Thứ Tư, 19 tháng 12, 2018



CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG
CẢNG SÀI GÒN – CHỢ LỚN (NAM KỲ)

                                                                               BENABENQ,
                                                                            Kỹ sư des Arts et Manufactures,
                                                              kỹ sư trưởng des Travaux publics de l'Indochine


            Chiến tranh đã cho thấy nhiều tài nguyên mà Pháp có thể khai thác từ các thuộc địa của mình, tạo nên sự giàu có mà giá trị của nó quá lại ít được công chúng biết đến. Triển lãm thuộc địa diễn ra vào mùa hè này ở Marseille và thu hút một lượng lớn người tham dự, sẽ đóng góp phần lớn, chúng tôi hy vọng, sẽ xua tan sự thiếu hiểu biết ấy. Đông Dương đứng đầu trong các thuộc địa của chúng ta, bởi vì thương mại của nó vượt quá hai tỷ rưỡi franc vào năm 1921. Chi phí cho các công trình công cộng, là 6.300.000 piastres (tỷ giá 2 franc 40) vào năm 1912, đã đạt 22.200.000 piastres (ở mức trao đổi trung bình là 6 franc 85) vào năm 1921 và sẽ tiếp cận 30 triệu piastres vào năm 1922.


Hình 1: Cảng Sài Gòn. Chụp lúc đang xây dựng bức tường cảng (bờ Kè) Khánh Hội trước khi lấp đầy mặt bằng.


Năm 1922. Trong số các công trình công cộng này, chúng tôi sẽ đặc biệt đối phó với cảng Sài Gòn, nằm trên dòng sông cùng tên, mà xuất cảng gạo năm 1921 vượt quá 1500.000 tấn (trong số 1.700.000 tấn xuất khẩu từ Đông Dương).

Con sông lớn của Đông Dương, sông Cửu Long, mà đồng bằng là phần lớn của xứ Nam Kỳ, có nhiều lối đi khác nhau nhưng bị tắc nghẽn bởi bờ cát lầy di chuyển liên tục và độ sâu của nước không đủ để tàu có độ chìm 4 mét nước.

Ngoài ra, sau khi thành lập các cơ sở của Pháp ở Nam Kỳ và ngay sau khi trọng tải của tàu buôn đã tăng lên, Mỹ Tho (trên sông Cửu Long, cách 30 dặm từ cửa biển), điểm đến chính của hàng hóa từ bên ngoài, dần dần bị bỏ rơi và thay thế bởi Sài Gòn.

Vào ngày 22 tháng 2 năm 1860, Chuẩn Đô đốc Page đã khánh thành cảng thương mại quốc tế này. Việc buôn bán, ngay lập tức trở nên rất sôi động, được thực hiện chủ yếu bằng thuyền buồm cho đến năm 1872. Cảng Sài Gòn sự qua lại ngày càng thường xuyên hơn, nó dần đưa đến giới hạn của nó cần có những sửa đổi liên tục, một nghị định tháng 6 năm 1922, không chỉ sáp nhập cảng Chợ Lớn, bổ sung tự nhiên của nó như chúng ta sẽ thấy sau, nhưng vẫn là toàn bộ đường biển tiếp cận được tạo thành bởi sông Sài Gòn, cũng như Đồng Naii, cho đến tận mũi Saint-Jacques (Hình 2).


Hình 2:  Bản đồ cho thấy vị trí của cảng Sài Gòn - Chọ Lớn tính từ biển.


Chợ Lớn ngày nay là trung tâm thương mại chính ở Nam Kỳ, Cam Bốt, Hạ Lào và Nam Annam: trên thực tế, Sài Gòn có lợi thế bởi sông Đồng Nai, điểm duy nhất của Nam Kỳ có thể tiếp cận được với các tàu hiện đại lớn với tổng lượng giãn nước hơn 20000 tấn, độ sâu trung bình của dòng sông thấp hơn mực nước khoảng 10 đến 12 mét của biển thấp. Mặt khác, như trong hình 2, các thuyền có sức chìm nước thấp, cũng có thể vào Soài Rạp, giữa Đồng Nai và biển.

VỊ TRÍ VÀ LỐI VÀO CẢNG SÀI GÒN.
Cảng kéo dài trên cả hai bờ sông cùng tên, đến 83 km. vào đất liền, ngay sau đó, xuôi dòng, đến cảng chiến tranh ở Sài Gòn (Hình 3 và 4). Cảng có một chiều dài khoảng 6 km. và chiều rộng trung bình khoảng 250 mét, là khu vực ẩm ướt rộng 150 ha. Chúng ta sẽ nghiên cứu sau về các công trình và sự lắp đặt. Từ ngoài khơi (Biển Trung Hoa), khối núi của Mũi Saint-Jacques, có độ cao từ 200 đến 300 mét, báo hiệu cho tàu đến cửa sông Đồng Nai. Những tàu này đến từ phía bắc (Nhật Bản, Trung Hoa, Bắc Kỳ) hoặc phía nam (Singapore và Châu Âu): những chiếc từ phía bắc nhận ra ngọn hải đăng Padaran hoặc của Kéga trước. Những chiếc từ phía Nam nhận ra đầu tiên là ngọn hải đăng của Poulo-Condore trước, sau đó là của mũi Saint-Jacques. Ngọn hải đăng này chính xác chỉ ra lối vào sông, và cho phép tàu từ phía nam tránh được những nguy hiểm của bờ biển cạn Nam Kỳ. Tại ngọn hải đăng ở mũi Saint-Jacques liên kết với một trạm điện tín hiệu và trạm quan sát khí tượng.

Vịnh Saint-Jacques được báo hiệu bằng ánh sáng xanh ổn định, có thể nhìn thấy ở 8 km và chiếu sáng của lối vào sông được đảm bảo bởi hai đèn đỏ, được gọi là dòng Gành Rái, và bởi bốn đèn của Cần Giờ, với nhiều màu sắc khác nhau. Cho đến những năm gần đây, độ sâu ở sông Sài Gòn và Đồng Nai là không đủ, vì mực chìm nước của những tàu không vượt quá 8 mét, nhưng việc làm gia tăng mức chìm nước cho các tàu khách lớn và tàu hàng đòi hỏi phải nạo vét một vỉa đá, được gọi là san hô, thực sự hình thành như đá ong. Việc nạo vét này được thực hiện ở mọi nơi ít nhất độ sâu là 7 mét.


Hình 3 và 4: Tồng quát và chi tiết cảng Sài Gòn


Ở 45 km. từ cửa sông Sài Gòn, ngã ba sông Đồng Nai, sông Sài Gòn và Soài Rạp cung cấp một con đường rộng rãi và sâu, dài 7km500 và rộng 1800 mét. Trong cuộc chiến tranh Nga - Nhật, đã có tới 60 tàu buôn Nga, tạo thành đoàn công voa đến đây. Đây là nơi đặt nhà cách ly, bể chứa dầu, kho chứa vật liệu nguy hiểm (Mìn, thuốc súng, xăng,v.v..) mà các tàu phải bắt buộc phải xuống hàng trước khi vào Sài Gòn. Người ta thấy ở cách 13km quanh cảng có những khó khăn của việc điều hướng xuất phát từ sự tắc nghẽn của dòng sông và sự vận hành khi cặp bến và neo buộc.

Thủy triều được cảm nhận tất cả dọc theo tuyến đường theo tàu. Ở Sài Gòn, có một dải thủy triều với biên độ trung bình là 3 mét, trong khi ở mũi Saint - Jacques, biên độ trung bình là 3m50.


Hình 5: Nhìn tổng quát cảng Sài Gòn từ máy bay.
Tay phải là cửa kênh Tàu Hủ, ở xa là kênh chuyển dòng. 
Hợp lưu sông Sài Gòn với sông Đồng Nai


Cảng sông của Chợ Lớn.  Cảng sông Chợ Lớn kéo dài, ở vành đai thành phố Chợ Lớn, từ ngã tư An Phú Tây cho đến Chợ Quán, trên kênh Tàu Hủ. Nó tiếp tục xuôi dòng, trên vùng Sài Gòn, bởi thượng lưu kênh Tàu Hủ và kênh chuyển hướng của nó. Giao thông đường thủy nội địa là đáng kể trong toàn bộ đường thủy này, mở ra sông Sài Gòn (Hình 2 đến 6).


Hình 6: Nhìn tổng quát kênh Tàu Hủ và cửa kênh ra sông Sài Gòn.


Ngay trước khi Pháp chiếm đóng, thành phố Chợ Lớn, chủ yếu là dân nhập cư Trung Hoa, là thành phố buôn bán cung cấp cho cảng Sài Gòn. Kể từ khi Pháp chiếm đóng, hoạt động thương mại của Chợ Lớn lại tiếp tục phát triển, đặc biệt là từ khi thành lập, tại Chợ Lớn và Chợ Lớn – Bình Tây, các nhà máy xay xát lớn.
Thành phố Chợ Lớn vẫn tiếp tục, như trong quá khứ, là vựa lúa của thuộc địa, nơi tích lũy tất cả các sản phẩm có khả năng được xuất đi bởi cảng Sài Gòn. Do đó, sự biến động thương mại giữa Chợ Lớn và nội địa, cũng như giữa Chợ Lớn và Sài Gòn, đang phát triển hàng năm và hiện ở mức trung bình 6 triệu tấn, trong những năm thuận lợi có thể vượt quá 8 triệu tấn. Đối với tuyến giao thông quan trọng như vậy, trước năm 1920, Chợ Lớn chỉ có những con đường thủy yên tĩnh, nơi giao thông khó khăn khi thủy triều lên cao và khó khăn khi thủy triều xuống là nơi thường tắc nghẽn tại thời điểm nhất định, khiến tất cả các giao dịch đều diễn ngưng trệ. Kể từ năm 1920, việc nạo vét rộng gấp đôi kênh nhân Tàu Hủ đã cải thiện tình hình. Các tuyến đường thủy mới có diện tích 250 mét vuông, chiều rộng hữu ích tối thiểu 38 mét và độ sâu tối thiểu 3 mét, phần lớn cho phép lưu thông hai đoàn táu; nhưng vẫn còn nhiều việc phải làm, và đặc biệt là việc nạo vét kênh Tàu Hủ.

HÀNH CHÁNH CỦA CẢNG. - Cảng Sài Gòn chịu sự ủy quyền của Hội đồng quản trị, hoạt động tiếp theo các điểm trong luật ngày 5 tháng 1 năm 1912, trên các cảng thương mại hàng hải của đô thị. Cảng này gồm một cơ quan công cộng, theo nghị định ngày 2 tháng 1 năm 1914, ban hành tại Đông Dương vào ngày 25 tháng 2, đặt ra các điều khoản về quyền tự chủ của nó.

Hãy rằng luật ngày 5 tháng 1 năm 1912, được gọi là luật Millerand, về quyền tự chủ của các cảng thương mại (được sửa đổi và hoàn thành bởi luật ngày 12 tháng 7 năm 1920 (nghị định ngày 28 tháng 9 năm 1921), cho đến nay vẫn chưa nhận được thực thi, ngoại trừ Sài Gòn, chúng tôi sẽ đưa ra một số giải thích chi tiết về tổ chức hành chính này, được phê chuẩn bởi một cuộc thể nghiệm dài tám năm.

Hội đồng quản trị, hoạt động từ ngày 15 tháng 10 năm 1914, bao gồm mười hai thành viên, với tư cách là Chủ tịch, Chủ tịch Phòng Thương mại Sài Gòn; các thành viên khác được ủy quyền bởi Hội đồng Thuộc địa, Phòng Thương mại, Hội đồng Thành phố Sài Gòn và Chợ Lớn, Phòng Thương mại Trung Hoa của Chợ Lớn, các chủ tàu, thương nhân hoặc nhà công nghiệp thuộc địa.

Nó quy định, trừ khi bị Chính quyền địa phương phản đối, về các đối tượng sau:

1 ° Bảo dưỡng cảng và cập cảng;
.
2 ° Cải thiện công việc được thực hiện mà không cần sự hỗ trợ tài chính của thuộc địa;

3 ° Lắp đặt và quản lý thiết bị cảng;

4 ° Giám sát việc thành lập và vận hành các tuyến đường sắt của cầu cảng; có thể, thiết lập và vận hành các con đường nói trên, dưới sự kiểm soát của thuộc địa;

 5 ° Thành lập dịch vụ chiếu sáng, phân phối nước, lực lượng và ánh sáng, cho tất cả những gì không phải là trách nhiệm của thành phố hoặc của hải đăng;

6 ° Tổ chức các dịch vụ chữa cháy, cũng như các dịch vụ cứu hộ cho tàu và hàng hóa, tham gia vào các dịch vụ an toàn, vệ sinh, cảnh sát và giám sát các bến cảng và nhà phụ của cảng;

7 ° Sửa đổi và phân bổ phí địa phương tạm thời, trong giới hạn tối đa về tỷ lệ và thời gian được ấn định bởi quy định của các phí này; Cho thuê;

8 ° Cho thuê quá chín năm.

Cảng cũng cân nhắc, dưới sự chấp thuận của Thống đốc Nam Kỳ, về các công việc quan trọng hơn, hoặc liên quan đến hỗ trợ tài chánh của thuộc địa, và đưa ra ý kiến về các câu hỏi hành chánh khác nhau liên quan đến các dịch vụ của quan thuế, cảnh sát, chỉ đạo, vv, liên quan đến cảng.

Cuối cùng, cảng lập một ngân sách mỗi năm bình thường và một ngân sách đặc biệt, cũng như một tài khoản chung về các khoản thu và chi phí.


Hình 7: Cắt của bức tường cảng (bờ kè) nguyên thủy.


Thu ngân sách thường xuyên bao gồm:

1 ° Tiền thu được từ việc thu thuế đã được ủy quyền;

2 ° Số tiền thu được từ hoạt động của các thiết bị công cộng do Hội đồng quản lý hoặc cho thuê;

3 °. Số tiền thu được từ phí địa phương, dự định trả cho các dịch vụ mà Hội đồng tổ chức hoặc trợ cấp, nhằm đảm bảo cứu cấp cho các tàu và hàng hóa, cũng như an ninh, vệ sinh và cảnh sát của cầu cảng và nhà phụ của cảng;

4 ° Từ sự đóng góp của thuộc địa;

5 ° Sản phẩm công nghiệp hoặc tự nhiên thuộc phạm vi công cộng.

Chi tiêu ngân sách thường xuyên bao gồm:

1 ° Chi phí nhân viên;

2 ° Chi phí bảo trì và sửa chữa bình thường của công trình, cũng như thiết bị và dụng cụ không được thừa nhận;

3 ° Chi phí cho các công việc mới được thực hiện từ các nguồn lực của ngân sách thông thường;

4. Các khoản tiền cần thiết cho dịch vụ của các khoản vay;

5 ° Tất cả các chi phí hàng năm và thường xuyên, bao gồm cả chi phí kiểm soát.

Thu nhập từ ngân sách bất thường bao gồm các nguồn sau:

1 ° Trợ cấp tùy thuộc vào phân bổ bởi ngân sách của Đông Dương, các thành phố Sài Gòn và Chợ Lớn, và các tổ chức công cộng hoặc tư nhân;

2 ° Tạo ra phí cầu đường địa phương có thể được thiết lập bằng cách áp dụng các quy định về hàng hải hàng hóa;

3 ° tiền thu được từ việc vay có thẩm quyền; Đóng góp;

4 ° Hiến tặng và vật di tặng, vv.

Cảng phải đối mặt với các chi phí sau đây:

1 ° Sửa chữa lớn đặc biệt của công trình, cũng như các thiết bị và công cụ nhượng quyền;

2 ° Công việc mới được thực hiện trên các nguồn lực đến từ các khoản vay hoặc trợ cấp đặc biệt;

          3 ° Mua lại thiết bị và công cụ mới, v.v.

Quy định ngày 15 tháng 10 năm 1914, đã được sửa đổi bởi một loạt các sắc lệnh, được đưa ra trong năm 1922 của Toàn quyền Đông Dương, để mở rộng giới hạn của cảng, như chúng ta vừa nói , và để hoàn thành cơ cấu.

Giống như bất kỳ quy định nào, nó tạo ra nột số phê phán về vấn đề tư chủ mà một số người thấy quá tương đối, ngoài sự chú ý kiểm soát của cơ quan có thẩm quyền cao hơn; hơn nữa, những lời phê phán nàycũng giống như những thứ ngăn cản việc áp dụng luật năm 1912 và 1920 ở Pháp, như chúng ta đã nói ở trên.

Sài Gòn chứng kiến hiện thực sự phát triển của nó lần lượt từ sự gia tắng của đất canh tác như cánh đồng lúa. Do đó, số lượng tàu thuyền thường xuyên đến Sài Gòn đã tăng lên, khi mà cảng còn đáp ứng được nhu cầu, vì người ta chỉ thấy ở đó cách đây vài năm một bến cảng và vài kho hàng, cũng chưa có thiết bị để nâng hàng ngoài một cần trục cũ kỹ và hai ụ nổi thuộc về xưởng quân giới.


Hình 8: Cắt của bức tường cảng (bờ kè) sau khi gia cố.


Hội đồng cơ quan chủ quản rất tích cực trong việc bổ sung các kết quả đạt được bằng cách hiện thực hóa, từ các nguồn cho phép, một chương trình đầu tiên được lập vào năm I917, trong khi một chương trình thứ hai, có tính đến kinh nghiệm thu được, hiện đang được tiến hành thành lập.

                                                                                   (Còn tiếp)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Tết Sài Gòn trăm năm trước ra sao?   Biết những gì xảy ra trong quá khứ xa xưa dường như là mơ ước muôn đời của con người. Bởi trong c...