LAI LỊCH NHỮNG TÊN ĐƯỜNG ĐẦU TIÊN
CỦA THÀNH PHỐ SÀI GÒN
(Phần tiếp theo)
Bản đồ năm 1958 ghi là đường Thi Sách
Bá tước DE CORNULIER-LUCINIÈRE
Vị trí về sau của đường COURBET trong bản đồ 1942
Trong bản đồ 1958 là đường Nguyễn An Ninh
Đô Đốc COURBET
Đường Dayot trong bản đồ 1878
Trong bản đồ 1958 là Nguyễn Văn Sâm
Trong bản đồ hiện tại là Nguyễn Thái Bình
(Phần tiếp theo)
CORNULIER
- LUCINIÈRE. Hướng Tây
Bắc – Đông Nam, nối đường Espagne với quảng trường Rigault de Genouilly.
Con đường là một trong những con đường
xưa nhất của Sài Gòn với tên ban đầu là đường số 12. Sau đó trở thành là đường
Thủ Dầu Một bởi một quyết đình ngày 2 tháng 6 năm 1871. Đến năm 1897, trong quyết
định ngày 24 tháng 2 năm 1897, con đường này được đặt tên mới như nêu trên.
Bản đồ năm 1958 ghi là đường Thi Sách
Bá
tước DE CORNULIER-LUCINIÈRE (Alphonse, Jean, Claude, René, Théodore) sinh ở Lucinière (Loire-Inférieure) năm
1811 và vào trường hàng hải khoảng năm 1829. Ông là chuẩn đô đốc khi ông là tạm
quyền thống soái ở Đông Dương. Ông cập bến Sài Gòn ngày 8 tháng 1 năm 1870 bằng
tàu Le Donnai. Tháng 3 năm 1871, ông trở về Pháp và giữ chức thị trưởng Nantes
và mất tại đó năm 1886.
COURBET.
Hướng Đông Đông Bắc –
Tây Tây Nam nối đường Amiral-Roze với đường Schroeder. Đường đổ ra chợ Bến
Thánh.
Cái tên COURBET ban đầu được chỉ định
cho đường Amiral-Dupré trong cuộc họp ngày 23 tháng 11 năm 1885. Nhưng thật ra
cái tên này còn dự tính đặt cho hai con đường ở Sài Gòn nữa. Đó là đường nhỏ thứ
nhất, đổ ra đường Mac-Mahon gần đại lộ Bonard
và được hiểu là giữa nó và đường Monlaü. Nó đối mặt với khu tứ giác của des
Travaux publics.
Vị trí lúc đầu của đường COURBET trong bản đồ 1898
Trong bản đồ 1958 là đường Nguyễn An Ninh
Đô
Đốc COURBET (Amédée, Anatole, Prosper) sinh ở Abbeville (Somme) ngày 28 tháng 6 năm 1827 là một đô
đốc Pháp đã giành được một loạt chiến thắng quan trọng về hải quân và hải quân
trong Chiến dịch Bắc Kỳ (1883-86) và Chiến tranh
Trung-Pháp (tháng 8 năm 1884 đến tháng 4 năm 1885).
CUA. Đường Paulus.Nối đường số 8 với đại lộ Albert-1er. Khu vực Đa Kao.
Đường này lúc đầu là đường số 29. Theo
quyết định của toàn quyền ký ngày 23 tháng 1 năm 1943, tên Paulus Cua dùng đặt
cho con đường này.
Vị trí của đường Paulus Của trong bản đồ năm 1943
Trong bản đồ 1958 là đường Hòa Mỹ. Con đường này về sau chỉ còn là một hẽm lớn
Huỳnh
Tịnh Của hay Huình Tịnh Của (1830-1908)
hay còn gọi là Paulus Của ("Paulus" ở đây đọc là "Phao-lô"),
hiệu Tịnh Trai, quê ở làng Phước Thọ, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà
Rịa (nay là huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu), là một
nhà văn hóa học và ngôn ngữ học có đóng góp xuất sắc trong
việc nghiên cứu, phát triển và truyền bá chữ quốc ngữ trong giai đoạn
đầu, đặc biệt là ở Nam bộ.
DAYOT.
Hướng Đông Nam – Tây Bắc,
nối đường Boresse với đại lộ la Somme.
Ban đầu là đường số 3 sau đó theo quyết
định của DE LA GRANDIÈRE ký ngày 1 tháng 2 năm 1865 thay tên là đường Dayot.
Việc bảo dưỡng con đường này đã bị bỏ
quên từ lâu nhưng năm 1891, các cư dân đường này đề đạt lên thị trưởng việc phục
hồi con đường này lại.
Trong bản đồ 1958 là Nguyễn Văn Sâm
Trong bản đồ hiện tại là Nguyễn Thái Bình
Jean-Marie
DAYOT (tên tiếng Việt: Nguyễn
Văn Trí) là bạn đồng hành với giám mục PIGNEAU DE BÉHAINE sinh ra tại vùng Bretagne giữa thế kỷ 18. Ông là một sĩ quan Hải
quân Pháp và là một trong những nhà phiêu lưu đã phục vụ Nguyễn Ánh, người mà
sau này là hoàng đế Gia Long của Việt Nam.
Jean-Marie DAYOT (bên trái)
DENIS. — Đường des Frères.
Đường cong hình khuỷu, hướng Đông Bắc –
Tây Nam, nối quảng trường Rigaultde-Genouilly với đại lộ Charner.
Con đường là một trong những con đường
xưa nhất của Sài Gòn có cái tên đầu tiên là đường số 5. Đô đốc DE LA GRANDIÈRE
ký quyết định ngày 1 tháng 2 năm 1865 đặt tên là đường Vannier. Đường Vannier
kéo dài tới đường Adran (về sau là đường Guynemer sau khi băng qua kênh Grand
Canal (đại lộ Charner).
Chỉ có phần đầu của con đường mới đổi
tên tức là phần tới đại lộ do quyết định của hội đồng thành phố ngày 20 tháng
10 năm 1937, đó là tên des Frères Denis.
Trong bản đồ 1878 là đường Vannier
Trong bản đồ 1943 là đường Des Frères Denis
Trong bản đồ 1958 là đường Ngô Đức Kế
Gustave
DENIS sinh tại Bordeaux
năm 1837 và mất cũng tại thành phố này năm 1904. Ông là ủy viên hội đồng năm
1869 và chủ tịch phòng thương mại năm 1873.
Alphonse
DENIS sinh tại Bordeaux
năm 1849 và mất ngày 19 tháng 8 năm 1933.
Émile
DENIS sinh tại Bordeaux
năm 1835, là chủ tịch thứ hai phòng thương mại Sài Gòn.
Alfred
DENIS sinh tại Bordeaux
năm 1834, Cùng cộng tác với các anh em của mình nhưng không chịu được khí hậu
đã về Pháp và mất năm 1874.
DIXMUDE.
Hướng Bắc Tây Bắc – Nam
Đông Nam, nối đường Colonel-Grimaud với đại lộ Galliéni. Con đường này vẫn tiếp
tục dưới cái tên là đường Louvain tới cảng Belgique.
Trước khi có cái tên này, con đường đã từng
mang tên là đường ancienne église de Chodui, Trong phiên họp ngày 26 tháng 4
năm 1920, hội đồng thành phố quyết định đặt tên là DIXMUDE.
Trong bản đồ 1929 là đường ancienne église de Chodui
Trong bản đồ 1926 là 2 đường Louvain và DIXMUDE
Trong bản đồ 1958 là đường Đề Thám
DIXMUDE là một thành phố của nước Bỉ. Trận DIXMUDE
còn gọi là trận sông Yser diễn ra từ ngày 18 đến 31 tháng 10 năm 1914.
DO-HUU-VI.
Hướng Đông Bắc – Tây
Nam, nối đại lộ Charner cạnh tòa Justice de Paix với đường Mac-Mahon và kéo dài
tới nhà ga dưới cái tên là đường M. de Monlaü.
Đường Do-huu-Vi là một phần của đường Hamelin.
Trước đó, phần này nối đại lộ Kitchener với đại lộ Charner. Sau khi có công
trình chỉnh trang đại lộ la Somme, con đường này bị cắt làm hai: phần Tây Nam (Kitchener)
giữ tên là đường Hamelin và ngày 29 tháng 3 năm 1917, phần Đông Bắc (Charner) lấy
tên là Do-huu-Vi.
Đỗ
Hữu Vị (1883–1916)
là một phi công người Việt phục vụ trong Quân đội Pháp. Ông sinh ngày
17 tháng 2 năm 1883 tại Chợ Lớn. Ông là con trai út của Tổng đốc
(hàm) Đỗ Hữu Phương (tục gọi là Tổng đốc Phương),
Đỗ Hữu Vị
DOMENJOD.
Nối đại lộ Albert-1er với
đường Mékong.
Đây là con đường tư nhân xây dựng khoảng
năm 1920.
Auguste,
Marie, Gabriel DOMENJOD
sinh ngày 29 tháng 7 năm 1861 ở Saint-Denis, đảo Réunion. Năm 1880 ông sang
Đông Dương. Đầu tiên ông làm việc trong ngành kỹ nghệ như một nhà máy gạo ở Chợ
Lớn . Rồi ông trở thành nhà nhập cảng và sản xuất thuốc lá. Ông cũng tham gia
lĩnh vực nông nghiệp và có một đồn điền cà phê ở An Thông tây. Ông là thành viên
của phòng thương mại, của hội đồng thuộc địa và hội đồng thành phố. Ông mất tại
Sài Gòn ngày 28 tháng 11 năm 1926.
DOUAUMONT.
Đường thứ cấp nối đường
Kitchener với đường Huynh-quang-Tien. Nó song song với đại lộ Galliéni và cảng Belgique.
Đường trước đó không có tên. Hội đồng
thành phố đã đặt tên như nêu trên trong phiên họp ngày 26 tháng 4 năm 1920.
Douaumont là một xã của tỉnh Meuse nằm trên dãy Hauts-de-Meuse
gần Verdun, nơi đó có một pháo đài cùng tên đã bị quân Đức đánh chiếm ngày 25
tháng 2 năm 1915.
DOUDART
DE LAGRÉE. Đường ngắn
hướng Đông Tây nối đường Ormay với quảng trường Rigault-de-Genouilly.
Đường này lúc đầu là đường số 14 bis rồi
quyết định ngày 2 tháng 6 năm 1871 đặt tên nó là Yokohama. Về sau, quyết định
ngày 24 tháng 2 năm 1897 nó đổi tên như nêu trên.
DOUDART
DE LAGRÉÉ (Ernest, Marc, Louis de Gonzague) sinh ở Saint-Vincent de Mercuze (Isère) ngày 31 tháng 3 năm
1823. Ông vào trường bách nghệ năm 1843 và hải quân năm 1845 và là đại úy hải
quân.
Tháng 12 năm 1862, ông lên đường đi Đông
Dương và tới Sài Gòn tháng 2 năm 1863. Ông nhận chỉ huy một tiền trạm thám hiểm
đi ngược dòng Mê Kông. Ông mất vì bệnh ngày 12 tháng 3 năm 1868 tại Toung-Tchouan
và được chôn cất tại nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi.
DOUDART DE LAGRÉÉ
DUCLOS.
Hướng Đông Tây từ đường René-Héraud tới vùng đất bỏ không (vùng
Tân Định).
Con đường này và kể cả những con đường
khác của khu vực này đều được xây dựng vào năm 1928 bởi Compagnie foncière d'Indochine trên mảnh đất sở
hữu của công ty.
M.
Jean DUCLOS là viên chức
quản lý của Société indochinoise de transports và cũng là một trong số các viên
chức quản lý của Compagnie foncière d'Indochine.
DUMORTIER.
Đường Mgr. Hướng Đông Bắc – Tây Nam nối đại lộ
Kitchener (về sau là Général Marchand) với đường Huynh-quang-Tien (khu vực Abattoir).
Lúc đầu là đường số 9. Theo quyết định của
toàn quyền ký ngày 23 tháng 1 năm 1943 tên Dumortier được đặt cho con đường này
dù trước tên Outrey được đề nghị.
Mgr.
Isidore Marie-Joseph DUMORTIER
sinh 6 tháng 4 năm 1869 ở Halluin, giáo khu Saint-Hilaire, địa phận Cambrai
(Nord), là Đại diện Tông tòa Giáo phận Sài Gòn từ 1925 đến 1940.
Mgr. Isidore Marie-Joseph DUMORTIER
DUPRÉ. Đường Amiral. Hướng Đông Bắc – Tây Nam nối đường Catinat với đường Pasteur.
Đó là con đường phía trái của nhà hát thành phố.
Xưa là đường số 11. Nó trở thành là đường
Thu-Duc bởi quyết định ngày 2 tháng 6 năm 1871 và đổi tên như nêu trên vào ngày
24 tháng 2 năm 1897.
Trong bản đồ 1878 là đường Thủ Đức
Trong bản đồ 1926 là đường A. Dupré
Bản đồ 1958 tên đường đổi là Thái Lập Thành
Bản đồ hiện tại là đường Đông Du
Marie
Jules Dupré (25
tháng 11 1813 - 8 tháng 2 năm 1881) là chính khách người
Pháp. Ông sinh tại Albi, làm sĩ quan thuộc quân chủng Hải
quân Pháp, thăng đến chức đô đốc. Ông được bổ nhiệm là thống đốc thuộc địa Réunion (1865-1869)
rồi sau sang Nam Kỳ nắm chức thống đốc từ năm 1871 đến
1874.
Marie Jules Dupré
DURANTON. Hướng Đông Bắc – Tây Nam nối đường Arras
với đường Verdun. Nó đổ ra mặt Tây nam của vườn Tao Đàn.
Jean,
Auguste DURANTON (1858-1908)
sinh 8 tháng 10 nám 1858. Ông tham gia chính quyền ngày 17 tháng 9 năm 1884.
Năm 1906 là công sứ tỉnh Hà Đông. Năm sau ông vào sài Gòn thành chủ tịch hội đồng
thành phố.
DÜRRWELL. Đường Président.
Nối đường Legrand-de-la-Liraye với đường số 29 về sau là Paulus-Cua khu Đa
Kao.
Con đường giữ tên là đường số 7 đến năm
1943. Một sắc lệnh của toàn quyền ngày 23 tháng 1 cùng năm quyết định đổi tên
là Président-Dürrwell.
Louis, George DÜRRWELL sinh ở Guebwiller (HautRhin) ngày 7
tháng 4 năm 1857. Ngày 2 tháng 3 năm 1881, ông đến Sài Gòn với chức danh nhân
viên quản lý thực tập.
Từ năm
1889 đến 1914 ông là luật sư và là chủ tịch Hội “Etudes indochinoises de
Saigon”
(Còn Tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét