LAI LỊCH NHỮNG TÊN ĐƯỜNG ĐẦU TIÊN
CỦA THÀNH PHỐ SÀI GÒN
(Phần tiếp theo)

Joseph, Simon GALLIÉNI


(Phần tiếp theo)
FOUCAULT.
Hướng Đông Tây nối đại
lộ Paul-Bert với đại lộ Maréchal Foch.
Trước đó là đường số 35. Nó mang tên đường
de Foucault ngày 30 tháng 3 năm 1906.
Bản đồ 1942
Trong bản đồ 1958 là đường Nguyễn Phi Khanh
DE
FOUCAULT (Louis, François) tới
Nam kỳ cùng với hạm đội của đô đốc CHARNER năm 1861. Ông là thiếu úy chiến hạm
và chỉ huy thứ hai của tàu Laplace. Trong trận đánh vào đồn Kỳ Hòa ngày 25
tháng 2 năm 1861, ông đã bị thương.
FROSTIN. Hướng Bắc Nam. Đường ngắn nối đường Paul
Blanchy với đường Paul-Bert, gần khu vực đường Paul-Bert đổ ra đường Paul Blanchy.
Con đường này mang tên số 42 tới khi hội
đồng thành phố đặt tên mới cho nó vào ngày 30 tháng 3 năm 1906.
Bản đồ 1942
Trong bản đồ 1958 là đường Bà Lê Chân
FROSTIN
(Alexandre, Louis, Marie, Anne) (1841-1861) sinh ở Saint Brieuc (Côtes-du-Nord) ngày 23 tháng 6 năm
1841. Ông là chuẩn úy hải quân hạng 2 khi tham gia chiến dịch ở Viễn Đông.
Năm 1861, ông đến Trung Hoa trên chiến
tàu Impératrice-Eugénie cùng với đô đốc CHARNER. Rồi sau đó ông tham gia chinh
phục Nam kỳ. Trong trận đánh vào đồn Kỳ Hòa ngày 25 tháng 2 năm 1861, ông bị trọng
thương và mất ngày 6 tháng 3 năm 1861 khi ông mới 29 tuổi.
FRYATT. Đường Capitaine. Hướng Tây Bắc – Đông Nam nối đường Paul-Blanchy với đường
Pasteur. Chạy dài theo cạnh phía bắc của văn phòng Compagnie des eaux et
électricité.
Con đường trước đó không tên. Nó được đặt
tên capitaine FRYATT theo quyết đĩnh của hội đồng thành phố ngày 26 tháng 4 năm
1920. Trước đó nó được đề nghị đặt tên là Lusitania.
Bản đồ 1942
Trong bản đồ 1958 là đường Cao Bá Quát
FRYATT
là tên viên đại úy chỉ
huy tàu Lusitania và tàu của ông đã bị ngư lôi Đức đánh đắm vào ngày 7 tháng 5
năm 1915 ở ngoài khơi Kinsale (Irlande) kéo theo 1.198 người.
GAGE.
Hướng Bắc Nam. Nối đường
Jean-Eudel với cảng Yser. Nằm bên trong khu vực của Compagnie des Chargeurs
réunis cạnh cửa kênh.
Con đường trước đó không tên. Nó được đặt
tên theo quyết đĩnh của hội đồng thành phố ngày 23 tháng 6 năm 1930.
Bản đồ 1943
Trong bản đồ 1958 là đường Trương Đình Hội
Ghi chú: Con đường này về sau là đường nội bộ của cảng Sài Gòn.
M.
GAGE sinh ở Saint-Brieuc
năm 1860. Năm 16 tuổi ông bước vào nghề kinh doanh, sau đó bốn năm phục vụ quân
đội với hàm hạ sĩ quan, ông lại về với nghề kinh doanh năm 1889, dưới sự bảo trợ
của Phòng Thương mại. Ông làm việc với anh em nhà Denis ở Bordeaux. Bốn năm
sau, vào năm 1893. Ông chịu trách nhiệm quản lý các quầy Hải Phòng và Hà Nội và
nó vẫn giữ trách nhiệm này cho đến năm 1906. Năm 1906, sau một thời gian nghỉ
ngơi ở Pháp, ông được gọi về để lãnh đạo anh em nhà Denis ở Sài Gòn. Khi đến
mình ở Sài Gòn, ông được bổ nhiệm làm thành viên Hội đồng quản trị thành phố
nơi ông từng là phó chủ tịch. Bầu vào Phòng Thương mại Sài Gòn, ông làm chủ tịch
công ty này từ năm 1910 đến năm 1912. Ông mất năm 1921.
GALLIÉNI. Đại lộ. Hướng Đông Bắc – Tây Nam nối
Sài Gòn với Chợ Lớn. Là đại lộ nối tiếp của Bonard nhưng tầm nhìn bị che khuất
bởi cây cối của quảng trường Cuniac và phía cực nam của nhà ga.
Tới năm 1914, vùng đầm lầy trãi dài ở
Tây nam của nhà ga, Con đường des Marins, cửa ngỏ chính của Chợ Lớn đi về phía
Sài Gòn cũng chị dừng lại ở vùng đầm lầy này.
Ngày 19 tháng 10 năm 1904, thị trưởng Chợ
Lớn đề nghị với thị trưởng Sài Gòn thông qua toàn quyền Đông Dương, về ý kiến của
hội đồng thành phố về việc kéo dài đại lộ Bonard đến đường des Marins. Ý kiến đề
nghị này bị luân phiên từ chối từ phía Sài Gòn trong suốt 12 năm. Đến năm 1916,
việc san lấp đại lộ này mới hoàn tất. Trong 10 năm, một con đường đá ong xấu xí
nối liền hai thành phố này. Chỉ đến năm 1928, đại lộ này mới hoàn chỉnh. Chiều
rộng của nó từ 15 đến 20 mét, đổ đá xanh, nhựa đường và hệ thống chiếu sáng đồng
trục. Chiều dài của nó là 3 km 500 và có hai đường xe tramway.

Bản đồ 1923
Joseph, Simon GALLIÉNI sinh ở Saint-Béat (Haute-Garonne). Sau
khi đào tạo tại Học viện quân sự Saint-Cyr và phục vụ trong Chiến tranh
Pháp-Đức (1870-1971), Gallieni được đưa tới Châu Phi vào giữa thập niên
1870.
Tại Bắc Kỳ,
ông được phong hàm đại tá năm 1896 và chỉ huy chiến dịch chông quân Đề Thám.
Sau đó ông trở về Pháp và được bổ nhiệm thiếu tướng. Ông là Bộ trưởng Bộ Chiến
tranh, từu ngày 28 tháng 10 năm 1915 đến ngày 17 tháng 3 năm 1916. Tuy nhiên, bệnh
tật, ông phải ngừng tất cả hoạt động. Ông qua đời hai tháng sau, ngày 27 tháng
năm 1916 tại Versailles. Năm 1921 chính phủ Pháp truy tặng ông chức thống chế.
GALLIMARD. Hướng Đông Tây nối đại lộ Maréchal-Foch
với đường Martin-des-Pallières.Đường ngắn, song song với kênh Thị Nghè.
Con đường
này mang tên số 32 tới khi hội đồng thành phố đặt tên mới cho nó vào ngày 30
tháng 3 năm 1906.
Jacques,
Léon GALLIMARD sinh ở Meaux (Seine-et Marne)
ngày 14 tháng 4 năm 1825. Ông vào trường bách khoa ngày 1 tháng 11 năm 1845.
Khi ra trường, ông chọn nghề công binh với quân hàm thiếu úy ngày 1 tháng 10
năm 1847. Ông tham gia chiến dịch đầu tiên vào Trung Hoa năm 1857 với Đô đốc Rigault
de Genouilly, tham gia vào cuộc chinh phục Nam kỳ. Ông được vinh thăng Trung Tá
Tham Mưu Trưởng Kỹ thuật tại Algiers trong năm 1869 , ông
trở thành Tham Mưu Trưởng Rennes. Ông là giám đốc của
công sự ở Marseille trong năm 1872, thiếu tướng trong năm 1879, chỉ huy của
Ecole Polytechnique trong 1880 để năm 1883, ông được bổ nhiệm thiếu tướng trong
năm 1885 và tổng thanh tra trong năm 1887.
Jacques, Léon GALLIMARD
GARCERIE. Hướng Tây Bắc – Đông Nam nối quảng trường
Maréchal-Joffre với đường Mayer.
Đường
này còn tên gọi nữa là Catinat prolongée. Nó giữ tên mới nêu trên vào ngày 24
tháng 2 năm 1897. Là phần chạm tới khu vực xa nhất của trung tâm thành phố năm
1887 trong tình trạng tệ hại. Các cư dân đưa kiến nghị lên thị trưởng và giám đố
sở nội vụ về việc cần tu bổ con đường này.
Trong bản đồ 1878 là đường Catinat prolongée
Trong bản đồ 1898 là đường +Garcerie

Trong bản đồ 1958 là đường Duy Tân

Trong bản đồ hiện tại là đường Phạm Ngọc Thạch
Raphaël GARCERIE sinh 6 tháng 10 năm 1836 tại Saint-Laurent
de Cerdagne (Pyrénées-Orientales) và mất ở Sài Gòn ngày 10 tháng 11 năm 1890.
Ông tới Nam kỳ năm 1862 làm nhân viên bưu điện rồi trở thành người khai phá. Sau
đó, ông làm nghề thăm dò khoáng sản và buôn bán gỗ. Làm tư vấn rồi phó chủ
tịch Hội đồng thuộc địa cho đến lúc mất. Ông là nhà cung cấp thanh tà vẹt cho
tuyến đường xe lửa Sài Gòn – Mỹ Tho (1880-1885) và đã lập một xưởng cưa ở Tân
Châu trên sông Cửu Long, thuộc tỉnh Châu Đốc.
GARROS. Đường Roland. Hướng
Tây Bắc – Đông Nam nối đường Espagne trước chợ Bến Thành với đường Taberd (khu
chuồng ngựa của toàn quyền).
Khi mới
thành lập, nó mang tên de Poulo-Condore (quyết định ngày 2 tháng 6 năm 1871). Hội
đồng thành phố đặt tên ban đầu là đường Aviateur-Garros về sau sửa lại là Roland-Garros
trong quyết định ngày 28 tháng 2 năm 1919.
Trong bản đồ 1898 là đường Poulo Condore
Trong bản đồ 1942 là đường Roland-Garros
Trong bản đồ 1958 là đường Thủ Khoa Huân
Roland GARROS (1888-1918). Sinh ngày 6 tháng 10 năm 1888 tại Saint-Denis
de la Réunion. là một trong những phi công người Pháp thời kì đầu
tiên và là một phi công chiến đấu trong Chiến tranh thế giới thứ
nhất.
Roland GARROS
(Còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét