Thứ Hai, 21 tháng 5, 2018


SÀI GÒN CẢNH CŨ ĐƯỜNG XƯA
Từ đầm lầy Boresse đến chợ Bến Thành



Mỹ Phước Nguyễn Thanh




Vào cuối thế kỷ 19, Sài Gòn đã trở thành một đô thị duyên dáng gồm những dinh thự tráng lệ, những đường phố đẹp mắt giữa hai hàng cây xanh che bóng mát, những khu buôn bán tấp nập muôn màu muôn vẻ… Đấy chỉ là vài nét ngoạn mục của thành phố được tặng danh hiệu «Hòn ngọc Viễn Đông». Tuy  nhiên, ngay bên cạnh những khu phố khang trang vẫn còn sót lại một vùng đất thấp lầy lội. Đời sống người dân tại đây thật khó khăn, điều kiện vệ sinh rất kém, lại phát sinh nhiều tệ đoan xã hội. Người Pháp gọi khu phố ấy là «đầm lầy Boresse». Sang đầu thế kỷ 20, vùng bùn lầy nước đọng này lại là chiếc nôi ra đời của chợ Bến Thành, ngôi chợ to nhất Đông Dương thời ấy. Ngày nay ta có thể phỏng định vị trí của đầm lầy Boresse là khu vực giới hạn bởi các đường: Gia Long, Nguyễn Trung Trực, Công Lý, Nguyễn Công Trứ và Nguyễn Thái Học.  Chúng ta cùng nhìn lại sự chuyển mình của đầm lầy Boresse từ thuở hãy còn là một làng quê tĩnh mịch cho đến ngày ra đời của khu phố nhộn nhịp chung quanh
Vài dòng lịch sử
 Đầm lầy Boresse là một phần đất của làng Long Hưng. Theo địa bạ triều Nguyễn, làng Long Hưng ở xứ  Cầu Quan. Còn theo Trương Vĩnh Ký (Souvenirs historiques sur Saigon et ses environs, 1885), dưới thời vua Minh Mạng, từ đường Công Lý ngày nay đến chợ Cầu Ông Lãnh là địa phận của làng Long Hưng, nhà cửa chen chúc dọc theo đường ven rạch Bến Nghé. Đường Yersin hiện nay là con đường đất gập ghềnh vào thời đó, dân nô lệ người Lào đã được phóng thích đến vùng này sinh sống trong những túp lều xây dọc hai bên đường, họ sản xuất những chiếc gàu làm bằng lá dừa nước.
 Trên bản đồ Thành phố Sài Gòn năm 1867, ta thấy một đầm lầy chiếm hết vùng đất nằm giữa rạch Bến Nghé và đường Gouvernement (Đường Gia Long ngày nay), hướng Tây giáp Cầu Kho,    hướng Đông giáp đường Impératrice (Công Lý). Một con đường nằm song song với rạch Cầu Ông Lãnh, từ bờ rạch Bến Nghé lên tới đường Gouvernement, trước người Pháp gọi là «route de Cau-ong-lanh» sau cho đổi tên là «Boresse», và có lẽ từ tên đường này người Pháp gọi cả vùng đầm lầy bên cạnh là «marais Boresse». Người dân Sài Gòn thời ấy cũng theo đó gọi vùng ao lầy này là Bồ-rệt. Tại đây có rạch Cầu Quan, ăn thông với các rạch Cầu Kho và Cầu Ông Lãnh. Trong quyển Gia Định Phong Cảnh Vịnh (1882), Trương Vĩnh Ký chú thích: «Cầu Quan là xóm ở Cầu Kho giáp ra Chợ Đũi, có rạch có cầu, chỗ nhà quan ở nhiều nên kêu là Cầu Quan». Cũng theo ông (Souvenirs historiques… 1885) trên đầu đường Boresse có chiếc Cầu Quan. Căn cứ vào hai chi tiết này và xem lại bản đồ Sài Gòn 1880, nếu so sánh với bản đồ ngày nay, ta có thể nhận ra: 1) Đầu đường Boresse lên tới tận đường La Grandière (Gia Long). 2) Một rạch nước nối tiếp với rạch Cầu Kho, băng ngang đường Boresse, chảy qua giữa hai đường La Grandière (Gia Long) và Espagne (Lê Thánh Tôn). Ta phỏng đoán vị trí chiếc Cầu Quan có lẽ ở khoảng đường Nguyễn Phi, đoạn nằm giữa đường Gia Long và Lê Thánh Tôn. Rạch Cầu Quan đã bị lấp bằng, vùng Cầu Quan thu hẹp lại trong  khu vực đường Yersin vì tên vùng Cầu Quan cũ bị thay thế bởi tên Chợ Đũi, để chỉ khu vực quanh nhà thờ Huyện Sĩ qua đến đường Phạm Ngũ Lão và đại lộ Trần Hưng Đạo (Trường tiểu học Phan Văn Trị trên đại lộ Trần Hưng Đạo trước kia là École des jeunes filles de Chợ Đũi).
 Việc sửa sang đầm lầy Boresse được bắt đầu từ khu vực gần rạch Bến Nghé. Năm 1877, hai con đường chạy song song với bờ rạch được hoàn tất là đường số 1 (Nguyễn Công Trứ) dẫn đến lò heo và đường số 3 (Nguyễn Văn Sâm) dẫn đến kho dầu. Vào khoảng năm 1880, phần còn lại của đầm lầy Boresse được vây quanh bởi hào nước dọc theo các đường: La Grandière (Gia Long), Némésis (Phó Đức Chính, Thủ khoa Huân), Dayot (Nguyễn Văn Sâm) và Boresse (Yersin). Từ trong đầm lầy, hào nước theo một ngả cạnh kho dầu chảy thông ra rạch Cầu Ông Lãnh.   Vào khoảng năm 1890, trong khu Boresse vẫn còn nhiều đường đất đắp cao, cắt nhau khá đều đặn, chạy ngang dọc, chia khu đầm lầy ra thành từng xóm nhỏ. Những  chỗ trũng ngập nước chỉ sâu một vài mét. Mỗi xóm là một khu nhà sàn mái lá xây trên cọc gỗ. Từ trong xóm, mỗi căn chòi có cầu ván đi thông ra ngoài đường, có khi hai hay ba tấm ván nối nhau nếu vũng sình quá rộng. Người qua cầu nếu lỡ bước hụt chân sẽ rơi xuống vũng sình bùn lẫn với rong rêu, ếch nhái… Ban ngày các khu xóm tồi tàn ấy vắng ngắt như một ngôi làng bỏ hoang, nhưng khi đêm về cảnh vật tưng bừng như hội chợ. Hằng ngàn đèn lồng bằng giấy đủ màu treo khắp mọi nhà, ánh đèn phản chiếu trên mặt nước thật ngoạn mục làm ta quên đi nơi đây là một khu xóm nghèo bẩn thỉu. Dọc theo lề các đường đất hằng trăm lò lửa được nhóm lên. Đấy là những cái bếp lộ thiên, nơi chiên, xào, nấu, nướng đủ loại thức ăn, món nhậu. Khách hàng gắp ăn hoặc chỉ cần bóc tay lùa vào miệng khi món ăn còn nóng. Trên đường người đi đông vô kể, trong đám đông đó có những thủy thủ đã từng đi khắp năm châu bốn biển, có cả lính tráng đủ các binh chủng, và người thường dân thuộc đủ các nghề nghiệp. Họ chen nhau đi giữa những hàng cháo, hủ tiếu, bánh mứt, rượu trà, thuốc lá… Lẫn trong đám người qua lại, có cả những cô gái buôn hương bán phấn thuộc đủ mọi quốc tịch. Không khí càng thêm ồn ào vì tiếng rao mời khách mua hàng, tiếng người gọi nhau, các chú lính thủy say sưa vừa đi vừa hát. Bên ngoài xóm nhà sàn, dọc theo hành lang một dãy nhà, những cô gái mặt hoa da phấn đang ngồi gảy đàn đợi khách dưới chuỗi đèn lồng xếp bằng giấy hồng.

Công cuộc chỉnh trang đầm lầy Boresse


 Sau khi Pháp chiếm Sài Gòn, nhiều người dân bỏ nhà cửa lánh sang vùng khác lập nghiệp. Năm 1862, đô đốc Bonard ra nghị định cho bán đấu giá các đất đai bỏ trống. Sở Địa chánh lập bản đồ và chia đất thành từng lô. Ngoại trừ dải đất cao ráo nằm ven rạch Bến Nghé, khu Boresse là vùng đất ẩm thấp nên ít hấp dẫn người mua, mà người mua phần nhiều là bọn đầu cơ muốn làm giàu nhanh chóng. Tuy vậy vùng sình lầy nước đọng hôi thối này lại là nơi nương náu của những người cùng khổ. Họ cất căn chòi sống tạm đến đâu hay đó, chỉ dọn nhà đi khi người chủ đất xuất hiện đòi đất lại.  Phần nhiều người mua đất chẳng muốn nhọc công sửa sang đất đai cho tốn kém, vì họ hy vọng chính quyền sẽ mở mang khu vực, họ đợi lúc giá đất tăng cao để bán lại. Phía chính quyền lại tin tưởng rằng các tư nhân mua đất để làm nơi kinh doanh, sẽ biến đầm lầy Boresse thành một khu phố thương mại, nhưng không ngờ bị bọn đầu cơ lợi dụng. Cứ thế sau nhiều năm tình trạng khu Boresse không có thay đổi nào đáng kể.
 Để giải quyết bế tắc, chính quyền thành phố ban hành một số giải pháp, trong đó có cách mua bán thỏa thuận giữa đôi bên, tức là đất được bán rẻ nhưng  người mua phải tuân theo một số điều khoản như: trong thời hạn nhất định (một hoặc hai năm) người mua phải đắp nền cao cho đất được khô ráo, phải xây loại nhà gạch lợp ngói, phải chấp thuận cho dân nghèo đang chiếm đất bất hợp pháp có thời gian sáu tháng để dọn đi, và khi xây cất xong sở Kiều lộ sẽ đến kiểm soát công trình. Trường hợp cụ thể là việc mua đất của ông Hui Bon Hoa (Chú Hỏa). Vào năm 1896, ông mua 12 lô đất. Ít lâu sau ông yêu cầu chính quyền gia hạn thời gian lấp đất là 3 năm thay vì chỉ 2 năm như đã quy định, vì theo ông lượng đất cần thiết lên tới 70.000 mét khối nên ông cần thêm thời gian để lấp hết những thửa đất ấy.
 Một giải pháp khác nữa là chính quyền thành phố nhượng đất miễn phí cho các công chức có thâm niên hoặc những người có công trạng với nhà nước thuộc địa, người được nhượng đất phải chấp nhận các điều kiện tương tự như người mua đất nói trên.
 Việc sửa sang đầm lầy Boresse bị trì trệ vì địa hình tại đây khá phức tạp, việc lấp bằng những vũng lầy đòi hỏi nhiều thời gian, phương tiện và tài chính. Trong lúc đó thành phố Sài Gòn còn nhiều công trình xây dựng ưu tiên khác cần phải được hoàn tất. Năm 1894, toàn quyền De Lanessan ký sắc lệnh yêu cầu thành phố Sài Gòn thực hiện nhiều dự án. Trước tiên là lập sở Cấp thủy, lo việc thu dẫn nước về Sài gòn. Thứ nhì là xây một nhà hát. Thứ ba là xây tòa thị chính. Thứ tư là xây ngôi chợ trung tâm. Thứ năm là làm cho đầm lầy Boresse được hợp vệ sinh, v. v. Như vậy ta thấy việc chỉnh trang đầm lầy Boresse được nhắc đến nhưng không là ưu tiên hàng đầu và cũng vì thế khu Boresse phát triển rất chậm, mất nửa thế kỷ mới theo kịp các khu phố lân cận. Năm 1900, dược sư Holbé, trong Hội đồng quản hạt (Hội đồng thuộc địa Nam kỳ), đã thốt lên: «Thật ngao ngán khi thấy vấn đề đầm lầy Boresse được nhắc lại mỗi năm và chẳng bao giờ đạt được kết quả. Tại trung tâm thành phố có một ổ hôi thối, là một mối nguy thường trực. Chính quyền chẳng muốn làm gì để cứu chữa tình trạng tệ hại này». Năm 1901, trong một cuộc họp của Hội đồng quản hạt, bác sĩ Dejean de la Bâtie đã phát biểu: «Khu Boresse được chỉnh trang chậm chạp vì thiếu ngân sách, và khi có đủ ngân sách thì Sở Công chánh dùng làm chi phí cho việc tu bổ các đường phố khác, không chăm lo gì tới đường sá trong khu Boresse». 
 Một trong những công trình lớn thực hiện đầu tiên trong khu Boresse là các đường xe lửa Sài Gòn - Chợ Lớn (1880) và Sài Gòn - Mỹ Tho (1881). Tại những nơi đặt đường sắt hoặc xây cơ xưởng hỏa xa, đất được nện chắc chắn để tránh bị sụt lún. 
 Việc lấp bằng đầm lầy trải qua nhiều giai đoạn. Biện pháp cấp bách lúc đầu là khai thông các ao nước còn tù đọng, đào mương dẫn nước chảy ra rạch Bến Nghé. Tiếp theo là việc đắp đất bằng phẳng, một mặt các chủ đất bị bắt buộc phải đắp nền và xây cống rãnh, mặt khác chính quyền thi hành việc san bằng toàn khu Boresse. Những hồ ao, lạch nước còn lại được lấp bởi đất cát chở về từ một đồng cát gần làng Bình Hưng Đông (Nay là Bình Hưng Hòa thuộc huyện Bình Chánh), cách xa khoảng 20 cây số, phương tiện chuyên chở cát là xe lửa chạy trên một nhánh của đường sắt Sài Gòn-Mỹ Tho. Công trình này tiến triển rất chậm (gần 30 năm) vì bị gián đoạn nhiều lần, nên gần đến ngày hoàn tất chợ Bến Thành, khu Boresse vẫn còn rải rác ao tù nước đọng.
   Về phương diện giao thông, đường sá trong khu Boresse rất tồi. Đường đã được vạch từ lâu, chiều dài tổng cộng khoảng 6 cây số, mang tên những «danh nhân» hẳn hoi nhưng chỉ là những lối đi tạm bợ dùng trong suốt mấy thập niên. Mới đầu chỉ là loại đường đất, lề đường và cống rãnh còn sơ sài, sau mỗi cơn mưa lớn nước tràn ngập, mặt đường  sụp lún thành nhiều ổ gà nguy hiểm. Về sau Sở Công chánh lát đường bằng đá dăm, trước tiên là loại đá ong (đá đỏ Biên Hòa) nhưng tình trạng không mấy cải tiến nên thay thế bằng đá granit (đá xanh) bền bỉ hơn. Tuy nhiên, về mùa nắng không khí càng ngột ngạt khi bụi đường bốc lên, nên người ta cần đến xe nước, loại xe bò chở chiếc thùng tô-nô to tướng đi tưới ướt mặt đường. Đến khoảng 1920, khi đường phố được tráng nhựa và xây cống rãnh thì những phiền toái lúc xưa mới chấm dứt. 
 Sài Gòn bước sang thế kỷ 20. Những túp lều lụp xụp ngày càng hiếm dần, được thay thế bằng những ngôi nhà tường gạch mái ngói. Nhiều người nôn nao muốn được chứng kiến viễn ảnh một góc đô thị trù phú phát sinh từ chốn bùn lầy. Từ lâu người ta đã nghe nói tới kế hoạch tái thiết, dời đổi khu chợ và nhà ga xe lửa, đồng thời với việc mở một đại lộ làm cửa ngõ đi thẳng vào Chợ Lớn. Nhưng không biết khi nào các công trình xây dựng ấy mới bắt đầu. Dư luận càng xôn xao khi giá nhà đất tăng vọt. Nhiều người mua miếng đất lầy lội chưa được bao lâu nay đem bán lại với giá gấp mười. Những người hài lòng không kém là các chủ thợ hồ, thợ đắp đất, nhà thầu cung cấp vật liệu rải đường, các ông chưởng khế… Trái lại cũng có người bồn chồn lo lắng, e sợ việc xây dựng bị trì hoản, họ là các nhà đầu tư chứng khoán hoặc một số nhà thầu khác.
 1901: Đường còn nhiều ổ gà nên hầu như xe cộ không lưu thông được. Phân nửa số đường chưa rải đá. Nhiều đường thiếu cống thoát nước.
 1904: Dự án xây cống ngầm dọc đường phố và lấp bằng đầm lầy Boresse.
 1905: Chương trình cung cấp nước uống. 
 1907: Nghị định của thống đốc Rodier và dự án của Hội đồng thành phố: 1) Xây nền nhà ga xe lửa Xuyên Đông Dương trên diện tích bằng 10 hec-ta. 2) Mở  đại lộ Sài Gòn - Chợ Lớn rộng 40 mét, theo đường thẳng nối liền Sài Gòn với vùng Chợ Quán. 3) Lấp bằng đầm lầy Boresse, xây dựng cống ngầm cho nước mưa và nước đã sử dụng đổ ra rạch Bến Nghé. 4) Phát triển đường xe tramway và xây ngôi chợ trung tâm (Halles centrales).
 1910: Việc chỉnh trang khu Boresse cũng là một dịp phá bỏ nhiều nhà ổ chuột.  1911: Sửa sang khu vực đường Bourdais (Calmette), xây nền nhà ga. Nhà thầu xây dựng là Công ty xáng đào kênh (Société des dragages)
 1912: Phần nền nhà ga đã hoàn tất. Công trình này gắn liền với việc chấn chỉnh hệ thống hỏa xa Sài Gòn – Khánh Hòa.
 1913: Sửa sang khu vực đường Némésis (Phó Đức Chính), xây nền chợ mới. Nhà thầu Champestève.  1915: Sửa sang khu vực các đường Boresse (Yersin) và Marchaisse (Ký Con). Nhà thầu Mayeur.
 1916: Xây đại lộ Sài Gòn-Chợ Lớn (nay là đại lộ Trần Hưng Đạo). Nhà thầu Phạm Thị Vân.
 1917: Sửa sang đại lộ Abattoir (Nguyễn Thái Học). Nhà thầu Phạm Thị Vân.

Các nẻo đường trong khu Boresse 
  Xin kể sơ qua các đường trong khu Boresse trước ngày xây chợ Bến Thành, theo thứ tự từ Đông sang Tây và từ rạch Bến Nghé đi lên phía Bắc.

Đường Némésis (Phó Đức Chính)


 Xưa là đường số 30. Némésis là tên của chiếc soái hạm do Đô đốc Rigault de Genouilly chỉ huy đến đánh chiếm Sài Gòn vào năm 1859. Đường Némésis chạy từ bờ rạch Bến Nghé tới đường La Grandière (Gia Long).
 Đường này được xem là ngõ ra vào trực tiếp từ rạch Bến Nghé tới chợ mới Bến Thành. Ngày xưa bề ngang đường được mở rộng tới 60 mét vì chính quyền Pháp dự định đào một con kinh giữa trục đường, rộng 20 mét, liên lạc với rạch Bến Nghé cho thuyền bè chuyên chở hàng hóa. Đó là lý do khiến nhiều người đầu tư đất đai tại đây. Nhưng kế hoạch đào kinh không được thực hiện, nhiều chủ đất trông đợi mãi vẫn chưa thấy đầm lầy Boresse thay đổi gì, như trường hợp ông Dussutour mua 2 lô đất tại góc Némésis – Dayot (Phó Đức Chính - Nguyễn Văn Sâm) vào năm 1869. Sau khi ông mất (1886) các con ông thừa kế mảnh đất chẳng giá trị bao nhiêu. 
 Vào những năm 1884-1887 nhiều lô đất được chính quyền nhượng cho các công chức (Hoa tiêu, nhân viên sở thuế, giám thị trại giam…) hoặc bán cho tư nhân. Chú Hỏa làm chủ nhiều lô đất nằm giữa các ngã tư Dayot (Nguyễn Văn Sâm) và Hamelin (Hồ Văn Ngà). Khoảng 1912, trên lô đất ngày nay còn thấy ngôi biệt thự của Chú Hỏa (đã trở thành Bảo tàng Mỹ thuật) có một Sở cầm đồ. Thời ấy tiền cho vay tại đây ít nhất bằng một phần ba giá trị của đồ cầm cố. Tiền lời là 2 phần trăm mỗi tháng. Nếu quá 10 tháng không được chuộc lại, đồ cầm cố sẽ bị đem bán đấu giá. 
 Trong hơn 30 năm (1881-1912), đường Némésis bị cắt ngang bởi khu đất dài khoảng 400 mét, rộng khoảng 150 mét dùng làm bãi đậu, nhà kho và cơ xưởng của xe lửa Sài Gòn - Mỹ Tho. Từ trên cao nhìn xuống khu đất ấy hơi giống hình con thoi, dọc theo bìa phía Bắc và phía Nam là hai đường bên dành riêng cho sở hỏa xa. Trục đường xe lửa Mỹ Tho năm xưa chính là đại lộ Hàm Nghi ngày nay, kéo dài qua tới đường Phạm Hồng Thái, còn dấu vết của đường bên phía Nam là đường Lê Công Kiều, đường bên phía Bắc là khúc đường Huỳnh Thúc Kháng nằm sau bệnh viện Đô thành. 
 Qua khỏi kho bãi của sở hỏa xa là đến khu đất giáp với đường Espagne (Lê Thánh Tôn), đất một nửa của tư nhân, một nửa của nhà nước, sau này đất ấy dùng làm nền xây chợ Bến Thành.    Năm 1889, tại khu vực này đất còn ẩm thấp, đường sá chưa hoàn bị. Các đại diện chủ nhà đất người Pháp gửi thư thỉnh nguyện đến thị trưởng Sài Gòn xin mở đường Némésis cho xe cộ lưu thông, xin nối dài đường Espagne, đồng thời xin xây cống rãnh vì họ nhận thấy nền và nhà ở của họ bị de dọa hư hại do nước chảy tràn xuống từ khu «đường trên đi Chợ Lớn» (nay là đường Võ Tánh). Vì nước đọng thường xuyên thành vũng lầy bẩn thỉu nên các chủ đất lo ngại phải để cho đất trở thành hoang phế nếu chính quyền không lo việc chỉnh trang như đã dự định từ lâu.  Khoảng năm 1896, gần bên ngã tư Némésis - La Grandière (Thủ Khoa Huân – Gia Long) có xưởng sản xuất xà-bông của ông Devise, trước làm chủ một tiệm hớt tóc trên đường Rigault de Genouilly (đại lộ Nguyễn Huệ) vào những năm 1880.  Đường Némésis chấm dứt tại đường La Grandière, nơi ngã tư bắt đầu đường Poulo Condore. Năm 1919, một đoạn của đường Némésis hợp với đường Poulo Condore trở thành đường Aviateur Garros (nay là đường Thủ khoa Huân).  

Đường Bourdais (Bác sĩ Calmette) 
  Xưa là đường số 32. Bourdais là tên của Đại tá Hải quân bị tử trận lúc tiến đánh Mỹ Tho vào năm 1861. Đường Bourdais đi từ bờ rạch Bến Nghé đến đường La Grandière. Theo bản đồ năm 1867, tại vị trí của đường Bourdais có một rạch nước đổ ra rạch Bến Nghé, rạch ấy phân nhánh chảy vào khu đầm lầy lên đến tận đường Nguyễn Văn Sâm ngày nay. 
 Từ ngã tư đường Hamelin đến đường Batavia là dãy phố cho thuê của Chú Hỏa. Năm 1887, đốc phủ sứ Huỳnh Tịnh Của được chính quyền nhượng mảnh đất tại góc đường Bourdais và Batavia (đầu đường Calmette phía Trần Hưng Đạo) để xây nhà ở. Ít lâu sau đất ấy về tay Chú Hỏa, biến thành dãy phố cho thuê, nhưng cuối cùng đất bị trưng dụng khi Sở Công chánh mở đại lộ Sài Gòn - Chợ Lớn. Miếng đất này nằm tại đầu đại lộ Trần Hưng Đạo ngày nay, ngay phía trước vũ trường Văn Cảnh và nhà buôn máy may Sinco dạo trước.  Năm 1899, tại góc đường BourdaisEspagne có miếng đất của luật sư Crémazy. Cũng vào năm đó, gần đấy, ông Na Manica, người Ấn, nộp đơn xin giấy phép xây lại chùa Bà Đen (chùa Bà Mariamman), đến nay chùa này vẫn còn trên đường Trương Định. 
 Năm 1912, đường này có một rạp hát bội (ngày nay là đoạn nằm giữa hai đường Nguyễn Công Trứ và Nguyễn Văn Sâm).

Đường Marchaisse (Ký Con)

 Xưa là đường số 34. Marchaisse là trung tá bị tử trận gần Tây Ninh vào năm 1866. Trong nhiều năm tên đưòng này bị viết sai là Marchaise. Đường này bắt đầu từ rạch Bến Nghé tới đường Boresse.   Theo bản đồ 1896, đường tramway đi Chợ Lớn theo ngã «đường trên» (Võ Tánh-Nguyễn Trãi), khởi hành từ ga gần Cột cờ Thủ Ngữ, chạy dọc theo rạch Bến Nghé, qua ga tại đầu đường Némésis, rồi tiếp tục theo đường Marchaisse, vượt qua đường Boresse đến ga Chợ Đũi. Năm 1912, trên đường này cũng có một rạp hát bội. 

Đường Boresse (Bác sĩ Yersin)
  Xưa là đường số 4, được xem là đường xưa nhất trong khu vực, xây dựng nhằm mục đích xúc tiến việc tháo nước tù đọng trong đầm lầy. Boresse là tên của một đại úy hải quân, từng giữ chức thanh tra bản xứ sự vụ tại Nam Kỳ, giám đốc Sở Cảnh sát và Sở Nội an (Service civil) vào các năm 1863-1865. Đường Boresse bắt đầu từ bờ rạch Bến Nghé tới đường La Grandière (Gia Long).   Một trong những kiến trúc lâu đời nhất trên đường Boresse là chợ Cầu Ông Lãnh nằm tại đầu đường bên bờ rạch Bến Nghé. Gần bên ngã tư đường
Lefebvre có bót cảnh sát, thành lập vào năm 1865. Xa hơn một chút, tại ngã ba đường Dayot là cổng vào kho dầu lửa. Thời ấy kho này chứa  trữ lượng dầu đủ dùng trong 2 năm cho toàn cõi Nam Kỳ (Vị trí của kho dầu là Ty Cảnh sát Quốc gia Quận 2, trước 1975). Vào năm 1886, sau hai trận hỏa hoạn trong khu vực, kho dầu bị đe dọa bốc cháy bất cứ lúc nào. Nhận thấy các nhà kho không còn đủ chỗ chứa nhiên liệu như trước và trở nên kém an toàn vì khu đất chung quanh thấm đầy dầu do sự chảy rỉ lâu ngày, tháng 11 năm 1894, thống đốc Fourès chỉ thị dời kho dầu về Đồn Nam (khu cầu Tân Thuận ngày nay). 
 Tuy thuộc khu vực bình dân, nhưng đường Boresse khá nhộn nhịp vì là chốn ăn chơi, có rạp hát, nhà hàng, quán rượu, đặc biệt là có nhiều nhà chứa mà gái mại dâm thuộc đủ các quốc tịch. Đây là nơi tập trung những thanh lâu lúc trước ở rải rác trên các đường Lefebvre, Dayot, Batavia bên phía đường Mac Mahon. Nguyên vào năm 1891, nhiều người Pháp cư ngụ tại các đường vừa nói trên đã nhiều lần nộp đơn khiếu nại lên chính quyền, phản kháng việc mở các nhà chứa tại các đường phố nơi họ cư ngụ. Vì thế thị trưởng Cuniac ra sắc lệnh, kể từ ngày 15-8-1891, các nhà chứa trên đường Lefebvre, Dayot và Batavia sẽ được dời về đường Boresse, trên đoạn phố giữa các đường Lefebvre và Batavia. Các tú bà không thi hành đúng sắc luật này sẽ bị rút môn bài và các gái mại dâm sẽ được đưa đến các nhà chứa khác.  Những hoạt động nghề nghiệp khác trên đường Boresse: Năm 1890, nhiều người làm nghề bán rong, xay lúa, cho thuê xe tay chở hàng, vài nhà thuốc đông y, vài tiệm nước. Năm 1910, vài nhà hàng, tiệm giải khát trong có mấy tiệm của người Nhật.
 Trong quyển Nam Kỳ Phong Tục Nhơn Vật Diễn Ca, Nguyễn Liên Phong đã phác họa đường Boresse vào đầu thế kỷ 20 như sau: Khỏi bót lên ngay Cầu Quan, 
Bên phía tay hữu luôn hàng thanh lâu
Nhựt Bổn điếm đều ở lầu
Trướng phòng sạch sẻ rước hầu khách sang
An Nam phố thấp ở tràn
Tối ra kéo níu dọc ngang cùng đường
Phía đường trước cửa kho dầu
Có hai rạp hát hai đầu la vang
Tốt thay một xóm Cầu Quan Ăn chơi đờn địch lịch sang nhiều nhà.

Đại lộ Abattoir (Nguyễn Thái Học)

 Nguyên đại lộ này xây bên trên kinh Lò heo, đào đắp lại từ rạch Cầu Ông Lãnh xa xưa. Bản đồ năm 1893 cho ta thấy một con kinh ngắn từ rạch Bến Nghé  chảy  giữa trục đại lộ Abattoir, vào tận bến dành cho ghe thuyền chở súc vật đến cung cấp cho lò sát sinh tức lò heo (Người dân còn gọi là Công ty heo). Lò heo được xây dựng vào năm 1866, thuở ấy chỉ là một tòa nhà thô sơ, nền lát gạch, mái lợp ngói. Theo sắc luật của Toàn quyền De Lanessan tháng 11-1894, đại lộ Abattoir, kể cả Công ty heo, là một phần ranh giới phía Tây Nam của Thành phố Sài Gòn.
 Theo niên giám 1910, đại lộ Abattoir chỉ dài 180 mét, bắt đầu từ bờ rạch Bến Nghé tới đường Lefebvre. Trên phần đường còn lại xe cộ chưa lưu thông được. Vào năm này, các đường Amiral Courbet, Hamelin và Dayot đều dừng lại tại đường Boresse, điều này chứng tỏ rằng đường lộ trong khu vực nằm giữa Boresse và Abattoir chưa được sửa sang.

Đường Lefebvre (Nguyễn Công Trứ) 
  Xưa là đường số 1. Lefebvre là tên của vị giám mục thuộc Hội Truyền giáo Paris, hoạt động truyền giáo từ miền Trung  vào miền Nam trong giai đoạn 1835-1864. Đường Lefebvre được xây dựng hoàn tất vào năm 1877, đi từ đường Adran (Võ Di Nguy tại Chợ cũ) tới đại lộ Abattoir. Ta có thể xem đường này là ranh giới phía Nam của khu Boresse trước khi xuống tới bờ rạch Bến Nghé.
 Hoạt động nghề nghiệp tiêu biểu trên đường Lefebvre những năm 19001912: Nhiều hãng thầu xây dựng, quán cơm rẻ tiền, tiệm tạp hóa nhỏ và khá nhiều đại lý bán lẻ thuốc phiện.

Đường Dayot (Nguyễn Văn Sâm) 
  Xưa là đường số 3. Dayot, thường bị viết sai là d’Ayot, là tên của viên đại úy hải quân đã theo phò vua Gia Long vào những năm 1789-1795. Đường Dayot được xây dựng hoàn tất vào năm 1877, đi từ đường Mac-Mahon tới trước cửa kho dầu trên đường Boresse. Vào những năm 1885-1887, dọc bên đường này có nhiều lô đất được chính quyền nhượng lại cho những người Pháp (nhân viên sở thuế, kho bạc, kiểm lâm, thầu khoán, hoặc công chức đã về hưu nhưng có ý định lập nghiệp vĩnh viễn tại Nam Kỳ). Là đất nhượng miễn phí thật, nhưng người thừa hưởng phải đối phó nhiều khó khăn khi bắt đầu khai thác vì mặt đất nằm ở mực rất thấp so với mặt đường, việc đắp đất được xem là tốn kém và mất nhiều thời gian. Vào thập niên 1910, gần đầu đường phía MacMahon có dãy cư xá dành cho nhân viên cảnh sát người Pháp. 
 Sinh hoạt nghề nghiệp trên đường này: Năm 1890, nhiều quán nước, nhà xay lúa, và khá nhiều nhà cho thuê xe ngựa, xe kéo, xe tay chở hàng. Năm 1900-1910, nhiều tiệm tạp hóa, vài tiệm nữ trang hạng bình dân, lò rèn, tiệm đóng móng ngựa…

Đường Hamelin (Hồ Văn Ngà) 
 Xưa là đường số 7. Hamelin là tên của một viên đô đốc, giữ chức bộ trưởng bộ Hải quân Pháp dưới thời hoàng đế Napoléon III. Đường này bắt đầu từ đại lộ Charner tới đường Abattoir, bị kho xưởng hỏa xa cắt làm hai đoạn. Đoạn bên phía đại lộ Charner thường được gọi là Hamelin số 1 nằm trong khu vực buôn bán trù phú (nay là đường Huỳnh Thúc Kháng). Đoạn bên phía đường Boresse là Hamelin số 2 (còn được gọi là đường Hamelin nối dài, nay là đường Hồ Văn Ngà), nơi hoạt động thương mại hãy còn yếu kém, dọc bên đường phần nhiều là nhà ở.
 Vào năm 1897-1898, Chú Hỏa được giấy phép xây cất các dãy phố nằm dọc theo đường Hamelin, giáp với đường Bourdais và Batavia, bên cạnh bãi đất kho xưởng xe lửa.
 Theo một báo cáo của bác sĩ Dumas, trường hợp bệnh dịch hạch được khai báo lần đầu tiên tại Sài Gòn vào tháng 1-1906, phát xuất từ trong khu Boresse, chính xác là tại đường Hamelin. Bệnh nhân là một người Ấn, từ nơi đây truyền nhiễm bệnh sang thành phố Chợ Lớn.

Đường Batavia (sau 1900 là Amiral Courbet)

Batavia là thủ đô của Đông Ấn thuộc Hòa Lan, nay là thủ đô Jakarta của nước Indonesia. Xưa đường Batavia nằm thẳng hàng với đại lộ Bonard, đi từ đường MacMahon (Công Lý) đến đường Némésis (Phó Đức Chính), sau được nối dài tới đại lộ Abattoir. Sau năm 1900 đổi tên là Amiral Courbet. 
 Bãi đất của cơ xưởng hỏa xa cắt đường Batavia làm hai đoạn. Khoảng năm 1900, bên cạnh phía Bắc của xưởng hỏa xa có kho tang vật (phú-de), nơi nhà cầm quyền tạm giữ xe cộ đậu trái phép và đồ vật bị tịch thu (nay ở khoảng đầu đường Huỳnh Thúc Kháng phía sau bót cảnh sát Lê Văn Ken cũ). Gần đấy, tại góc đường Némésis là kho hàng và xưởng của Sở Lục lộ (Vị trí tại đầu đại lộ Lê Lợi, cạnh cửa Nam của chợ Bến Thành).
 Sau khi xây chợ Bến Thành và nhà ga, đường Batavia/Amiral Courbet mất hút giữa phố xá và nhà cửa mới xây. Ngày nay tuy đường này đã biến mất nhưng chúng ta có thể hình dung không gian cũ của nó, chỉ cần vạch một đường thẳng bắt đầu từ đường Công Lý đi xuyên qua rạp chiếu bóng Vĩnh Lợi hoặc bệnh viện Đô thành và kéo dài đến giữa sân trường tiểu học Phan Văn Trị trên đại lộ Trần Hưng Đạo.
 Tương tự như đường Hamelin, phần nằm trong khu Boresse của đường Batavia/Amiral Courbet chưa có hoạt động thương mại nào đáng kể.

Đường Espagne (Lê Thánh Tôn)
 Xưa là đường Isabelle II, danh hiệu của nữ hoàng nước Tây Ban Nha vào thời kỳ Pháp đánh chiếm Sài Gòn. Sau đường đổi tên là Espagne để kỷ niệm liên quân Pháp-Tây Ban Nha đã tham dự các trận đánh tại Đà Nẵng và Sài Gòn trong hai năm 1858-1859. Một phần của đường này nằm trong vùng phía Bắc của đầm lầy Boresse. Vì là vùng chuyển tiếp đi lên khu phố cao ráo, nên khá đông dân cư sinh sống, trong đó có nhiều tiểu công chức. Tuy thế vào năm 1900, khúc đường từ Némésis đến Boresse còn rất tồi tệ. Xưa rạch Cầu Quan chảy tới khu vực này nối dài qua đến đoạn ở giữa các đường Thủ Khoa Huân và Nguyễn Trung Trực ngày nay.

Ngày chào đời của chợ Bến Thành
 Ngôi chợ trên đường Charner được xây vào khoảng năm 1870  bằng sườn gỗ mái ngói đã quá cũ kỹ và trở nên xấu xí giữa một thành phố ngày càng mỹ miều tráng lệ. Vào năm 1894, Ủy ban Quản  trị thành  phố  Sài Gòn (Commission municipale) đã hội họp bầu cử chấp thuận việc tái thiết ngôi chợ này. 
 Năm 1901, Hội đồng thành phố biểu quyết chấp thuận việc xây lại một ngôi chợ khác hiện đại hơn, xứng đáng với thành phố Sài Gòn của thế kỷ 20. Địa điểm xây chợ mới đang trong vòng bàn cải. Có người đưa ra đề nghị là nên chọn  khu vực quanh các đường Lefebvre, Bourdais và Marchaisse (Nguyễn Công Trứ, Calmette, Ký Con, tức là gần khu Dân Sinh ngày nay).
  Năm 1908, thống đốc Nam Kỳ Gourbeil tuyên bố rằng vấn đề tái thiết ngôi chợ đang được giải quyết. Hội đồng Thành phố ước lượng ngân khoản cần có để xây chợ là 450.000 đồng bạc Đông Dương. Ngôi chợ sẽ tọa lạc trong đầm lầy Boresse, trên trục đường Némésis (Phó Đức Chính), phần đất nằm giữa đường Espagne và kho xưởng hỏa xa Sài Gòn - Mỹ Tho. 
 Việc lựa chọn vị trí xây chợ cạnh ngả tư Némésis-Espagne có nhiều điểm thuận lợi vì nơi đây chính quyền còn nhiều lô đất trống chưa nhượng hoặc bán cho tư nhân, hơn nữa gần bên còn mấy thửa đất rộng thuộc tài sản của thành phố như kho bãi hỏa xa, kho xưởng vật liệu thành phố… Ngoài ra nhiều tư nhân còn hiến tặng đất đai cho chính quyền, như trường hợp ông Ippolito, giám đốc một hãng xe vận tải trên đại lộ Charner, đã tặng miếng đất để xây lên cánh phía Tây chợ Bến Thành. Nhưng nếu cần, chính quyền vẫn phải trưng dụng đất hay nhà cửa của dân chúng sống quanh đó.  Địa điểm đã được lựa chọn, nhưng phải mất thêm 3 năm nữa (1911), đợi đến khi ngôi chợ cũ đã quá bệ rạc, có cơ sụp đổ, một phần chợ đành bị phá bỏ, nhiều người bán hàng không có mái che mưa nắng, thì lúc ấy công cuộc xây dựng chợ mới bắt đầu thật sự.
 Ngày 29 tháng 1 năm 1913, lúc 8 giờ sáng, toàn quyền Albert Sarraut đã chủ tọa lễ đặt viên đá đầu tiên xây chợ mới. (Trước đó một ngày, ông cắt băng khánh thành đường tramway Sài GònLái Thiêu). Buổi lễ diễn ra khá long trọng. Sau diễn văn của thị trưởng Cuniac là đáp từ của toàn quyền. Kết thúc buổi lễ, ông Sarraut nâng cốc champagne chúc mừng, xong lên xe đưa ông về hướng bến Francis Garnier (bến Bạch Đằng), quẹo qua đường Catinat rồi trở về dinh Norodom.
  Ngôi chợ do hãng Brossard & Mopin xây dựng. Kinh phí xây dựng lên tới một triệu đồng quan Pháp (ước chừng 350 triệu Mỹ kim vào đầu năm 2017). Diện tích chợ khoảng 11.000 mét vuông, bên trong có 4 lối đi chính cắt nhau tại trung tâm. Bên trên cửa chính phía Nam có tháp vuông, 3 mặt tháp có đồng hồ, tiện lợi cho người đi ngang chợ xem giờ và cho cả hành khách đáp xe lửa vì nhà ga ở cách chợ khoảng một trăm mét.
 Chợ nằm giữa một vùng rộng thênh thang, phía trước có công trường Eugène Cuniac, ba mặt còn lại có đường rộng liên lạc khắp các khu phố lân cận, đó là các đường: Schroeder (Phan Châu Trinh), Espagne (Lê Thánh Tôn), Viénot (Phan Bội Châu). Cùng lúc ấy, đại lộ Bonard được nối dài từ đường MacMahon đến công trường phía trước chợ. Nhiều cống thoát nước được xây bên dưới các con đường mới. Khu phố liền sau đó được cung cấp điện và nước.   Ban đầu ngôi chợ được người dân gọi là «Chợ mới» hoặc «Chợ mới Bến Thành», về sau thường gọi theo tên cũ của ngôi chợ xây bên bờ sông lúc xưa: «Chợ Bến Thành».
 Lễ khánh thành chợ mới được ăn mừng liên tiếp trong ba ngày vào cuối tháng 3 năm 1914. Dịp này là một biến cố hi hữu nên đông đảo người dân dù ở tỉnh xa cũng không bỏ lỡ cơ hội về Sài Gòn tham dự. Bên trong và cả bên ngoài chợ đều có những gian hàng trưng bày hàng hóa, thực phẩm đủ loại, có cả hội chợ từ thiện với các trò chơi trúng thưởng. Cuộc vui tổ chức lúc ban ngày có múa lân, biễu diễn võ thuật, diễn hành xe hoa, hòa tấu cổ nhạc, trình diễn quân nhạc Pháp. Buổi tối có rước đèn, bắn pháo bông, trình diễn hát bội ngoài trời…
 Ngày chào đời của chợ Bến Thành là giai đoạn kết thúc công cuộc khai khẩn đầm lầy Boresse. Một khu phố khang trang vừa thành hình không chỉ mở đường phát triển cho các ngành thương mại và kỹ nghệ mà còn là đầu cầu nối liền Sài Gòn với Chợ Lớn bằng con đường ngắn nhất và hiện đại nhất: đại lộ Sài Gòn-Chợ Lớn, tiền thân của đại lộ Trần Hưng Đạo ngày nay.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Tết Sài Gòn trăm năm trước ra sao?   Biết những gì xảy ra trong quá khứ xa xưa dường như là mơ ước muôn đời của con người. Bởi trong c...