Lịch sử cuộc viễn chinh Nam Kỳ năm 1861
(Histoire de L’EXPÉDITION DE COCHINCHINE en 1861)
(Tiếp Theo)
CHƯƠNG II
Ðề cương:
Chiến địa và tình
trạng hai phe đối thủ - Cơ bản địa lý của đế quốc Annam - Tầm quan trọng quân
sự và chính trị của thành Ki-hoa [1].
Ðế quốc Annam gồm ba xứ mà trước kia hoàn toàn riêng biệt:
- Xứ Bắc K5], xứ Bắc Kỳ còn gọi là Xứ bên ngoài, và theo
một tài liệu Hòa Lan thì phải gọi là Annam phía Bắc [6];
-Xứ Trung K10];
-Nam Kỳ miền dưới [11], mà nhiều tài liệu ghi sai là tỉnh
Saĩgon, miền này các bản đồ xưa đều ghi là Cao Miên [12]. Thật vậy, trước cuộc
chinh phục của các Chúa nhà Nguyễn [13], thì vùng đất này thuộc lãnh thổ của
vương quốc Cao Miên.
Ngoài ra đế quốc Annam còn gồm một số nước bảo hộ phải
triều cống. Ðây là tình trạng đế quốc Annam bắt đầu từ năm 1802 cho đến nay.
Một dãy núi kéo dài 800 dặm, tiếp nối từ vùng núi non Tây
Tạng, không xa cao nguyên Khou-khou-noor, đổ dài xuống phía nam song song với
vùng biển Tàu, phân định vị trí hai vùng vương quốc xưa nhất của đế quốc Annam.
Một bên là núi và một bên là biển làm ranh giới thiên nhiên cho hai vương quốc
Annam phía Bắc và Annam phía Nam; nếu dùng danh xưng không được đúng lắm nhưng
thông dụng hơn thì gọi là Bắc Kỳ và Nam Kỳ. Bắc Kỳ là một vùng đồng bằng rộng
lớn, phù sa, phì nhiêu và phong phú nhờ sông Sang-koi hay Song-ca [14] và các
phụ lưu bồi đắp. Nam Kỳ là một dải đất chỉ rộng từ 30 đến 50 dặm, kéo dài từ
bắc xuống nam; dọc theo một dãy núi bao bọc nằm bên phía tây. Nước đổ ra biển
bằng các sông ngòi ít ngoằn ngoèo, nước chảy cuồn cuộn, từ hướng tây ra hướng
đông. Ðây là dãy núi xa nhất về phía đông trong số 5 dãy núi lớn tạo ra các
vùng thung lũng rộng là xứ Miến Điện, xứ Xiêm La, xứ Cao Miên và xứ Annam. Núi
trải dài từ vĩ độ 11 thành từng vùng thấp dần theo một đường uốn cong bắt đầu
từ núi Vi và đổ ra sát tới biển, tạo ra một bức trường thành rộng lớn và một
ngọn đèo, chỉ chừa lại một dải đất hẹp là Phan-thiet [15], làm ranh giới thiên
nhiên giữa Nam Kỳ miền dưới và Nam Kỳ miền trung.
Trở xuống phía tây nam vẫn còn các núi đồi nhỏ thưa thớt,
nơi đây có thể coi là vùng chuyển tiếp của ranh giới Nam Kỳ miền trung: sông
ngòi ít ngoằn ngoèo, vài kinh rạch, thiên nhiên hoặc do người đào, chảy giữa
các vùng núi và đồi nhỏ. Càng xuống dần phía nam thì chỉ thấy trước mặt một
vùng đất mềm gồm cát, bùn và 5 con sông lớn cùng các kinh rạch thiên nhiên chia
cắt thành hàng ngàn đảo. Cát thì được mang từ biển vào [16], bùn đất thì do
sông Cambodge [17] bào mòn những vùng núi non chảy ngang đem bồi đắp trong mùa
nước lũ. Trong quá khứ chắc rằng biển đã bao phủ cả miền Nam Kỳ ngày nay. Một
vịnh hình vòng cung nằm lọt giữa hai vùng núi là Ha-tien[18] và cap
Saint-Jacques[19]; sông Don-naĩ chỉ là một dòng thác; hai nhánh sông Vaĩ-co [20]
tạo ra hai con sông riêng biệt. Tỉnh Long-hô (Vinh-luong) [21] lúc đó chưa
thành lập; các tỉnh Gia-dinh [22], My-th25] chứng minh cho thấy vùng đất này
trước kia do sông ngòi và biển tạo ra. Cát dồn lại thành cồn dọc bờ sông hòa
với phù sa tạo ra ruộng đồng phong phú. Sự hình thành đất đai do sông ngòi vẫn
còn đang tiếp diễn tại vùng này của xứ Annam, người Tàu gọi nơi đây là xứ sông
ngòi; bùn và cát hòa lẫn nhau không phải là nước cũng không phải là đất. Những
người Bắc Kỳ mạo hiểm đến đây dùng ván để trườn và lướt đi trên bùn.
Hai dãy núi kéo dài ra tới biển tại hai địa điểm là
Phan-thiet và Ha-tien, giữa hai dãy núi là sông Cambodge. Biển là ranh giới
thiên nhiên rõ rệt của xứ Nam Kỳ miền dưới. Tiếp giáp với xứ của người Mọi và
xứ của người Chàm [26], nơi đây biên giới kém rõ ràng hơn. Khi nhìn vào bản đồ
6 tỉnh Nam Kỳ miền dưới, từ bờ biển hiện nay cho đến vĩ độ Tram-ban [27], người
ta có thể nhận thấy biển vẫn còn giữ lại vết tích trong vùng đất phù sa; toàn
vùng chỉ là đảo và chung quanh thủy triều dâng lên hay rút xuống đều nhận thấy
rõ rệt. Tàu bè lưu thông như trên biển rộng; nước sâu, không nguy hiểm, các
đường di chuyển được kẽ vạch rõ ràng.
Năm con sông lớn chảy ngang Nam Kỳ miền dưới đổ ra biển
bằng một trong những cửa sông rộng lớn nhất thế giới: Năm con sông này gồm có
sông Don-naĩ, sông Don-trang [28], sông Soi-rap [29], sông Vaĩ-co, sông
Cambodge. Sông Cambodge bị ngáng bởi nhiều cồn chỉ có tàu bè đáy sâu dưới 14
chân [30] mới di chuyển được. Hướng và độ sâu của kinh rạch thay đổi theo mùa
gió. Bờ biển thấp, cây cối xanh tươi và bằng phẳng; không một ngọn cây nào vượt
cao hơn các cây đước, cây mắm để có thể dùng làm điểm chuẩn cho tàu bè định
hướng. Khó khăn thiên nhiên cản trở lưu thông của tàu bè lớn nhưng không gây
khó khăn gì cho các thủy thủ Annam, Xiêm, Tàu và Nhật. Họ lái các tàu ven bờ
thật hay, tàu của họ có đáy rất cạn. Các nhà viết sử người Hòa Lan chép rằng
sông Cambodge đổ ra biển bằng 3 cửa: cửa Umbequamme, danh xưng này theo tiếng
Pháp có nghĩa là “bất tiện” Incommode, cửa Nhật Bản và cửa Saĩgon. Chiến tranh
Nam Kỳ giúp thêm cho việc nghiên cứu địa lý thủy học của sông Cambodge; hiện
nay người ta biết rằng sông Cambodge có 7 nhánh chính. Umbéquamme [31] là cửa
đổ ra biển của một nhánh sông tách ra từ sông chánh gần Chau-doc [32], sông
Nhật Bản gồm hai nhánh bắc và nam My-th35], xương rồng đầy gai tạo thành các
bụi rậm mà người Âu châu không thể chui qua lọt, nhưng đối với người Annam thì
họ trườn, bò và rình rập dễ dàng trong đó. Nhiều chỗ nước ăn sâu vào bờ kinh
tạo ra những chỗ phục kích bất ngờ: đây là những nhánh kinh lấn sâu vào đất,
nằm song song với kinh chánh, cửa vào thì có dây leo rũ xuống che kín; các hóc
kẹt thiên nhiên đó có thể làm chỗ núp cho một người, một chiếc ghe hay một nhóm
quân nhỏ: không có chỗ nào có thể làm chỗ phục kích chắc chắn hơn những chỗ như
vậy. Kinh rạch tạo cho chiến tranh Nam Kỳ một bộ mặt thật riêng biệt. Lần đầu
thấy những bờ kinh như thế, người ta tưởng dễ, thử phá gai lội bùn để vượt
ngang, nhưng rồi sẽ bị ngập trong lầy, mặt mày rách nát, trở nên bất lực vì cỏ
vừa mềm vừa cao quấn chặt; người ta tự hỏi không biết phải làm thế nào để chống
lại quân phục kích, họ thì coi các chướng ngại này như không có. Các pháo hạm
nhỏ bằng sắt là linh hồn của trận chiến Nam Kỳ, nếu không hữu dụng ngay trong
khi hành quân, thì cũng rất ích lợi về sau là như vậy.
Quang cảnh của Nam Kỳ thật là bằng phẳng, buồn thảm, giống
như tất cả các xứ đồng ruộng khác. Khi có một lỗ hở do cọp, nai đi ngang còn
lưu lại thì tầm mắt mới vượt ra khỏi hai bên bờ kinh, nhưng cũng chẳng thấy gì
lạ ngoài những cánh đồng xanh tươi đôi khi gợn sóng như mặt biển. Ðồng ruộng là
đất Phật, chẳng có gì buộc chặt tâm hồn với đất đai. Thiếu chiều sâu của sự
sống. Ðất nhường chỗ cho bùn; chỉ có tư tưởng mới có thể lướt đi trên vùng xanh
tươi vô tận này mà thôi; xác thân sẽ lún chìm tại chỗ. Những cọng cỏ muôn thuở
nối tiếp nhau, từng cọng một đều giống hệt như nhau. Trước cảnh sình lầy và
bằng phẳng, nghị lực mềm yếu, chỉ có linh hồn tự vượt ra mà thoát đi. Quả thật
là nơi phải gọi là cảnh toàn phúc tối thượng, xin tạm mượn chữ như vậy, - cái
thoát tục vẹn toàn nhất, cái chấm dứt của buồn thảm, của nhớ nhung [36]. Tuy
vậy, về phía bắc, khi đến gần một trong hai vùng núi, đất đai trở nên cao hơn,
bờ sông cũng dốc hơn, rừng chen kẽ với ruộng đồng. Trong rừng có nhiều thứ dùng
làm thuốc tàu, giá bán đắt hơn vàng.
Kinh rạch nối liền 5 con sông lớn ở Nam Kỳ tạo ra vô số
đường di chuyển vô cùng hữu ích cho thương mãi, chiến tranh mà cũng tiện lợi
cho đạo tặc nữa. Mỗi thị trấn đúng ra phải là một trung tâm vừa quân sự vừa
thương mại, và nếu đúng như thế thì sự đánh chiếm của ta sẽ gọn gàng hơn; nhưng
thật ra thì hai tánh cách này tách rời hẳn nhau: Saĩgon là trung tâm quân sự,
My-thô là trung tâm thương mại. Các ghe thuyền của người Nhật, người Tàu, người
Annam, người Xiêm có đáy cạn dễ di chuyển trên sông, nhờ vào địa điểm gần nơi
sản xuất gạo, kinh lạch lại dồn hết vào sông Cambodge, thêm vào truyền thống
của dân chúng địa phương từ bao nhiêu thế kỷ, tất cả góp lại làm My-thô trở
thành trung tâm buôn bán lớn nhất của Nam Kỳ miền dưới trước khi người Âu châu
tới đây. Saĩgon, dựa vào thành lũy và vị trí nằm chắn ngang các đường ra Huế,
lên Cao Miên và xứ Mọi đã trở thành trung tâm quân sự và hành chính của cả sáu
tỉnh. Hai trung tâm thương mại và quân sự là Saĩgon và My-thô dựa vào nhau bằng
đường thủy vận; đó là con kinh Tàu [37] mà tầm quan trọng chiến lược phải kể
vào bậc nhất.
Saĩgon, nơi trước đây có trại binh nhỏ của Pháp và Tây Ban
Nha bị phong tỏa, không hẳn là một thành phố theo đúng nghĩa của Âu châu.
Saĩgon cũng không phải vị trí có thành lũy kiên cố, có tầm ảnh hưởng trải rộng
như trước đây, vì đang bị ta phong tỏa và thành lũy thì hư nát, thành mới hiện
nay kém hẳn tầm quan trọng [38]. Nơi các cơ xưởng đóng tàu, vào năm 1819, trước
khi có giặc phản loạn, người ta còn thấy hai thuyền chiến lớn theo kiểu Âu châu
và 190 thuyền chiến dùng chèo. Thành quách rộng lớn trước kia và cơ xưởng đóng
tàu không còn vết tích gì nữa. Nhiều lắm là hai bên bờ sông Don-naĩ còn thấy
vài cơ sở có tính cách tạm thời, là những vớt vát thu góp lại sau khi Touranne [39]
bị ta chiếm đóng. Dân số, ngày xưa lên đến 150.000 người, đã rút xuống một cách
đáng kể. Du khách đến Saĩgon sẽ nhận thấy trên hữu ngạn sông [40] một con đường
đứt đoạn và hang lỗ. Nhà cửa phần lớn bằng cây, lợp lá dừa nước. Một số ít làm
bằng đá có mái lợp ngói đỏ làm vui mắt và an tâm hơn. Tiếp đó là những mái chùa
thật cong; kinh Tàu và hai kinh phụ, mặt nước phẳng lỳ, dùng làm bến cho thuyền
bè trong xứ; vì bối cảnh chung quanh nên nhìn thấy kinh Tàu như ngắn hẳn lại;
một nhà kho xiêu vẹo dùng làm chợ, mái hình như sẵn sàng đổ xuống phía bên phải.
Hậu cảnh là những chòm cau có vẻ hoà hợp với bầu trời nóng bức; cây cối khác
không có gì đặc biệt. Hàng ngàn ghe xuồng chen nhau ở bờ sông tạo ra một thành
phố nổi nho nhỏ. Người Annam, người Tàu, người Ấn, vài người lính Pháp, lính
Tagal tới lui nhộn nhịp, thoạt tiên tạo ra một quang cảnh ngoạn mục. Nhưng sau
đó thì chẳng có gì để xem ở Saĩgon, họa chăng là dọc theo bờ kinh Tàu, có nhiều
nhà bằng đá khá sạch sẽ và vài nhà xưa tránh khỏi giặc phản loạn tàn phá. Trong
các khu nhiều cây cau đôi khi có nông trại của người Annam cất theo lối ba gian
hai chái, rất thanh lịch và kín đáo; xa hơn, nơi khu đất cao là nhà của vị chỉ
huy Pháp, của đại tá Tây Ban Nha, doanh trại của nho quan Annam; đại khái chỉ
có vậy. Con phố lầy lội và ổ gà, nhà cửa thưa thớt, hợp lại thành một quang
cảnh khá nghèo nàn, đó là Gia-dinh-thanh [41] mà ta gọi là Saĩgon [42]. Các
thành phố khác như Batavia [43], Singapour, Hong-kong cũng chỉ như vậy thôi
trước khi người Âu châu đến. Có thể rồi một ngày nào đó một thành phố đẹp đẽ và
đông đúc sẽ mọc lên ở vị trí của cái làng Annam bị trận chiến diệt chủng tàn
phá mà ta đang thấy hôm nay[44]. Trên vùng đất cao là vòng thành cũ do người
Nam Kỳ xây năm 1837[45]. Hố sâu quanh thành chỉ bị lấp ở một vài chỗ; chỉ cần
vét lại là xong. Nhà cửa bên trong thành đều đổ nát. Bụi trắng tạo thành hai
lằn dài trắng xóa, ở giữa là lối đi. Ðó là gạo bị đốt cháy từ năm 1859 mà đến
nay vẫn còn cháy [46]. Lửa âm ỉ 24 tháng mà vẫn chưa tắt. Các hạt gạo, ở một
vài chỗ vẫn còn giữ nguyên hình dáng; nhưng thật ra đã hoá thành tro; gió hoặc
chỉ chạm nhẹ sẽ làm tan ra thành bụi. Truyền thuyết cho rằng một kho tàng rất
lớn còn nằm trong đống lửa lớn đó.
Thành phố Sài gòn nhờ vào vị trí địa lý và kinh tế chi
phối đã vượt qua nhiều khó khăn và mâu thuẫn về hành chánh gây ra từ quyền lợi
bất đồng giữa các phe nhóm. Saĩgon cũng đã khắc phục được những bất hạnh do
chiến tranh gây ra. Nhờ nằm vào vị trí trung tâm nên từ Saĩgon đi Batavia,
Manille, Hong-kong và Canton thật là ngắn và tiện lơi. Gió mùa giúp liên lạc dễ
dàng với nước Tàu và nước Nhật; ta cũng biết rõ việc buôn bán của Nhật với đế
quốc Annam trước đây hết sức tích cực, thời đó cũng chẳng xa gì trước ngày có
sự hiện diện của quân viễn chinh. Những kẻ phiêu lưu người Âu châu ào ạt đổ đến
Saĩgon, bất kể luật lệ gì áp dụng đối với họ, họ cứ ở lại, chẳng qua vì miếng
mồi hám lợi. Người ta có thể nói rằng sáng kiến cá nhân có thể bù lấp cho những
gì mà nguyên tắc không thực hiện được hoàn hảo [47].
Ðại tá Victor Olivier [48] xây đắp thành lũy cho Saĩgon
ngay từ năm 1791; vị sĩ quan này là một trong số 20 người Pháp do Pigneau de
Béhaine, giám mục hiệu tòa d’Adran, đưa tới đây. Nhóm người này là số vỏn vẹn
thoát được từ một hạm đội 20 chiến thuyền và 7 trung đoàn quân Pháp đã bị toàn
quyền người Anh tại Pondichery cầm giữ trên đường kéo đến Nam Kỳ. Lúc bấy giờ,
hoàng đế Gia-long [49] đang tìm cách chiếm lại lãnh thổ của mình. Cũng chẳng
phải là khó hiểu khi hoàng đế Gia-long quyết định tăng cường hệ thống phòng thủ
Saĩgon, vì phòng thủ Saĩgon chính là kế hoạch chung chống giữ toàn thể Nam Kỳ
miền dưới. Vùng lãnh thổ này của vương quốc Annam, vì địa thế thiên nhiên bất
lợi, rất dễ bị người Xiêm La và người Cao Miên xâm chiếm, người Annam rất khó
chống giữ. Năm con sông lớn chảy dài trên toàn vùng tạo ra đường lưu thông giúp
quân xâm lược từ phía nam hay phía tây kéo đến để đánh. Người kỹ sư Pháp này đã
tìm cách giảm bớt yếu điểm thiên nhiên thật tài tình. Ông ta tìm một vị trí
trung tâm của toàn vùng, tức là thành phố Saĩgon, nằm trên bờ sông Don-naĩ, -
nói vậy thôi chớ ông ta cũng có thể chọn một nơi khác được - và từ nơi này có
thể đưa quân tăng viện nhanh chóng đến các điểm bị hăm dọa mặc dù sông ngòi cản
trở. Ðồng thời ông cũng xây dựng một vòng thành ngay tại Saĩgon, nơi giao điểm
của các đường tiến quân chiến lược, để tập trung người, lương thực, khí giới và
đạn dược. Thành Saĩgon hình vuông, mỗi mặt có hai chặng phòng thủ. Bảy mươi tàu
và một trăm ghe thuyền chuyên chở trong vòng 4 tháng được 60.000 tấn gạo cho
thị trường Hong-kong và Singapour, đem đến một số lời khổng lồ cho ta. Ðồn
Caĩ-ma [56], sân chùa có tường gạch chung quanh, tạm có thể phòng thủ được ngay.
Chùa cách xa các tuyến phòng thủ của địch. Chùa thứ hai là chùa Clochetons [57]
hoàn toàn trống trải và chỉ cách miệng đường hầm của địch có 400 mét. Ta liền
lấy ngay đất ở mồ mả chung quanh đắp tường phòng ngự. Ta không thấy quân Annam
đổ ra phòng ngự đường hố đã đào. Nhưng ngay ngày hôm sau bất ngờ nổ súng tủa
vào chùa giết mất một người và làm bị thương thêm vài người khác. Mấy nấm mồ ta
đã lấy hết đất, vì thế phải đi xa hơn và dùng bao để mang đất về; việc đắp
tường phòng thủ tiến triển chậm chạp, cực nhọc, lộ liễu không có gì che tránh
địch quân. Trong đêm mùng 3, rạng ngày mùng 4 tháng 7, quân Annam, ít nhất cũng
đến 2.000 người, yên lặng vượt khỏi thành, bao vây chùa, trong khi đó chùa chưa
biến hẳn thành đồn. Họ xông thẳng vào chùa, hò hét vang lừng. Hỏa pháo của địch
cũng bắn vào các chùa khác [58] để làm thế nghi binh và đồng thời cũng bắn vào
chùa Clochetons nữa, quân thì bắn xối xả vào người Pháp, người Tây Ban Nha và
người Annam trong đồn. Ðánh giết nhau suốt một giờ đồng hồ. Nhờ viện binh từ
Saĩgon kéo lên mới chấm dứt được trận chiến. Kẻ thù bỏ lại một trăm xác chết.
Quân lính của đồn Clochetons gồm có 100 quân Tây Ban Nha do trung úy Hernandez
chỉ huy, và 60 người Pháp do hai trung úy hải quân cầm đầu là Narac và Gervais [59].
Quân Annam không trở lại tấn công đồn Clochetons nữa; nhưng lại đào từ cửa hầm
đôi một đường hố khác bọc song song phía sau đường phòng tuyến của ta. Do đó
đồn Pháp và Tây Ban Nha lọt vào giữa hai đường hố phòng thủ của họ, chận hẳn
đường thông thương với cánh đồng phía sau thành Ki-hoa.
Ngày 16 tháng 10 năm 1860, đại tá hải quân d'Aries đưa
quân vào kinh Avalanche[60] (xem bản đồ 2) để thăm dò các đồn mà người Annam
xây cất ngay gần tuyến phòng thủ của ta, vì khoảng cách quá gần nên ta dễ bị họ
tấn công. Hai tàu nhẹ được dùng để tiến vào kinh, địch bắn rất rát nhưng vẫn
tiến được tới một công sự có rào cản canh giữ điểm chốt gọi là "cầu số ba
trên kinh Avalanche”. Bên ta không có người nào bị trúng đạn khi tiến tới đây;
nhưng cuộc mạo hiểm nhỏ này kém may mắn hơn trên đường về; trung úy hải quân
Hermand bị một viên đạn xuyên ngang đùi, vài người nữa cũng bị thương. Trung úy
Rieunier đo độ sâu và vẽ bản đồ của kinh dưới lằn đạn đại pháo từ các đồn bắn
ra; bản đồ này hết sức là bổ ích về sau.
Toàn thể cánh đồng nằm giữa kinh Avalanche và kinh Tàu bị địch bủa vây bằng các đường hố dài và nhiều đồn canh gác bố trí cách khoảng nhau. Bất cứ chỗ nào có kinh rạch hay đường xá là người Annam lập đồn tại đó. Thượng lưu sông Don-naĩ bị chắn ngang. Trái với điều người ta thường nghĩ, hậu tuyến của hệ thống đồn lũy do người Annam thiết lập cũng được phòng thủ vững chắc như phía trước và hai bên cánh. Nói như vậy để cho thấy hệ thống phòng ngự của địch cũng có tầm quan trong tương đương với thành cũ của họ trước kia, chế ngự toàn vùng, kiểm soát hết các đường về My-thô, Huế và Cao Miên.
Liên lạc giữa quân Annam và thành phố Tàu vẫn duy trì thường xuyên. Từ thành
Ki-hoa rộng lớn, đường hố tủa ra từ các cửa hầm giống như những cánh tay bóp
nghẹt trại quân nhỏ của đồng minh tại Saĩgon, làm cho trại này bất lực mặc dù
địch vẫn tỏ vẻ như bất động.
Thành Annam xây theo hình vuông, gồm năm khu riêng biệt
liên lạc với nhau bằng các đường tắt thông thương. Vòng đai của thành là tường
bằng đất có ụ bắn, cao 3 mét rưỡi, dầy 2 thước, có đục lỗ châu mai rất khít
nhau; lỗ châu mai phần nở rộng lại ngược bên so với các lỗ châu mai của các
thành quách Âu châu. Khí cụ phòng thủ được tích lũy ở khắp các mặt thành, nhưng
chính yếu hơn hết là mặt trước và mặt sau. Nhờ các trận đụng độ ở Touranne ta
biết khá đầy đủ các loại chướng ngại vật này. Thân tre và cả cành lá gai góc
được sử dụng hết sức khéo léo; thân thì làm cọc nhọn cắm trong các hầm chông,
hoặc cắm thành bàn chông, làm rào hoặc làm cọc; cành thì dùng bao phủ trên
tường thành tạo ra một lớp rào chằng chịt đầy gai.
Vùng đất tỉnh Gia-dinh chung quanh thành Annam là đất dẽ
và cứng, theo tin dọ thám do ta thu nhặt thì các giàn pháo chiến thuật có thể
di chuyển được trên vùng đất này. Mùa mưa mà ta phải ngưng các hoạt động chỉ
bắt đầu vào tháng 4. Còn về ảnh hưởng của thời tiết thì khó thẩm định rõ ràng;
quân lính của ta vừa mới bảo vệ Saĩgon xong trải qua biết bao nhiêu cực khổ;
đâu có thể quy hết cho thời tiết Nam Kỳ miền dưới là nguyên do duy nhứt gây
bệnh tật cho toàn thể quân viễn chinh.
Phong tục và tánh tình người Annam ta biết rất ít; người
Annam ta thấy ở Saĩgon có thân hình mảnh mai, và có lẽ thuộc vào một sắc dân
suy hóa [61]. Họ chỉ có thói hư tật xấu mà thôi, mưu mẹo, thích cờ bạc và hám
lợi. Nhưng thật ra có thể phỏng đoán tính tình người Annam đúng hơn qua sức
kháng cự của họ trong vài trận đụng độ đã xảy ra. Họ tỏ ra đủ sức tự vệ, nhất
là trong trận tháng 4 năm 1860. Ta cũng biết rằng chính phủ của họ rất nhất
quyết, kiên nhẫn, mạnh và đoàn kết; họ được huấn luyện để tuân lời một cách mù
quáng, tôn thờ một vị hoàng đế thiêng liêng quả quyết không bao giờ chịu lùi.
Mặc dù có vài sự xúi dục do Tây phương châm vào[62], nhưng mầm nổi loạn ngấm
ngầm từ lâu ở Bắc Kỳ vẫn không bộc phát. Quyền lực của hoàng đế Tu-duc [63] vẫn
nguyên vẹn. Chính phủ ta từ Pháp thông báo cho vị tổng tư lịnh biết rằng vua
Xiêm vừa tuyên chiến với đế quốc Annam và gởi ra trận 60.000 quân Xiêm. Ta sẽ
thấy về sau cái thực lực của đạo quân này.
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Tức Đại đồn Chí Hòa. – TN
[2] Nguyên bản là “Tonquin". – TN.
[3] Tức Giao Châu. – TN.
[4] Nguyên bản là “Pays aquatique". – ND.
[5] Tức "Ðàng Ngoài". - ND.
[6] Nguyên bản là “Annam septentrional". – ND
[7] Nguyên văn bản dịch là “Annam”. – TN
[8] Nguyên văn bản dịch là “Annam miền trung”. – TN
[9] Tức "Ðàng Trong". - ND.
[10] Nguyên bản là “Annam méridional". – TN
[11] Nguyên bản là “La basse Cochinchine". – ND.
Nguyên văn bản dịch là “Annam miền dưới”. – TN
[12] Nguyên bản là “Cambodge". – ND
[13] Vương triều đương thời. – TG
[14] Theo cha xứ Alexandre Rhodes. - TG.
1 lieue = 1 dặm, dài 4,445km. - ND.
“Sang-koi” có lẽ là “sông Chảy”, còn “Song-ca” là “sông
Cả”. – TN
[15] Tức Phan Thiết. – TN
[16] Trên phương diện Ðịa chất học không được đúng lắm,
cát vẫn do sông ngòi bồi đắp. – ND
[17] Trong nguyên bản tác giả ghi là sông Cambodge. Tên
ngày nay là sông Mekong, tác giả cũng dung tên sông Cambodge để chỉ chung cho
sông Tiền Giang và Hậu Giang. – ND
[18] Tức Hà Tiên. – TN
[19] Tức Vũng Tàu ngày nay. - ND.
[20] Tức Vàm Cỏ. – TN
[21] Tức Long Hồ và Vĩnh Long. – TN
[22] Tức Gia Định. – TN
[23] Tức Mỹ Tho. – TN
[24] Tức An Giang. – TN
[25] Tức Tây Ninh. – TN
[26] Nguyên bản là “Moys” và “Kiams”. – ND
[27] Có khi tác giả viết là Tram-bam hoặc Tran-bam (tức là
Trảng Bàng ngày nay), Vĩnh Long thì có khi tác giả viết là Vinh-luong hay
Vinh-long, chúng tôi xin giữ theo nguyên bản trong từng trường hợp. – ND
[28] Tức sông Đồng Tranh. – TN
[29] Tức sông Soài Rạp. – TN
[30] Ðơn vị đo lường : dài khoảng 0,3248m. - ND. Nguyên
bản ghi là “Pied”. – TN
[31] Đây có lẽ là cửa Định An của sông Hậu. – TN
[32] Tức Châu Đốc. – TN
[33] Sông Nhật Bản có lẽ là sông Mỹ Tho và 2 cửa sông nêu
trên có lẽ là cửa Đại và cửa Tiểu của sông Tiền. – TN
[34] Liễu và cây hoa trà (camellia: trong nguyên bản) là
các cây vùng ôn đới thường thấy ở Âu châu. – ND
[35] Nguyên bản ghi “aloes”. – ND
[36] Ðây có thể là tâm trạng của người tha hương đi chinh
phạt nơi xứ lạ quê người (?). Dân địa phương sinh ra ở đây, lớn lên ở đây, đều
thấy thương yêu và gắn bó với mảnh đất sình lầy của mình. Biết bao nhiêu người
đã ngã xuống những mảnh ruộng ngập sình để bảo vệ quê hương mình. Trên mảnh
ruộng bằng phẳng họ thấy gần gũi với nhau hơn, thương yêu nhau hơn. Thân xác họ
không lún xâu xuống bùn mà họ biết dùng xuồng để đi thăm hỏi nhau, giúp đỡ
nhau, không cần phải đắp đường xá gì cả. Linh hồn họ không cần lướt đi đâu hết,
vì tâm hồn họ gắn bó với từng cọng cỏ dưới chân họ, mặc dù từng cọng cỏ đều
giống hệt với nhau. - ND.
[37] Nguyên bản ghi “Arroyo Chinois”. – ND. Người Việt gọi
là “rạch Bến Nghé”. – TN
[38] Công trình mới xây dựng sau này. – TG
[39] Tức Ðà Nẵng ngày nay. - ND.
[40] Bờ bên phải kể từ nguồn đổ ra biển. - ND.
[41] Tức Gia Định thành. – TN
[42] Ðây là phác họa quang cảnh chung của Saĩgon vào tháng
hai 1861. Kể từ lúc ấy về sau, nhiều công trình được thực hiện, phần lớn do
công binh. Cánh đồng được tháo nước bằng mương rãnh. Ðường phố rộng, đẹp, như
những đường cái quan, tạo ra phố xá Saĩgon; chắc rằng nhà cửa rồi đây sẽ mọc
lên. Xưởng tàu được thành lập. Tuy thế những xây dựng này cũng không làm thành
phố thay đổi bao nhiêu khi nhìn từ dưới sông lên: cũng vẫn như xưa, không có gì
cho thấy đây là một thành phố; trước mặt chỉ là một phong cảnh bằng phẳng,
không có cá tính gì đặc biệt, sự hiện diện của người ở cũng chỉ thấp thoáng mà
thôi. – TG
[43] Tức Jakarta ngày nay. - ND.
[44] Viết theo báo le Cambodge annamite (Cao Miên Nam Kỳ)
năm 1835. - TG.
[45] Tức thành Phụng. – TN
[46] Xin mạn phép thêm vài chi tiết cho rõ ràng vì tác giả
cố ý viết một cách mập mờ. Thật sự người Pháp đã khởi đánh Nam Kỳ từ năm 1858.
Vào lúc quân Pháp và đồng mình dồn toàn lực để đánh Tàu thì de Genouilly đem
quân đánh Đà Nẵng, nhưng không có người nổi dậy tiếp tay như mong đợi. Vì không
đủ sức giữ Đà Nẵng, quân lính lại bị sốt rét, dịch tả, kiết lị, chết nhiều, de
Genouilly bèn đem quân vào đánh Sài Gòn, đốt kho gạo… Vì quân ít không đủ giữ
thành Sài Gòn nên ông ra lênh phá thành và xây đồn nhỏ hơn để phòng thủ và chờ
tiếp viện. – ND
[47] Câu này không liên hệ gì với đoạn vừa viết, chỉ là
câu chuyển để tóm tắt và giới thiệu đoạn tác giả sắp viết bên dưới, tiếc rằng
câu chuyển tiếp không được khéo lắm. Ðây là cách viết văn khá xưa. - ND.
[48] Victor Olivier de Puymanel (1768-1799), tên Việt là
Nguyễn Văn Tín, từng được chúa Nguyễn Ánh phong chức Cai đội, nên còn được gọi
là Cai Tín. Về sau, ông được phong chức Thuộc Nội Vệ úy, hàm chánh Tam phẩm, tài
liệu Pháp ghi thành "Colonel de la garde royale". – TN
[49] Đúng ra là chúa Nguyễn Ánh, vì mãi đến năm 1802 ông
mới lên ngôi Hoàng đế với hiệu Gia Long. – TN
[50] Tức thành Quy. Đúng ra thành có 3 lớp bảo vệ: ngoài
cùng là một lớp lũy bằng đất, một lớp hào nước, rồi đến mới đến tường thành
bằng đá. – TN
[51] Nguyên văn bản dịch là “tả ngạn sông”. Có lẽ dịch giả
nhầm. Nguyên bản ghi là “le rive droite” – TN
[52] Tức đồn Hữu Bình, còn có tên gọi là đồn Vàm Cỏ hay
đồn Giao Khẩu ngày nay ở vào khoảng dưới chân cầu Tân Thuận. – TN
[53] Cảng Saĩgon được mở cửa ngày 22 tháng hai năm 1860. –
TG
[54] Tức đồn Cây Mai. – TN
[55] Tức vùng Chợ Lớn ngày nay. – TN
[56] Nguyên bản ghi “La pagode des Mares". Tên tiếng
Annam không rõ, người Pháp đặt là chùa Ao vì có nhiều hồ và ao chung quanh?
Quân Pháp thường chiếm các chùa để làm đồn vì là các kiến trúc có sẳn, xây
gạch, cao ráo và rộng rãi. - ND.
Đây chính là vị trí thành Ô-Ma. Trước khi Pháp xâm chiếm
thì là khu vực có chùa Kim Chương và đền Hiển Trung. Vị trí ngày nay là khoảng
ngã tư Nguyễn Trãi - Cống Quỳnh, đại thể là nơi chùa Lâm Tế và văn phòng Bộ
Công an phía Nam ngày nay. Có lẽ tác giả muốn nói đến đền Hiển Trung, do đây là
nơi thờ các công thần thờ Gia Long chăng? – TN
[57] Tên của người Pháp đặt cho chùa và gọi là đồn của họ.
– ND
Trước chùa có tên gọi là chùa Kiểng Phước. Nay dấu tích
ngôi chùa đã không còn. Phỏng đoán vị trí của chùa nằm ở góc đường Lý Thường
Kiệt và Hồng Bàng ngày nay, gần bệnh viện phụ sản Hùng Vương. – TN
[58] Cũng do quân Pháp chiếm làm đồn. - ND.
Có lẽ tác giả muốn nói đến Phòng tuyến các chùa (Lignes
des pagodas) chăng? – TN
[59] Không thấy tác giả nói đến số thương vong của người
Pháp và người Annam theo Pháp trong đồn. - ND.
[60] Tức kênh Thị Nghè. – TN
[61] Nguyên bản ghi “Race abâtardie";
"abâtardie" có nghĩa là thoái hóa, suy đồi. Mạn phép xin độc giả chú
ý để so sánh với các đoạn tác giả viết về người Annam ở chương IX. – ND
[62] Có lẽ tác giả biết thừa Tây phương ở đây tức là nước
nào, ai xúi dục và xúi giục ai nổi dậy chống lại triều đình Huế, nhưng tác giả
không muốn viết ra đấy thôi. – ND
[63] Tức Tự Đức. - TN
(Tiếp Theo)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét