; quân viễn chinh dàn quân
hình cung, phong tỏa thành Kì hòa, đặt quân An nam trong thế phải lựa chọn,
hoặc phải chống trả, hoặc phải chịu nghiền nát và phân tán trong một trân đánh
úp duy nhất.
Ngay hôm thủy sư đề đốc tổng tư lịnh viễn chinh đến
Saĩgon, quân ta vẫn không lơi tay chuẩn bị trận chiến Nam kỳ. Tại Woo-sung,
quân viễn chinh qui trước đây được phân phát khí giới, hành trang và đưa lên
tàu. Tại Saĩgon, quân sĩ đã đến từ trước cũng ở thế sẵn sàng tiến quân và chiến
đấu. Cách bố trí và địa điểm chiến lược đã được quyết định xong, tình báo các
nơi cũng đã thu thập và bổ xung. Trọng trách được phân phối, các vấn đề cá nhân
trong quân ngũ cũng được giải quyết xong. Thành phần quân đoàn thủy binh đổ bộ
được lệnh tập họp; tiểu đoàn này gồm 900 người, chia thành 9 đại đội, trong số
có một đại đội mệnh danh là thủy binh đột kích giữ vai trò của công binh, đánh
mở đường; đại đội đặt dưới sự chỉ huy của đại úy hải quân de Lapelin.
Thủy sư đề đốc nghe Ðại tá Tây ban nha, cựu chỉ huy trưởng
Saĩgon, phúc trình về các công tác của mình; vị đại tá này vừa chấm dứt nhiệm
vụ phòng thủ Saĩgon suốt trong một năm qua. Thủy sư đề đốc cùng với các vị chỉ
huy công binh và pháo binh đi xem xét cánh đồng Kì hòa và sau đó ông cũng đi
quan sát đường giới tuyến phòng thủ do chuẩn đề đốc Page vạch ra từ kinh
Avalanche cho đến đồn Caĩ-maĩ; ông muốn biết chắc đường giới tuyến này đất phải
khô, khả dĩ có thể dùng cho pháo binh, mặc dù trên cánh đồng mênh mông của
đường giới tuyến có nhiều ụ đất và hố nhân tạo. Sau khi quan sát, và thấy rằng
với phương tiện hết sức dồi dào của đạo quân viễn chinh hiện nay, ông có thể
đánh bọc hậu bất ngờ quân An nam trong khi họ đang bận lo phòng thủ ở mặt trước
và hai bên cánh. Do đó, ông quyết định kế hoạch hành quân như sau mà các vị chỉ
huy công binh và pháo binh phải nghe theo. Một mặt, hạm đội ngược sông Don-naĩ,
phá xập các chướng ngại do địch dựng lên, phá các đập chắn, san bằng đồn lũy và
kiểm soát toàn bộ thượng lưu sông. Tiếp đó là đường tuyến các chùa của ta phải
đối đầu và kềm giữ cánh mặt của địch quân; đường tuyến này sẽ xử dụng pháo binh
mạnh mẽ, dựa vào các công sự mới và vòng đai chiến thuyền neo trên sông Saĩgon,
mục đích để cầm chân và dồn địch vào thế bất lực. Sau đó, từ đồn Caĩ-maĩ dùng
làm căn cứ hành quân, toàn thể đạo quân viễn chinh sẽ tiến lên đánh gãy tuyến
phòng thủ An nam tại một điểm thứ nhất, tiếp tục dùng điểm tựa này tiến lên,
tránh tầm đạn của địch bọc ra phía sau để vây hậu tuyến thành Kì hòa. Từ vị trí
này rất gần sông Don-naĩ, quân viễn chinh sẽ phối hợp với hoạt động của hạm đội
trên sông khép kín gọng kềm mà nghiền nát địch quân. Trong khi ấy quân An nam
khi bị cắt rời với kho Tong-kéou, bị vây hãm trong vòng đai sắt, không còn giải
pháp nào khác, họ buộc phải đánh hoặc bị tấn công và nghiền nát. Tuy nhiên địch
vẫn còn một đường tháo thân, nếu trong khi kịch chiến ta không đặt một đội quân
canh chừng tại đây. Ðó là đường giám mục Adran; nhưng muốn đến được đường này
thì địch phải vượt qua vùng đầm lầy thuộc kinh Avalanche.
Ðây chỉ là đường tháo chạy chớ không phải là đường rút lui
trong trật t4]. Tình trạng đặc biệt như vừa kể cho thấy cái hãi hùng không tả
nổi trong tiếng kêu cứu của những người lính canh.
Quân sĩ nôn nóng hăng say chờ đối đầu với kẻ thù. Cho đến
giờ phút này các giới tuyến vẫn im lìm; từ chùa Clochetons ta thấy thoang
thoáng các chướng ngại vật của người An nam, chẳng hạn như các cành lá úa vàng,
rậm rạp và chằng chịt trên đầu tường thành. Những chòi canh có mặt bằng phẳng
để đứng, một bóng người thấp thoáng, thế thôi. Chiến tuyến địch trải rộng mười
sáu cây số; tổng số địch quân theo tin đồn lên đến 30000 người, ta và họ chỉ
cách nhau có vài trăm thước nhưng ta thì không trông thấy họ; ta còn nghe nói
họ có những chỗ cố thủ hiểm hóc trong thành; cũng nên kể thêm tính cương ngạnh
của giống dân này, sức chống cự của họ và ta thì đã đánh suốt một năm chẳng
được gì hết, tất cả cho thấy tầm quan trọng của địch và trận chiến sắp xảy ra.
Nhưng ngày nay không còn ai nhớ tới sức mạnh đó của địch. Về sau này, khi tường
thành Kì hòa bị san bằng, các bàn chông và chà gai bao phủ trở thành một lớp
tro đen, khi kẻ thù bại trận, lang thang và khốn khổ, thì những người từ Pháp
đến, cứ lấy hôm nay để đoán ngày xưa, rồi chế nhạo khi dễ giá trị quân sự của
người An nam, không chịu phân biệt gì hết mà coi quân An nam chỉ là bọn giặc
cướp.
Trong khi chờ đợi những cuộc dấn thân sắp đến, quân sĩ tìm
thấy trong đời sống trước mặt một nguồn sinh lực mới, một sự vui nhộn tràn trề,
mà sau này không ai tìm thấy trong các cuộc hành quân viễn chinh khác. Những
người đã trải qua giai đoạn này đều coi đó là một giai đoạn lý thú và độc đáo
trong cuộc đời mình. Cái mới lạ và vẻ đẹp của quang cảnh Saĩgon thật dịu dàng
và duyên dáng, tạo ra một bối cảnh hết sức quyến luyến khi chợt nghĩ rồi đây sẽ
phải rời xa nơi này[5] Kinh Tàu và đường cái nối tiếp với kinh này trên đất
thật đông người và nhộn nhịp, đầy thực phẩm, súng ống và đạn dược chiến tranh.
Trên mặt kinh các tàu sa-lúp màu xám, trước kia chuyên chở quân lính đưa lên
tàu tại Peh-tang, nay thì chuyên chở các khẩu đại pháo nòng có khía và các ổ
súng cối, bàn đặt súng và những quả đạn dài đầu nhọn[6].
Kinh Tàu, mà ta vẫn thường nghe nhắc tới khi nói đến
Saĩgon, rất có thể là một con kinh do người đào, hoặc ít ra cũng do tay người
sửa và vét giúp cho tàu bè thông thương. Kinh tách ra theo một hướng thẳng góc
với sông Saĩgon, ăn sâu vào vùng đồng bằng, mặt nước phẳng và đều, rộng độ 100
thước. Kinh Tàu nối liền với kinh Thương mại[7], kết hợp với các kinh khác rồi
đổ vào sông Cambodge [8] tạo ra đường lưu thông huyết mạch cho việc buôn bán
trong toàn vùng Nam kỳ miền dưới. Khi rời khỏi Saĩgon, dọc hai bên bờ kinh
vương lên nhiều chòm cây mảng cầu[9], cây mít, cây bông lài rất thơm, dứa gai
và lau sậy. Cây cối trên bờ bên trái [10] che khuất những ruộng lúa mênh mông
xa tít tới chân trời. Dẫy cây bờ bên phải, thỉnh thoảng có chổ trống để lộ ra
một cái miếu [11] nhỏ, miếu dựng lên để thờ một vị thần quen thuộc của địa
phương; trên bờ có nhiều căn nhà xinh xắn của người An nam, lợp ngói, nhà có
trồng xương rồng bao kín chung quanh không cách gì chui qua lọt.
Một con đường cái tình trạng bảo trì khá tốt, rộng như một
tỉnh lộ của ta ở Pháp, có cây xinh xắn che mát, đường chạy dài song song với
kinh Tàu chỉ cách khoảng 200 thước. Ðó là một đoạn trên con đường từ Saĩgon đi
My-thô. Từ Saĩgon xuống, bên phía mặt là các chùa đã biến thành đồn của ta như
đồn Barbet, đồn Ao, đồn Clochetons, đồn Caĩ-maĩ. Cũng về bên phía tay mặt, xa
xa sau mặt đường, đất đai có vẻ cao hơn một chút trải rộng tới chân trời. Các
chòm cau và cây cối xanh tươi không còn nữa, chỉ thấy cây cỏ cằn cọc, vàng úa,
thấp lè tèTất cả đều cằn cỗi và buồn thảm dưới bầu trời nung đốt; vài mô đất,
vài nấm mồ sơn sáng chói trang trí tranh vẽ trên vách mộ là tất cả những gì đập
vào mắt ngưòi nhìn. Cánh đồng mênh mông đó chính là cánh đồng Kì hòa. Xa hơn
nữa là tuyến phòng thủ An nam, vách thành thấp, tiệp với màu đất, nếu không có
bóng vài kỵ mã và chòi canh thì khó mà nhận ra thành Kì hòa.
Thành phố Tàu, dân địa phương gọi là Cho-luen, tên có gốc
tiếng tàu[12], trải dài hai cây số dọc hai bên bờ kinh. Quang cảnh nhộn nhịp,
cu-li Tàu và An nam tấp nập khuân vác gạo, tiền bằng đồng, dê nhỏ và cá khô.
Các mái ngói màu đỏ nổi bật giữa các chòm cau giống như nơi thôn dã; thân cau
thẳng băng và có khía tưởng chừng như đã từng làm mẫu cho các cột của thành
quách Hy lạp. Viễn cảnh trông thấy ở khúc quanh đầu tiên của kinh tràn đầy vẻ
dịu dàng, mềm mại và thanh lịch. Thật nhiều cầu nối liền hai bờ sông. Càng ra
xa Saĩgon hơn, vườn tược rộng hơn, nhà cửa dần dần thưa thớt và riêng biệt hơn.
Cho-luen không giống thành phố Âu châu chút nào, mà cũng chẳng giống với một
thành phố Tàu hay An nam nào cả. Người ta có thể nói đây chỉ là một nơi gom tụ
của một số nông trại giàu có. Sân nhà không có tường che khuất như bên Tàu, nên
người ta có thể trông thấy vào giờ cơm, trong sân có kê ba cái bàn theo hình
tam giác. Bàn trong cùng, kê cao hơn hết, dành cho chủ nhân, con cái, bạn hữu
và người quản gia ngồi; cu-li thì ăn ở hai bàn còn lại kê thấp hơn. Lối sống
giữa trời như thế cho thấy cái vẻ oai vệ của chủ nhân. Trên mặt kinh luôn luôn
tấp nập, thuyền bè kẹp sát nhau, chỉ còn một lối nhỏ ở giữa. Khi nước ròng, mực
nước rút xuống thật thấp, chỉ còn một dòng nước nhỏ như một con suối, đủ cho
thuyền thật mỏng lưu thông; ghe thuyền khác thản nhiên cạn sình hai bên bờ mà
không hư hại gì cả.Các ghe tàu này chỉ xử dụng ở nước ngọt, sơn bóng loáng bằng
một thứ dầu nội hóa, trông có vẻ nhàn hạ phong lưu.
Thành phố Tàu là chìa khóa của tất cả thương nghiệp tại
Nam kỳ miền dưới. Ai kiểm soát được thành phố này là nắm hết khả năng sinh hoạt
của dân chúng trong phần đất An nam này. Các đồn Clochetons và Caĩ-maĩ sẽ giữ
nhiệm vụ đánh chiếm thành phố Tàu; một tàu chiến loại lorcha[13] kiểm soát con
kinh mà hai bên bờ là Cho-luen, tàu mang tên Jajaréo thả neo ngay cửa vào thành
phố Cho-luen; do một đại úy hải quân chỉ huy, phụ tá lại là một trung úy thủy
quân đánh bộ, đây là một trong những việc trớ trêu ngược đời trong trận chiến
kỳ lạ này. Thành phố Tàu xây cất theo lối xưa, người Tàu sống ở đây chia ra
thành từng bang hay hội đoàn, có thiết lập hẳn hoi quy uớc và xác định những
ngoại lệ khỏi đóng góp. Nhiều người thật giàu có; một số người thuê trực tiếp
các tàu Âu châu để gởi đi Ấn độ, đảo Réunions hoặc đi Tàu. Cũng phải xác nhận
rằng ngày nay tình thế khó khăn vì sự chiếm đóng của Pháp, thương gia tại
Saĩgon dựa vào giá cả của thị trường Hong-kong và Shang-haĩ, nhưng có khi biết
có khi không, vì thế người Tàu lập hẳn một hệ thống chuyển thư riêng của họ
giữa Saĩgon và Canton.
Trong suốt vùng Cho-leun thuộc tỉnh Gia-dinh, chùa và miếu
(bàn thờ nhỏ để chuộc tội) thật là nhiều. Các miếu thờ xây cất rất trang nhã và
giống hệt nhau, tương tự như các đền miếu bên Tàu. Ðền miếu xây cất có lẽ do
tiền quyên góp của dân buôn bán người Tàu. Dân Tàu cũng dững dưng với tôn giáo
như dân An nam, nhưng họ giàu hơn và muốn khoe khoang của cải[14]
Bốn cảnh chùa mà chuẩn đề đốc Page, một năm trước đây, đã
biến thành đồn để phong tỏa Saĩgon thì nhìn từ xa cũng thấy rõ nhờ trên mái có
các con rồng thật đặc biệt, những con cá đứng dựng trên đuôi và tượng chó có
mắt người ta[15] theo mẫu gốc đặt ở lâu đài Yuen-minh-yuen; chắc chắn các hình
tượng này không phải là các sáng tạo tùy hứng do trí tưởng tượng của người Tàu
mà ra. Cảnh sân trước chùa đều có trồng loại cây dương Ấn độ có lá lớn gọi là
cây Mahâ-phot, dưới một trong các cây này ông Phật đã được vua các thiên thần
là Indra phong làm thầy tu.
Cảnh chùa Barbet mang tên một đại úy thủy binh bộ chiến
trước kia đã từng cai quản chùa này, ông bị ám sát và bị cắt đầu nơi khúc quanh
thứ nhất trên con đường dẫn đến chùa Ao. Buổi chiều hôm đó, ông cởi ngựa đi
tuần tra như thường lệ. Bọn sát nhân rình rập trong một bụi cây, sau này người
đi ngang đây còn chỉ chỏ cho nhau biết. Ông ta bị đột kích bằng giáo té ngay
xuống ngựa. Bọn An nam liền cắt đầu, bò qua các bụi rậm và cỏ cao trở về giới
tuyến cũ của thành Kì hòa. Sáng hôm sau, người ta thấy phần thân thể còn lại bị
kéo bỏ bên vệ đường; con ngựa bị thương nằm bất động kế bên. Người ta kể lại
rằng khi cái đầu ông đại úy đem đến đặt kế bên khay trầu của vị tướng An nam
thì ông này liền đếm tiền thưởng mà không nói gì, rồi sau đó mới thốt ra một
lời tiếc thương. Ðại úy Barbet có thân hình và một sức mạnh lực sĩ, tất cả
người An nam đều biết mặt ông.
Chùa Ao trước kia rất nổi tiếng vì là nơi hành hương cho
những người đi buôn bán từ My-thô trở về. Chùa có hai ao nên gọi là chùa Ao,
một lớn một nhỏ, nước dơ bẩn, thường thấy thỉnh thoảng có xuất hiện loại cá sấu
caĩman.
Chùa Clochetons hơi xa hơn các chùa kể trên nhưng cũng
trên đường từ Saĩgon đi My-thô. Chùa xây cất giữa một cánh đồng mồ mả. Các
tượng thần [16] sơn vàng, chất đầy chung quanh các gian phòng trong chùa, vẻ
mặt tượng trưng một trạng thái gần hoàn toàn thoát tục. Một đàn gà bươi móc
khắp nơi, lính thủy và bộ binh nhìn thấy mà thèm. Trên bàn của các sĩ quan có
để vài chai rượu vermouth và absinthe; trước mặt đồn súng 30 ly nòng dài có
khía xếp thành hàng trên các bệ bắn, lớp sơn đen trầy trụa vì súng phải khiêng
lên khiêng xuống. Các chùa hay đồn binh của ta vừa kể giữ nhiều vai trò: vừa là
nông trại, đồn canh gác và pháo đội.
Các vị thần phật giáo hình như đang lạc vào một thế giới
khác; nụ cười mỉm của tượng, tuy nhân bản hơn là chế nhạo, nhưng hình như cũng
đồng lõa với những nỗ lực của ta đang xảy ra trước mặt. Cảnh các tượng thần
trước sự nhộn nhịp của đám người phục dịch bận rộn tíu tít và sức mạnh xâm
chiếm của một giống dân tuy lo âu nhưng mạnh mẽ đã tạo ra một sự tương phản lạ
lùng[17]
Chùa Caĩ-maĩ là điểm chốt xa nhất trên tuyến phòng thủ của
quân viễn chinh, cánh mặt của đường tuyến bắt đầu từ kinh Avalanche. Chùa là vị
trí tiền tuyến nhất mà trước đây ta đã chiếm được của người An nam. Chùa xây
trên một gò đất cao do người đắp. Bên trong chùa các chi tiết trang trí cũng
giống như các chùa khác. Phía trước mặt đồn Caĩ-maĩ là đồn An nam ta gọi là
Redoute, đồn này là tiền đồn của cả hệ thống phòng thủ của địch quân, cạnh bên
là một vùng đầm lầy làm chướng ngại thiên nhiên. Chùa Caĩ-maĩ của ta mấy ngày
sau bất ngờ được xử dụng làm kho tồn trữ đạn dược cho pháo binh và lính bộ.
Công việc nâng các giàn trọng pháo 30 và các ổ súng cối 80
lên bàn bắn rất là nặng nhọc, các người cai thủy thủ đảm trách việc này. Trung
tá pháo binh đánh bộ là Crouzat chỉ huy một đội pháo binh phá thành và một đội
pháo binh chiến thuật phải huy động hết mọi người trong tay ông. Chỉ trong bẩy
ngày các bệ bắn được xây đắp xong, súng từ tàu chuyển đến được nâng lên bệ bắn
cùng với một trăm quả đạn cho mỗi súng. Chùa Barbet nhận được 3 ổ súng cối 80
và hai dàn phóng hỏa tiển tấn công 125 ly; chùa Clochetons nhận 4 khẩu đại bác
của hải quân nòng 30 có khía; chùa Caĩ-maĩ một khẩu 30 nòng có khía và một ổ
súng cối 80. Các thủy thủ trước đây trách nhiệm về các khẩu súng này trên tàu
được phân phối gởi theo để tiếp tục đảm trách việc xử dụng.
Ngày 16 tháng hai, vị tổng tư lịnh rời tàu
Impératrice-Eugénie, tàu bèn hạ cờ hiệu của tổng tư lịnh xuống rồi chở toàn bộ
tổng hành dinh đến trụ sở mới tại một công sự gần phía sau đồn Barbet. Vị tổng
tư lịnh giao cho đại úy hải quân de Surville[18] điều khiển các chiến hạm neo
dọc trên sông Saĩgon. Vị sĩ quan cao cấp liền gom tất cả thủy thủ đoàn của các
chiến hạm trong tay ông để thành lập các đại đội chuyên chở tiếp liệu, đồng
thời cũng cung cấp pháo thủ cho các đại bác nòng có khía đã chuyển đến các
chùa; suốt hai mươi ngày, họ phải cong lưng chèo chống, từ sáng đến tối dưới
bầu trời thiêu đốt, vận chuyển một số lớn các thiết bị lưu động cho cả đạo
quân, dù chỉ là một đạo quân nhỏ. Rồi đây họ lại được nghe các dàn đại pháo lẫn
tiếng súng nhỏ từ các trận đánh vọng lại. Họ chỉ biết chiến đấu qua việc tải
thương, cứu cấp và an ủi quân sĩ bị thương. Vai trò đòi hỏi một tinh thần hy
sinh cao độ. Vị chỉ huy hải quân de Surville khuyến khích để giúp họ đủ sức
kiên nhẫn chịu đựng những khắc nghiệt trong công tác khó khăn của họ.
Trung tá Crouzat bố trí và hướng dẫn toán dọ thám cho biết
chắc chắn chỉ có phía trước và bên trái đồn Caĩ-maĩ mới có đường di chuyển cho
pháo binh để tiến đến một vị trí đất cứng cách tuyến địch độ một ngàn thước.
Ðường dùng cho pháo binh cần phải san bằng, công tác giao cho một đội công binh
biệt phái và một đại đội trên chiến hạm Impératrice-Eugénie đảm trách; quân sĩ
làm đường phải chịu hỏa lực của địch rất khó chịu nhưng không ai bị trúng
đạn._Ngày 19 tháng hai, 20 hỏa tiển phóng hỏa 125 ly của hải quân và 32 hỏa
tiển của bộ binh đầu 90 ly sơn đỏ được phóng đi từ chùa Barbet đến một địa điểm
cách xa chừng 5 cây số nằm trong phần doanh trại của địch, mục đích làm cho
địch bối rối và lo âu. Ngày 21 và 22 tháng 2, ta tiếp tế thêm cho chùa Caĩ-maĩ,
nơi làm điểm tựa để chuyển quân đánh bọc hậu, gấp đôi số đạn dược cho pháo binh
và thêm 50 000 viên đạn cho lính đánh bộ.
Trên bộ các đội quân viễn chinh tiếp tục bố trí, trên sông
Don-naĩ các hoạt động cầm chân địch cũng được phối hợp và phân bố. Vị phó thủy
sư đề đốc chỉ huy trưởng vạch ra chương trình hành quân cho chuẩn đề đốc Page
như sau:
‘’Tôi thật vinh dự cho ông biết các chiến hạm Avalanche,
Sham-Rock và pháo hạm số 31 phối hợp với chiến hạm Renommée để lập ra một sư
đoàn dành cho ông hành quân phía thượng lưu sông, chiến hạm Renommée sẽ mang cờ
lệnh của ông.
‘’Khi tới ngang địa phận Go-viap, và sau khi đã vượt được
hết các chướng ngại có thể cản trở hạm đội của ông xong, thì ông biệt phái pháo
hạm số 31 ở lại kinh này. Pháo hạm phải hoạt động thật cẩn thận đừng để bị
thiệt hại. Tại vị trí đó, pháo hạm tận dụng tất cả những phương tiện sẵn
có để canh chừng và chận đứng mọi di chuyển của địch quân, cấm bất cứ ai có vẻ
nghi ngờ vượt từ bờ sông bên này sang bờ sông bên kia.
‘’Phần ông thì đem các chiến hạm Renommée, Avalanche
và Sham-Rock tiếp tục tiến lên đến ngang địa phận Thu-yen-mot, cương quyết gây
khó khăn cho địch trong việc di chuyển giữa hai bờ sông, nếu có thể thì cắt đưt
hẳn sự di chuyển của họ.
‘’ Ông có thể vượt xa hơn Thu-yen-mot trong nhất thời nếu ông thấy có lợi thế
cho ông, cứ tùy cơ xử trí để đạt mục đích tôi vừa chỉ định.
‘’Tôi giao cho ông trọng trách đối xử với dân chúng khi họ
không gây hấn gì. Tạo cho họ tin tưởng là điều quan trọng, đồng thời cũng nên
phô trương cho họ thấy các phương tiện mạnh mẻ của ta.’’
‘’Nếu trong vòng ngày mai bố trí xong thì ông lên đường
ngay khi thấy thủy triều lên.’’
Trong mục đích kềm giữ hoàn toàn quân địch trong vòng
thành của họ (xem bảng hình 1 và 2), pháo hạm số 18, sau khi chuẩn đề đốc Page
xuất quân, sẽ lên đường đến một vị trí trên kinh Avalanche, giữ cách xa tàu
lorcha Espérance một quảng ngắn. Pháo hạm 18 giữ trọng trách cắt đứt liên lạc
của địch qua lại giữa hai bờ sông và phá xập cây cầu thứ hai bắc qua kinh. Tàu
được cấp thêm đạn đại pháo và súng trường._ Về phía mặt trận tuyến, pháo hạm số
31 vì nằm ở một vị trí lẽ loi tại Go-viap nên nhận được lịnh phải hành động
thật thận trọng, luôn luôn giữ chổ nước sâu, sông rộng để xoay trở dễ dàng._Sau
hết là pháo hạm số 16, tàu lorcha Jajaréo, pháo hạm số 27 và tàu lorcha
Saint-Joseph giữ vị trí bên cánh trái của quân ta; hai chiếc trước tiến vào
kinh Tàu, hai chiếc sau tiến vào kinh Rach-cat tại cửa sông Rach-baoum, tức chỉ
cách thành phố Tàu khoảng năm dặm. Pháo hạm số 27 nhận quân biệt phái từ tiểu
đoàn 2 bộ binh, nhóm quân này trước đây đã từng tăng cường cho thủy thủ đoàn
Saint-Joseph. Ngày 17 tháng 2, pháo hạm số 27 kéo tàu lorcha về hướng ngã ba
sông Don-naĩ và Soi-rap, đổ theo sông Soi-rap đến một phụ lưu là sông Rach-cat;
pháo hạm tiếp tục kéo theo tàu Saint-Joseph ngược sông Rach-cat rồi dừng lại
giữ vị trí ở cửa sông Rach-baoum. Tất cả bốn tàu hợp sức kềm giữ địch quân bên
cánh trái của ta và tạo ra hai đường tuyến phòng thủ riêng biệt nằm phía sau
giới tuyến các chùa, mục đích là vừa làm hậu thuẩn cho giới tuyến này vừa làm
cho bọn An nam không còn trông cậy gì được vào các trục giao thông trên sông
ngòi. Liên lạc giữa pháo hạm số 27 và tổng hành dinh sẽ do pháo hạm số 16 và đồn
Caĩ-maĩ đảm trách.
Vị chỉ huy trưởng liền cho quân sĩ hay là thời cơ sắp đến.
Ông nói với quân sĩ rằng người Pháp gây chiến với hoàng đế của dân An nam, chớ
không phải với dân An nam; quân đội viễn chinh Nam kỳ phải bảo vệ người dân vô
tội, của cải và việc buôn bán của họ.
Với các dân tộc An nam, ông thông báo sự hiện diện của ông
tại đây và mục tiêu của cuộc chiến; ông vạch cho họ cách xử trí bằng những lời
lẽ như sau:
‘’Charner, đề đốc thủy sư Pháp, chỉ huy trưởng toàn thể lực lượng viễn đông,
đại diện toàn quyền trong việc bình định đế quốc An nam,
Nhắc cho dân chúng tỉnh Saĩgon và tất cả các quận lỵ tùy
thuộc tỉnh này biết rằng đế quốc Pháp và vương quốc Tây ban nha đồng tình trong
cùng một ý chí, kết hợp sức mạnh chung đến đây để hạch hỏi chính quyền An nam
phải giải thích lý do về tất cả các hành động bội ước và vô ơn mà họ phải nhận
tội. Vì lẽ đó, chúng tôi tuân lịnh tôn nghiêm của đại hoàng đế chúng tôi để đến
đây cùng quân sĩ tra hỏi ngọn nguồn về tất cả những gì đã xảy ra từ trước.
‘’Chắc chắn không phải chúng tôi đến đây để gây khổ sở cho
dân chúng. Trái lại, điều thiết tha lớn nhất của chúng tôi là che chở và mở
đường thương mại cho họ để càng ngày càng làm cho họ giàu có thêm. Chúng tôi
hứa sẽ đem tới hòa bình và bảo vệ hoàn toàn của cải của họ, tính mạng và nhà
cửa của họ, không làm gì thiệt hại đến tất cả quan chức dân sự nào, quân sĩ
nào, người dân nào chấp nhận mọi sự việc với một tấm lòng lượng thiện. Sự che
chở này cũng sẽ mở rộng cho tất cả, không phân biệt những người đã quy phục chúng
tôi cũng như những người chưa có cơ hội để làm._Nơi nào quân sĩ chúng tôi không
đi ngang thì cứ thản nhiên buôn bán như thường lệ, không rối loạn và không lo
sợ gì cả. Còn những ai, trước kia vì nhất thời khiếp sợ uy quyền của chúng tôi
mà trốn chạy, và những ai, cho đến bây giờ vẫn chưa kết hợp với dân tộc chúng
tôi, nếu có ý chí thật sự muốn quy phục thì chúng tôi vì lòng nhân từ sẽ đón
rước và che chở không nệ gì về quá khứ.
‘’Những lời hứa hẹn hòa bình vừa ban ra, xuất phát từ lòng
thực tâm của ngưòi tổng tư lịnh, không phải là những hứa hẹn chốc lát có hiệu
quả ngắn hạn, mà là những lời hứa khẳng định và vĩnh viễn’’
Tất cả các cánh quân đã bố trí xong, quân sĩ sẵn sàng tiến
lên và chiến đấu. Vị tổng tư lịnh chỉ thị các hàng tiền tuyến sẽ tấn công ngày
24 tháng hai--
[1] Phúc trình do vị chỉ huy của một trong các lực lượng đặc biệt cho biết như
sau:
‘’Ðể đánh bật địch quân ra khỏi trại của họ, thì phải đánh
trước mặt hoặc bên cánh trái, hoặc bên cánh phải. Tấn công trước mặt thẳng về
hướng Saĩgon, sẽ gay go và thương vong nhiều, địch dồn về mặt này đông nhất,
phương tiện phòng thủ cũng tốt nhất. Vững tâm trong vòng đai cố thủ, địch sẽ
chống cự đến cùng. Còn như tấn công bên trái của địch quả là khó khăn, vì lý do
phải vượt qua đầm lầy để xáp đến gần địch. Vậy chỉ còn cách là tấn công bên
cánh phải của địch mà thôi.’’
Vì những lý do vừa kể, ta chỉ cho lịnh tấn công bên trái
khi nào tấn công trước mặt gây tổn thất thương vong quá nhiều và khi tấn công
bên phải sẽ gần như không thực hiện nổi vì các chướng ngại thiên nhiên. Nhưng
thật ra cũng không đúng như vậy vì ta chưa kể đến sức mạnh của cả hạm đội trên
thượng lưu sông Don-naĩ, và địch thì không thể di động được ở bất cứ điểm nào
dọc theo tuyến các chùa của ta. Nhưng nếu kể như quân viễn chinh tiến lên từ
cánh trái của mình đánh bật được quân địch ở tiền tuyến của họ mà ta gọi là
Redoute để gây thêm càng lúc càng khó khăn cho địch, thì chương trình hành quân
sẽ không thiết lập dựa vào phương pháp loại dần các giải pháp; mà nó là hậu quả
hợp lý và đúng theo sự bố trí của ta trên các mặt sông và dọc theo đường giới
tuyến các chùa.Tấn công thẳng vào mặt trước của địch chẳng những tự gây tổn
thương hết sức nặng, mà điều sai lầm là ta không chú ý tới hai tác dụng cực
mạnh khác là hạm đội và vòng đai đại pháo kéo dài từ kinh Avalanche đến đồn
Caĩ-maĩ mà ta sẵn có. Vả lại, chắc chắn quân địch, khi yên trí trong vòng thành
phòng thủ, sẽ chống trả đến cùng; và còn có thể dựa vào cách tổ chức từng khu
công sự riêng trong doanh trại của họ mà tăng sức kháng cự lên thành bốn. Còn
tấn công phía bên phải thì điều này không thể đặt ra được.
Hậu tuyến của Kì hòa cũng mạnh như tiền tuyến vậy. Cũng
phải nghỉ đến chuyện bố trí chiến thuật mà ta ta đặt ra không lọt qua khỏi sự
tiên đoán của vị nguyên soái An nam.
[2] Nòng súng có khía bên trong gọi là đường khương tuyến
giúp viên đạn khi bắn ra sẽ xoáy trong không khí, đi xa hơn và sức xuyên phá
mạnh hơn, (ghi chú của người dịch).
[3] Mỗi chân dài khoảng hơn ba tấc (0,3248m) (ghi chú của
người dịch).
[4] Trong nguyên bản là : comme une
bête fauve : (ghi chú của người dịch).
[5] Tác giả vừa tả Saigon buồn thảm
chẳng có gì xem ở chương II. Hóa ra :’’Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ’’ (
Kiều-Nguyễn Du), (ghi chú của người dịch).
[6] Trong khi đó các cỗ đại pháo An
nam vẫn còn dùng đạn tròn đúc bằng sắt, (ghi chú của người dịch).
[7] Arroyo Commercial: tạm dịch là
kinh Thương mại, người dịch không biết kinh này ngày nay gọi là gì, (ghi chú
của người dịch).
[8] Sông Cữu long ngày nay, (ghi chú
của người dịch).
[9] Rất có thể đây là các cây bình
bát, cùng một giống với mảng cầu, mọc hoang ở mép kinh, (ghi chú của người
dịch).
[10] Các kinh đều nối liền với hai
con sông khác nhau, vì thế đổ ra biển cũng bằng hai cửa khác nhau, mặt và trái
dùng ở đây luôn luôn chỉ bên mặt và bên trái thuận theo danh xưng dùng trong
chiến lược và hành quân, (ghi chú của tác giả).
[11] Tác giả viết là miao trong
nguyên bản, (ghi chú của người dịch).
[12] Chợ lớn là tiếng An nam, (ghi
chú của người dịch).
[13] Lorcha là chiến thuyền gốc Bồ
đào nha, nhưng vì nhu cầu phải kiểm soát một số quá lớn sông ngòi, nên được đem
xáp nhập vào lực lượng hải quân của ta. Các tàu lorcha có trang bị một khẩu đại
bác lớn trên mỗi tàu và phải mang cờ quốc gia của ta.
[14] Tôi trộm nghĩ xây cất chùa miếu
có lẽ không phải là một cách khoe khoang của cải. Còn việc dững dưng với tôn
giáo thì có lẽ chùa chiền khang trang rộng rãi đã bị chiếm để làm đồn cho quân
viễn chinh hết rồi. Viễn chinh không phải chỉ có những viên đạn đồng phập vào
thân xác họ mà còn có những viên đạn bọc nhung đâm vào tâm hồn họ nữa. Biết bao
nhiêu người đã ngã xuống không phải chỉ để bảo vệ mảnh đất quê hương của mình
mà còn để gìn giữ truyền thống, tín ngưỡng và văn hóa của họ nữa đấy, (ghi chú
của người dịch).
[15] Có thể đây là hình tượng cá hóa
long và các con lân, (ghi chú của người dịch).
[16] Trong nguyên bản, tác giả viết
là dieux hoặc là dieux boudhiques, (ghi chú của người dịch).
[17] Hay lắm ! Nhận xét và mô tả rất
khéo,( ghi chú của người dịch).
[18] Ðại úy hải quân d’Aries được chỉ
định làm chỉ huy trưởng các lực lượng đóng tại Saĩgon.
CHƯƠNG IV
Ðề cương:
Sáng ngày 24 tháng hai,
quân viễn chinh đánh gẫy đường tuyến phòng thủ An nam tại địa điểm gọi là
Redoute. Phó thủy sư đề đốc Charner trực tiếp nắm quyền điều khiển quân lính.
Ðạo quân Pháp-Tây ban nha di chuyển vòng theo bên cánh rồi dàn ra ở hậu tuyến
của địch quân, chiều 24 tháng 2 đóng quân ngay trên đường tháo lui của địch.
Vào bốn giờ sáng, kèn báo hiệu tập
họp chào cờ. Trời còn tối; cũng như các nước nhiệt đới khác, trời chỉ bắt đầu
sáng vào khoảng sáu giờ. Trong đêm tối các toán quân mò mẩm đứng vào vị trí của
mình. Trước khi lên đường, quân sĩ được uống cà phê và nhận một khẩu phần rượu
mạnh. Túi đeo lưng đã chuẩn bị xong từ chiều tối hôm qua. Trong túi có tám ngày
lương khô và hai khẩu phần thịt nấu sẵn .
Năm giờ sáng, tất cả các toán quân
đều đến vị trí dọc theo đường các chùa. Ðề đốc và đại tướng de Vassoigne dẫn
đầu đứng gần cổng đồn Caĩ-maĩ, một nhóm nhỏ lính bộ người Phi châu được phái
làm lính bảo vệ. Kế đó là lính bộ Tây ban nha, tiếp theo là hai đại đội lính bộ
nữa. Pháo binh cắm trại tại Caĩ-maĩ tập họp thành hàng dọc theo thứ tự như sau:
6 ổ súng cối miền núi, hỏa tiển, 3 đại pháo 4 phân nòng có khía, 4 đại pháo 12
phân nòng có khía. Bộ binh bố trí trên đường cái theo thứ tự như sau: lính đánh
bộ, công binh vác thang; thủy quân xung kích vác thang và chiến cụ linh tinh;
thủy quân đổ bộ; thủy quân bộ chiến. Tiếp theo nữa là tùy tùng và ban cứu
thương. Một đoàn gồm 600 cu li người Tàu khuân vác, 100 thú vật chuyên chở giữ
vị trí dài dọc theo đường Jajareo, đường này nằm chắn ngang và thẳng góc với
đường các chùa. Cách xắp xếp như thế tránh cho quân lính khỏi gặp trở ngại khi
di chuyển.
Năm giờ rưỡi, đoàn quân bắt đầu
chuyển động lên đường. Trời bắt đầu sáng, khí trời còn mát; bụi bặm, nhờ hơi ẩm
ban đêm lắng xuống, lại dấy lên mù mịt. Các toán quân dẫn đầu đổ xuống ruộng và
tiến về hướng đồn Redoute, đồn nằm ở cuối tuyến phòng thủ phía tây của quân
địch. Phía trước đoàn pháo binh thì có một đại đội lính bộ phân tán mỏng làm
quân biệt kích; pháo binh nhờ đường đã được phan bằng phẳng từ chiều hôm trước
nên bố trí không gặp khó khăn gì. Các chùa Barbet, Clochetons, Caĩ-maĩ đã bắt
đầu bắn suốt một giờ rồi. Tiếng gầm thét của các khẩu đại pháo át hết các tiếng
động khác và bao trùm toàn vùng mặt trận Quân địch cũng kéo nhau giàn ra các
đường phòng ngự, ồn ào chuẩn bị chiến đấu. Từ vị trí cao trên đồn, ta có thể
quan sát địch quân bố trí. Tiếng chiêng và tiếng rít đặc biệt rất dễ nhận phát
ra từ súng của họ chỉ nghe thấy ở khoảng trống giữa những tiếng nổ do các cổ
đại pháo nòng 30 có khía của ta; súng của họ có nòng nhỏ và làm bằng sắt. Các
sĩ quan từ Saĩgon lên, tập họp ở đồn Caĩ-maĩ, tiến nhanh trên đường cái, họ chỉ
kịp chào và bắt tay vội vả những đồng đội đi ngang.
Ðoàn quân dàn trận đã gần xong: đại
pháo do ngựa kéo trải rộng ra để bố trí trong ruộng và tiếp tục tiến lên, khi
chỉ còn cách địch độ một ngàn thước liền tản ra thành từng đội, kéo chếch qua
phía trái, bất thần ngừng lại và bắt đầu nhả đạn. Sức rung chuyển sắt thép, kéo
dài, rít lên làm điếc tai và vang rền cả cánh đồng. Các cổ pháo nòng 12 chỉa
thẳng vào đồn Redoute, các cổ pháo nòng 4 và súng cối vùng núi cũng như hỏa
tiển hướng vào hai góc đồn hai bên. Ðường bắn được điều chỉnh nhanh chóng và
trở nên thật chính xác. Mặc dù tuyến phòng thủ An nam yếu kém vì súng nhỏ và
các điều kiện quân sự thua thiệt, họ vẫn đốt khói để che và gia tăng sức kháng
cự. Súng bắn rát, nhưng nói đúng ra là phía địch đã tận lực chiến đấu, chớ
không phải về phía ta.
Pháo binh lâm trận giúp cho bộ binh
nghỉ tay lấy lại sức: quân tiến lên từng đại đội xếp theo hình dọc. Lịnh ra
phải dàn quân khép lại khoảng cách còn một nữa. Các cổ đại pháo miền núi nhẩy
chồm lên và tiến tới, bất chấp chướng ngại như gò và mồ mả, các cỗ đại pháo dàn
ra chỉ cách địch quân có 500 thước. Các cỗ pháo nòng 4, hỏa tiển, đại pháo nòng
12, tiếp tục luân phiên điều động tiến lên từng chặn một. Bộ binh tiến lên thêm
một chặn nữa. Dọ thám tối hôm trước cho biết có một vùng đầm lầy nằm phía bên
trái gần đồn Redoute. Vì thế bộ binh tiến lệch về phía mặt để tránh, nhưng lại
tránh quá xa. Lớp sau lại tiến theo nên gây ra chậm trể. Sau khi pháo binh bắt
đầu khai pháo trở lại thì một lúc sau bộ binh mới giàn xong vị trí. Hai mũi
tiến quân được thành lập, bên mặt là công binh, lính đánh bộ, lính đánh bộ
người Tây ban nha, thủy quân đánh bộ; mũi tiến quân này do đại đội trưởng
Allizé de Matignicourt chỉ huy. Mũi tiến quân bên trái gồm có thủy quân đổ bộ
do đại úy hải quân Desvaux và đại úy công binh Gallimard chỉ huy.
Trong khoảng cách năm trăm thước, đạn
của đối phương rơi tới tấp vào quân Pháp và Tây ban nha. Ðường bắn của quân An
nam chính xác, đúng cả hướng và cả chiều cao. Trong đồn, các cổ pháo, súng nhỏ
cầm tay, súng trường bắn ra xối xả. Mỗi khi phó đề đốc, bộ tham mưu và quân hộ
vệ của ông dừng lại chỗ nào thì trong thành nhắm vào chỗ đó bắn ra rất rát và
mảnh liệt. Pháo binh chịu trận trước tiên; chỉ trong vài phút, nhiều pháo thủ
và ngựa bị trúng đạn. Khoảng cách quá ngắn trước mặt địch làm giảm ưu thế của
khí giới có tầm bắn xa và chính xác của ta; mặc dù tầm đạn của ta chính xác,
liên tục và ưu thế hơn, nhưng sức kháng cự của bọn An nam không bị đánh tan
cũng không nao núng chút nào. Thương vong của ta tăng lên; đại tướng de
Vassoigne, đại tá Tây ban nha Palanca Gutierrez, chuẩn úy Lesèble và thượng sĩ
Joly bị thương nặng. Thủy sư đề đốc bèn trực tiếp cầm quân và ra hiệu lịnh. Các
hàng quân chuyển động. Các cổ súng cối miền núi bắn yểm trợ hai bên cánh. Một
đại đội lính đánh bộ xung kích tiến lên bắn loạn xạ để dẫn đầu cánh quân bên
phải; một đại đội thủy quân đánh bộ dùng súng nhẹ dẫn đầu cánh quân bên trái.
Lính công binh lên trước, tiếp theo sau là quân Tây ban nha, bộ binh, thủy quân
đánh bộ. Vì phải để dành sức cho phút chót nên tất cả chỉ chẩm rải dấn lên,
địch bắn xối xả, quân tấn công tiến xéo qua bên phải để khỏi rơi vào vùng đầm
lầy. Còn khoảng chừng ba mươi thước, một tiếng thét vang ‘’Hoàng đế muôn năm!’’
vụt nổi lên át hết tiếng súng; quân lính ở hàng đầu nhào lên; tuy bị tầm đạn
của súng hỏa mai ngay trước ngực nhưng họ vẫn cố vạch chà tre chằng chịt để
bước từng bước trên miệng các hầm chông, nhảy qua bàn chông, nhào xuống hố, phá
chà gai để tiến tới, tay và mặt đầy máu, quần áo rách tả tơi nhưng vẫn tiến đến
bờ thành của địch một cách vinh quang.
Cánh quân bên trái cũng can trường
phá gẩy tuyến phòng thủ phía ngoài của địch. Dẫn đầu là thủy binh đột kích. Họ
tự mang lấy thang, câu liêm có cán, sào móc, lựu đạn: bọn cu li mang thang đều được
thay ở trạm tiến quân thứ hai; việc mang thang kể như là một công tác danh dự.
Không có chỗ nào phải chạm trán xáp lá cà, khi các quân lính Pháp đầu tiên nhẩy
được vào bên trong, trên các các bệ bắn phía sau tường, thì họ thấy bọn An nam
thối lui mang theo giáo mác, súng lớn và súng tay của họ. Quân An nam lùi lại
một bước thế thôi, gần như thản nhiên, giống như những người thợ đang làm việc
rồi ngưng tay; thật quả là lạ lùng, mặc dù tình thế cấp bách vì cả một đạo quân
đang trèo lên tường để tràn vào; chỉ có một số thật ít bỏ chạy mà thôi. Trong
mấy phút sau là họ rút về phía đại quân có cờ đuôi nheo phấp phới bên trong
thành Kì hòa. Trong trận đánh ngày 24 tháng 2 này, quân An nam chấp nhận đối
đầu bằng đại pháo với ta tuy họ yếu kém nhưng không thấy lòng can trường của họ
bị sứt mẻ hay nao núng một chút nào cả: nhiều xác chết rải rác dọc theo tường
phòng thủ cho thấy hiệu quả của súng nòng có khía của ta. Nhưng khi quân ta
xung phong, tiến thẳng vào họ, thì họ thối lui nhưng không chạy, khoảng cách vẫn
còn nhìn thấy nhau[1] Chuyện này cũng thấy ghi trong các phúc trinh về những
trận đánh trước đây ở Saĩgon và Touranne.
Thiếu úy Thénard của công binh và
trung úy hải quân Berger là hai người trèo lên tường thành trưóc nhất tại hai
điểm phòng thủ bị đánh gẫy: một do đạo quân bên phải và một do đạo quân bên
trái.
Trận này làm ta thiệt hại 6 người
chết và 30 bị thương, trong số này có một đại tướng, một đại tá, một chuẩn úy
và một thượng sĩ. Một người cu li công binh bị giết và một bị thương. Sau cùng
cu li công binh cũng tiến tới chướng ngại chót, theo đúng với giao ước thường
ký như vậy ở bên Tàu, mục đích là dành cho quân đánh thuê một chút danh dự.
Pháo binh có nhiều ngựa và la chết hoặc bị thương. Pháo binh hành quân trên một
địa thế rất khó khăn, lầy lội, giếng, hố, tường chắn rải rác, chướng ngại nhân
tạo đủ loại; địa thế như vậy cực kỳ thuận lợi cho quân đánh bộ, nhưng lại bất
tiện cho đại pháo dùng ngựa kéo, nhất là khi thụt lùi không phải
Vào ba giờ chiều thì cho thổi kèn báo thức và thúc quân lên đường. Một
đại đội thủy binh bộ chiến đặt ở lại với một ổ súng cối miền núi để giữ đồn
Redoute ta vừa chiếm: làm hậu quân và giúp quân ta vẫn tiếp tục dựa vào chùa
Caĩ-maĩ. Quân sĩ lên đường: pháo binh ở giữa xếp theo hàng dọc thứ tự từng giàn
pháo một; bộ binh chia ra thành từng phân đội ngắn, xếp thành hai hàng dọc, bên
phải một hàng, bên trái một hàng. Mặt đất dẽ cứng, phẳng, phủ một lớp rêu thật
mỏng, xe chở đạn và xe quân nhu lăn bánh trên mặt rêu không gặp khó khăn gì cả,
chân bước trên rêu cũng thấy thích thú [3] Quân ta tiến lên theo bên hông, bọc
hậu phía sau quân địch, giữ cách xa, lọt ra ngoài tầm bắn của họ. Ðoàn quân
đang đạt mục tiêu dự trù từ trước: tức tối nay phải cắm quân ở mặt tây thành An
nam, chắn ngang đường rút lui của họ.
Khoảng bốn giờ, một toán quân địch,
tầm quan trọng thật khó đoán, bất thần xuất hiện từ khu rừng chồi phía bên phải
của ta; quân địch có nhiều voi trận, trương cờ đuôi nheo rầm rộ. Quân An nam
muốn thử chận đường tiến của ta hay chỉ muốn di tản đem dấu bớt voi trận, xe
quân nhu và quân trang cồng kềnh? Trong suốt trận chiến, biến cố này vẫn còn là
một bí ẩn hoàn toàn, không ai biết được chủ đích của quân An nam. Họ tiến đến
gần, nổ súng với bộ binh ta. Chỉ huy trưởng liền cho 3 ổ súng cối miền núi, ba
trọng pháo nòng 4 tiến lên: sức bắn trả có hiệu lực ngay. Ðịch quân dừng lại,
một phần rút vào trong thành, một phần đóng quân bên ngoài dựa vào tường thành
của họ.
Quân ta buộc phải tạm dừng quân vì
trận đụng độ nhỏ này, nhưng lại tiếp tục tiến lên. Khoảng sáu giờ chiều thì đến
địa điểm cắm quân, tức là ngay sau thành Kì hòa. Nơi đây đồng ruộng không còn
hoàn toàn trống trải nữa: có vài chòm cây rải rác, rừng chồi cũng rải rác một
vài nơi. Một ngôi làng gồm vài căn nhà đổ nát dựa vào một đám cây cách thành
địch chừng hai cây số. Thủy sư đề đốc đặt đại bản doanh tại một trong những căn
nhà bỏ hoang trong ngôi làng này. Ngay lúc đó thì đại pháo trong thành Kì hòa
cũng bắn ra vài phát hướng về phía làng. Một viên đạn xuyên ngang mái nhà đại
bản doanh, đồng thời súng nhỏ cũng bất thần bắn tới tấp từ khu rừng chồi vào
các lều cắm quân của ta. Bộ binh hướng về phía bìa rừng để chống trả loạt tấn
công bất ngờ này. Lính Tây ban nha, tiếp theo là đại đội thuộc tàu Renommée và
hai đại đội khác nữa tiến lên đánh xung kích. Ngựa kéo đại pháo đã tháo cương,
vì thế phải dùng tay kéo hai khẩu pháo nòng 4 đặt vào vị trí. Quân địch thì
không thấy đâu hết mà súng cứ xối xả thật can trường, suốt nữa tiếng đồng hồ.
Phải mất một lúc lâu mới di tản hết bộ binh đến một vị trí xa khu rừng để khỏi bị
đánh bất ngờ. Pháo binh trở nên quá lộ liễu, liền đưa vài pháo thủ giữ vị trí
xung kích: công binh cũng dàn ra. Trong khi đó ta cũng đã càn quyét xong khu
rừng và cuộc nổ súng cũng im. Lính Tây ban nha, thủy quân, quân đánh bộ và các
đạo công binh trở về đóng bên trong trại. Vài nhóm nhỏ lo nấu ăn. Phần còn lại
thì quá mệt vì vừa phải chạy tới chạy lui đánh nhau, dọn trại, chẳng còn hơi
sức đâu mà thổi lửa nấu ăn; họ đành ăn lương khô và uống nước lã, cũng may là
cạnh trại có nhiều chỗ lấy nước. Thế cũng xong buổi ăn tối. Ăn xong mạnh người
nào người nấy nằm dài ra đất._Rồi ngày mai đây, các khẩu thần công từ các hạm
đội, các cỗ súng nòng có khía từ các chùa sẽ nhả đạn và ta sẽ nghe những tiếng
nổ long trời. Phần chúng ta thì sẽ xông thẳng vào quân thù, hai đạo quân xáp
trận, quân lính hai bên đánh xáp lá cà.
[1] Tuy thua nhưng tức không chịu chạy,
(ghi chú của người dịch).
[2] Một bàn nâng của cổ trọng pháo 12
bị gảy, hai đầu ốc bu-loong bị bung mất, vít điều chỉnh hướng bắn bị hư. Bàn
nâng của cổ trọng pháo được thay ngay, bu-loong được xiết trở lại, nhưng vít
điều chỉnh đường nhắm phải khó khăn lắm mới sửa được. Chỉ còn biết cầu khẩn cho
cổ trọng pháo 12 này sẽ gặp địa thế khá hơn ,vì trận chiến ngày mai sẽ hứa hẹn
thật nhiều gay go. (Trích phúc trình của trung tá pháo binh đánh bộ Cruzat).
[3] Ði đánh nhau nhưng vẫn thấy thích
thú khi bước trên rêu, hoá ra con người cũng giống nhau và thường gặp nhau ở
những chỗ nhỏ nhoi như vậy, (ghi chú của người dịch).
(Tiếp theo)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét