Dầu cù là Mac Phsu vang bóng một thời tái xuất
Sai gòn-Gia Định: Đất & Người | sggdpost.com
https://sggdpost.wordpress.com/
Dầu cù là Mac Phsu vang bóng một
thời tái xuất
“Bòn bon si cu la, bánh bao sữa hột gà, dầu cù là Mac Phsu...”,
câu hát quen thuộc của trẻ con miền Nam, Việt Nam, một thời đủ thấy sự thông
dụng và nổi tiếng của thương hiệu dầu cao một thời vang bóng.
Ngưng sản xuất từ năm 1979, những tưởng dầu cù là Mac Phsu bị
khai tử trên thị trường kể từ đó. Nào ngờ vẫn còn hai phụ nữ là hậu duệ của
dòng dõi hoàng tộc Myanmar tại Việt Nam, đang âm thầm gầy dựng lại sự nghiệp của
cha ông. Họ là hai chị em bà Lê Kim Nga và Lê Kim Phụng, hiện đều ở ngưỡng tuổi
70.
Bây giờ nhắc đến dầu cù là Mac Phsu, những người miền Nam ở tầm
tuổi 50 trở lên hầu như không ai không biết. Nó cùng thời với dầu khuynh diệp
Bác sĩ Tín và dầu gió Nhị Thiên Đường nhưng không có đối thủ ở loại dầu cao.
Thậm chí từ thương hiệu dầu cù là Mac Phsu, người ta quen gọi “dầu cù là” để
chỉ tất cả loại dầu cao, kể cả dầu được sản xuất bên Trung Quốc.
Sở dĩ dầu cù là Mac Phsu được ưa chuộng là bởi công dụng trị bá
bệnh của nó, từ chóng mặt, nhức đầu, ho, cảm, sổ mũi đến nhức mỏi tay chân, bị
thương tích chảy máu, bị côn trùng cắn hay bị muỗi đốt… Đặc biệt không như
nhiều loại dầu cù là khác sử dụng chất salicylate làm cho dầu thơm nhưng độc,
khiến dầu nóng hỗn và gây ngộ độc nếu uống, dầu cù là Mac Phsu chỉ gồm các tá
dược tinh túy, đặc biệt tinh dầu khuynh diệp nhập về từ Bồ Đào Nha nên ai nhức
răng, đau bụng uống vào thì an toàn và hết chứng bệnh ngay.
|
Hai chị em bà Lê Kim Nga và Lê Kim Phụng, hiện đều ở ngưỡng tuổi 70 đang âm thầm gây dựng lại sự nghiệp sản xuất dầu cù là của cha ông. |
Bà Lê Kim Nga nhớ lại những năm 1960, gia đình bà ở Sài Gòn nấu
dầu mệt nghỉ mà không đủ bán. Gần trăm công nhân chia nhau làm liên tục ba ca
cho ra 8.000 chai dầu mỗi ngày mà ngoài cửa, các chủ đại lý đứng xếp hàng chờ
để phân phối khắp từ Cà Mau ra đến Huế.
Dầu cù là với thương hiệu Mac Phsu lừng danh đúng như chuyện kể,
hồi còn ở Phnom Penh, một hôm bà Mac Phsu đi ngang qua một ngôi chùa. Có bà
thầy bói ngồi dưới gốc cây bồ đề cổ thụ đã ngoắc tay gọi bà Mac Phsu và phán:
"Sau này tên của bà sẽ được nổi tiếng khắp nơi".Theo lời kể của bà Lê
Kim Nga, gốc gác dầu cù là Mac Phsu của gia đình bà bắt nguồn từ một câu chuyện
khá ly kỳ. Đó là năm 1930, thuở gia đình còn sống ở Phnom Penh, ông Thong Ong
Zan, tức ông ngoại của bà Lê Kim Nga và Lê Kim Phụng, dựa trên nền tảng công
thức nấu dầu cù là của hoàng gia Myanmar nhà vợ, đã khăn gói sang Singapore học
thêm kỹ thuật nấu. Tại xứ người, ông Thong Ong Zan cùng một người đàn ông người
Singapore lai Myanmar thọ giáo một bác sĩ người Anh tên Basythin.Sau khi học
được kỹ thuật nấu dầu cù là tuyệt diệu từ ông bác sĩ này, hai người học trò
thống nhất: Ông người Singapore đặt tên cho dầu của mình là Tiger Balm, nhiều
người Việt sau này quen gọi là “dầu cù là Con Cọp Vàng”, lấy màu nâu đỏ làm màu
đặc trưng. Còn ông Thong Ong Zan gọi dầu của mình là “cù là”, nghĩa là “nước
Myanmar” và lấy màu xanh lục làm màu đặc trưng. Sau khi trở về Phnom Penh, ông
mới thêm tên vợ là Mac Phsu vào làm thương hiệu dầu.Bà Kim Nga cho rằng nhiều
người đã nhầm lẫn bà ngoại, tức bà Mac Phsu là người sáng lập cũng là bà chủ
của hãng dầu cù là mang tên bà. Kỳ thực toàn bộ công thức và kỹ thuật nấu đều
do ông ngoại bà nắm giữ. Ông Thong Ong Zan coi công thức và kỹ thuật nấu dầu cù
là như điều tuyệt mật quyết định vận mệnh thương hiệu dầu của dòng họ. Từ đó
ông đặt ra luật: Chỉ truyền nghề cho con gái trong gia đình với lý do con trai
sẽ khó giữ được bí mật với các cô vợ. Vì lẽ đó, ông chỉ truyền dạy nghề nấu dầu
cù là cho hai con gái trong số sáu người con của ông.Một thời gian dài bà Ong
Zanno và bà Phonlouvemak, hai con gái của ông Thong Ong Zan và bà Mac Phsu,
thay cha sản xuất và bán dầu cù là Mac Phsu, chủ yếu ở Việt Nam. Ông Thong Ong
Zan lúc này chỉ làm nhiệm vụ cố vấn. Bà Lê Kim Nga và bà Lê Kim Phụng, hai
trong số “ngũ long công chúa” của bà Ong Zanno với ông chồng người Việt.Ngay từ
lúc nằm nôi, do sống quây quần cùng gia đình ngoại, hai bà đã nghe được mùi dầu
cù là thơm lừng trong xưởng nhà mình. Lớn lên một chút, hai bà được ông ngoại
trực tiếp dạy cách cân đong các tá dược, rồi công thức cũng như kỹ thuật nấu
dầu cù là Mac Phsu. Nhiều năm nay khi ông ngoại, mẹ và dì Ba là những người nắm
giữ công thức nấu dầu qua đời, chỉ còn hai chị em bà Lê Kim Nga làm chủ bí mật
của dòng họ hoàng gia.Giải thích do đâu mà công thức nấu dầu cù là Mac Phsu trở
nên quý giá, bà Kim Nga bảo rằng ngoài các loại tá dược ghi trên bao bì chai
dầu, hai chị em bà còn thêm vào đó một loại tá dược tuyệt mật. Nếu thiếu nó thì
không thể làm nên đúng chất lượng dầu cù là Mac Phsu. Chính vì vậy, hơn nửa thế
kỷ qua, hai bà chưa từng thấy có bất cứ sản phẩm dầu cù là Mac Phsu giả, nhái
nào trên thị trường.Bà Mac Phsu là con nhà hoàng tộc bởi bà chính là con gái
của hoàng tử Myanmar tên Myngoon Min. Ông sống lưu vong chính trị tại Sài Gòn
từ cuối thế kỷ 19 sau khi xảy ra chính biến trong triều đình Myanmar ở
Mandaday, miền bắc Myanmar. Theo niên giám Đông Dương, ông Myngoon Min từng
sống ở đường Paul Blanchy và đường LeGrand de la Liraye, tức đường Hai Bà Trưng
và đường Điện Biên Phủ ngày nay. Trong 32 năm sống ở Sài Gòn cho đến khi mất,
ông Myngoon có ba người vợ, trong đó có một người vợ Việt. Hai chị em bà Lê Kim
Nga và Lê Kim Phụng là cháu cố của hoàng tử Myanmar và người vợ Việt này.Hậu
duệ của vị hoàng tử Myanmar Myngoon Min phần lớn đều là kỹ sư, bác sĩ, dược sĩ
nhưng đều sang sinh sống ở nước ngoài. Tại Việt Nam chỉ còn lại gia đình bà Lê
Kim Nga. Bốn trong số “ngũ long công chúa” gia đình bà, như hàng xóm vẫn gọi,
vẫn sống độc thân cùng nhau trong căn nhà ở phường An Lạc, quận Bình Tân. Từ
năm 2013 đến nay người chị cả Lê Kim Nga, người em kế Lê Kim Phụng, với tất cả
tâm huyết phải trả được món nợ của lớp hậu sinh, đã cùng nhau tái sản xuất dầu
cù là Mac Phsu của cha ông dưới tên gọi mới là Cao xoa Con Công, bằng đúng công
thức và kỹ thuật nấu của ông ngoại mình năm xưa.
Dù Cao xoa Con Công được thị trường cả nước đón nhận bởi chất
lượng vượt trội nhưng hai chị em bà Kim Nga vẫn ngày đêm canh cánh nỗi lo tiền
nong. “Tôi đã phải đem sổ hồng căn nhà duy nhất này của mấy chị em đi thế chấp
ngân hàng vay đến gần 3 tỷ đồng, cộng với toàn bộ tiền dành dụm mới tạm đủ vốn
gầy dựng lại thương hiệu của gia đình. Giá mà có ai đó hiểu tâm huyết của mấy
chị em tôi mà hùn vốn vào” - bà Kim Nga chia sẻ.
Thời sống tại Sài Gòn, những ngày tháng cuối đời, hoàng tử
Myngoon Min bị Pháp quay lưng, lấy lại các căn nhà đã cấp cho ông trước đó, đẩy
ông vào tình thế không chốn nương thân. Bà Xuyến, người quản lý khách sạn Chiêu
Nam Lầu, tận tình giúp đỡ ông Myngoon, cho ông ăn ở mấy năm liền không lấy
tiền. Để đền ơn, hoàng tử Myngoon Min tặng bà Xuyến công thức nấu dầu cù là bí
truyền của hoàng gia Myanmar, chính là công thức mà ông Thong Ong Zan, con rể
của hoàng tử, sau này dùng để sản xuất dầu cù là Mac Phsu. Bà Xuyến sau đó đã
tặng công thức này lại cho nhà chí sĩ yêu nước Nguyễn An Ninh, giúp ông một vỏ
bọc người đi bán dầu cù là hoàn hảo để gặp gỡ các chí sĩ yêu nước khác.Dầu cù
là Nguyễn An Ninh bào chế theo công thức hoàng gia Myanmar bán đắt như tôm tươi
vì quá hiệu nghiệm. Đến mức người dân Hóc Môn, Bà Điểm có bài thơ: “Cù là hay
lắm mấy ông ơi/ Dầu hiệu An Ninh thí nghiệm rồi/ Quệt thử bên hông, chùm mật
nhảy/ Uống vào trong bụng, huyết tim dôi…”.Theo Pháp Luật TP HCM
|
Dầu cù là Mac Phsu được quảng bá trị "tứ thời cảm mạo". |
Cù
Là Mac - Phsu & Hoàng Tử Lưu Vong Miến Điện
Trong các nước ở Đông Nam Á thì Miến Điện, Thái Lan, Việt nam và
Indonesia là những nước lớn, có tài nguyên dồi dào và tiềm năng hơn các nước
khác. Trước kia từ thế kỷ 19 đến giữa thế kỷ 20, Miến Điện là nước sản xuất và
xuất khẩu gạo lớn nhất ở Đông Nam Á. Ngày nay Miến Điện trên con đường mở cửa,
cải tổ kinh tế và chính trị, và ta có thể nói là trong tương lai nước này có
đầy triển vọng trở thành một nước giàu có lớn mạnh sung túc ở Đông Nam Á như
xưa kia.
Rất ít người Việt để ý đến một sự kiện ở Saigon, Việt Nam có liên
quan đến lịch sử Miến Điện ở giai đoạn vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Đó
là sự lưu vong của hoàng thái tử Myingun sau khi xảy ra chính biến trong triều
đình Miến Điện ở Mandaday, miền bắc Miến Điện, vào năm 1866.
Ông Hoàng này được Pháp coi là có thể dùng sau này để tranh
giành ảnh hưởng với người Anh ở Thái Lan (4). Hoàng thái tử Myingun Min trốn
khỏi Miến Điện sau cuộc khởi loạn ở Mandalay cùng với người em là Myingon Daing
vào năm 1866, giết chú mình là Kanaung (tức em của Vua cha Mindon Min) được coi
là kế vì Vua, và định giết hay bắt phế Vua Mindon để mình lên ngôi. Kanaung bị
đâm chết nhưng Vua Mindon thoát được, kế hoạch khởi loạn của Myingun thất bại
và sau đó Myingun bắt buộc phải trốn tránh chạy khỏi Mandalay.
Đây là thời điểm đen tối của lịch sử Miến Điện. Kanaung là người
thông suốt thời cuộc và cùng với Vua Mindon cố gắng cải tổ đất nước Miến Điện
sau khi phần phía Nam đất nước trong đó có thủ đô Rangoon đã rơi vào tay người
Anh. Kanaung đã gởi người đi học các nước phương Tây, canh tân hóa xã hội với
chính sách ngoại giao mở rộng. Nhưng tiếc thay, công việc chưa hoàn tất thì ông
đã bị cháu mình là Myingun giết mất. Kanaung lúc đó và cho đến ngày nay được
người Miến rất quý trọng.
Không được người Anh, vì muốn giữ hòa khí với triều đình và dân
Miến Điện, cho trú ở các vùng thuộc Anh ở nam Miến Điện, Myingun bị người Anh
quản lý ở Benares, Ấn Độ. Năm 1882, Myingun thoát chạy khỏi Benares đến Chandernagore
thuộc Pháp, Colombo và cuối cùng là thành phố Pondichery thuộc Pháp ở Ấn Độ vào
năm 1884 và sống ở đó nhiều năm hy vọng đi đến vùng Shan ở Đông bắc Miến Điện
tập hợp lực lượng lấy lại ngai vàng qua ngã Nam Kỳ, Siam. Nhưng sau khi Anh
chiếm Mandalay phế Vua cuối cùng Thibaw vào năm 1885 thì ông không còn đặt kỳ
vọng đến vùng Shan khởi nghĩa, sau đó ông được phép đến Saigon. Theo báo “Le
Temps” thì Mingoon đến Saigon vào đầu tháng 11 năm 1889 (7). Ông sống
lưu vong 32 năm ở Saigon cho đến khi ông mất.
Theo niên giám Đông Dương 1908, Myingun có địa chỉ ở đường Paul
Blanchy (Hai Bà Trưng ngày nay) “128. M. Mingonn, prince de Birmanie”.
Nhưng niên giám 1909 không thấy tên và niên giám 1910 cũng trên đường Paul
Blanchy nhưng ở số “142. Th. J Myngoon, prince de Birmanie fils”.
Niên giám 1911 cho biết Myingun trú ngụ ở số 90 đường LeGrand de la Liraye (nay
là đường Điện Biên Phủ) “90. rue Legrand de Liraye, Myngoon, prince de
Birmanie”). Niên giám 1912 thì lại ghi là ở số 192 trên cùng đường.
Lúc đầu tạm thời người Pháp cho Hoàng tử Myingun ở trong lúc tìm
một cơ hội có thể dùng ông được. Ngoài việc cho ông Hoàng Miến Điện Myingun cư
trú ở Saigon, người Pháp cũng đã cung cấp cho ông một số tiền để sinh sống. Có
thể các địa chỉ trên là các chỗ của gia đình ông và con cháu của ông ở Saigon.
Myingun Min có 3 vợ trong đó có một người là người Việt, ông để lại các con
cháu ở Saigon khi ông mất tại đây vào ngày 20 tháng 9 1921.
Trong tiểu sử về các nhà sư Miến Điện, thì ngài Mahasi Sayadaw,
là nhà sư nổi tiếng của Miến Điện trong đầu thế kỷ 20 (1904-1982). Sayadaw có
nói đến con cháu của Hoàng tử Myingun ở Việt Nam. Ngài Sayadaw đã đi truyền
giảng phương pháp thiền Vipassana ở nhiều nước và đã có dịp ghé đến Saigon. Đây
là đoạn có liên hệ đến thông tin về vị Hoàng tử Miến Điện Myingun sống ở Saigon
lúc bấy giờ (2)
Sayadaw và đoàn tùy tung cũng đi thăm Việt Nam từ Cam Bốt. Lý do
cho chuyến thăm này là do lời mời của một người có tên là bà Daw Phyu, xuất
thân từ Miến Điện. Daw Phyu (bây giờ chắc ở Pháp) là con gái của vị Hoàng tử có
tiếng Myingun. Bà Daw Phyu là một thương gia có thế lực ở Việt Nam và rất giàu
có. Bà lập gia đình với một người Việt Nam và có các con trai và gái và các
cháu nội ngoại. Bà sản xuất, phân phối và buôn bán dầu trị bệnh. Cũng giống như
dầu “Tiger Balm” nổi tiếng ở Miến Điện, dầu (cù là Mac Phsu)
của bà Daw Phyu được ưa chuộng ở khắp Đông Dương. Dầu“Tiger Balm” có
màu đỏ, trong khi đó dầu của bà Daw Phyu ở Đông Dương có màu xanh lá cây.
Vì bà Daw Phyu là con gái của Hoàng tử Miến Điện Myingun nên
trong bà đã nuôi dưỡng một tinh thần quốc gia, và máu Hoàng tộc vẫn còn chảy
mạnh mẽ trong các mạch máu của bà mặc dầu bà đã là công dân ở xứ Đông Dương.
Khi nghe tin nhà sư Sayadaw và các phật tử cúng dường từ Miến
Điện đang ở Cam Bốt, bà Phyu đã đi sang Phnom Penh và khẩn nài thỉnh mời ngài
Sayadaw và phái đoàn đến Việt Nam.
Mục đích chính của sự thỉnh mời đoàn viếng Việt Nam là bà muốn
nhờ nhà sư Sayadaw đọc kinh parittas (kinh đọc dùng để xua đuổi ác tà và được
công quả) sau khi đã trân trọng ban phát“Saranagamanam” i.e. “Của Tam Bảo” hay
các đồ vật tôn giáo tại mộ của cha bà là vị hoàng tử quá cố Myingun (như theo
phong tục của phật tử Miến Điện ở lễ chôn cất)
Ngài Sayadaw và đoàn tùy tùng đến Saigon bằng phi cơ (của một
hãng hàng không). Khi đến Saigon, họ đến nghĩa trang nơi Hoàng tử Myingun an
nghỉ. Các nghĩa trang ở Việt Nam rất khác các nghĩa trang ở Miến Điện. Đoàn của
Thượng tọa Sayadaw nhận thấy là các nghĩa trang ở Saigon rất ngăn nắp và được
bảo quản kỷ lưỡng. Sau khi lễ ở mộ của Hoàng tử Myingun được hoàn thành và sau
lúc ban ân lành cho người quá cố công quả đã được dùng chung sau lễ được chấm
dứt. Thượng tọa Sayādaw và phái đoàn đã đi thăm thành phố Saigon, đặc biệt là
tham quan các chùa và tu viện Phật giáo. Sau đó, cả đoàn trở lại Cam Bốt và từ
đó bay trở về Miến Điện, qua Thái Lan, nơi đoàn quá cảnh không lâu.
Những người sống ở Saigon trong những năm xưa ở thập niên 1960
đều có biết đến dầu cù la màu xanh hiệu “Mac Phsu”. Dầu bạc
hà “Mac Phsu”, cũng như dầu khuynh diệp của bác sĩ Tín, rất phổ
thông đuợc nhiều tầng lớp dân chúng dùng ở khắp miền Nam.
Dầu “cù là” là dầu từ Miến Điện. Người Nam bộ
xưa kia gọi nước Miến Điện là Cù Là. Vào cuối thế kỷ 19 người Cù Là (Miến Điện)
đã đến miền Tây buôn bán. Ở gần Rạch Giá, có xóm gọi là xóm Cù Là, thuộc làng
Vĩnh Hòa Hiệp, cách chợ Rạch Giá khoảng 13 cây số, nơi họ đến dịnh cư và buôn
bán (5) (6).. Xóm Cù Là ở Rạch Giá ngày nay hãy còn tên.
Tổng đại lý của dầu cù là Mac Phsu tại Sài Gòn trước đây nằm
trên đường Frère Louis (nay là đường Nguyễn Trãi, quận nhất), gần nhà thờ Huyện
Sĩ, cách cổng xe lửa (nay đã bỏ) chỉ có mấy căn phố. Phía sau lưng nó nay là
đường Phạm Ngũ Lão, ngó qua chợ Thái Bình. Dầu cù là Mac Phsu được quảng cáo
khắp nơi ở miền Nam Việt Nam như trên báo chí, biển quảng cáo ở các chợ (như
chợ An Đông, chợ Thái Bình,..), ở các hiệu buôn, hiệu thuốc. Dầu của bà Daw Pyu
được quảng cáo là dầu cù là, dầu gió hay dầu bạc hà chữa trị “tứ thời
cảm mạo”.
Daw Pyu mỗi lần đi quảng cáo dầu cù là, có lúc lại dẫn theo một
con voi, con voi này sau được giao cho thảo cầm viên sở thú Saigon. Tên con voi
là Xà Kum.
Như đã đề cập ở trên, bà Daw Phyu là một người con hiếu thảo và
mộ đạo Phật như nhiều người Miến Điện khác. Khi nghe tin thượng tọa Sayadaw từ
Miến Điện sẽ đến Cam Bốt, bà Daw Phyu đã thân hành đi đến Phnom Penh để gặp
ngài và mời ngài đến Saigon, đài thọ tất cả chi phí để làm lễ theo tục lệ Phật
giáo tại mộ của cha bà là hoàng tử Myingun. Từ Cam Bốt, thượng tọa Sayadaw và
các thân tín tháp tùng đến Saigon để hoàn thành như yêu cầu của một người đồng
hương mộ đạo. Sau năm 1975, công ty sản xuất dầu Mac-Phsu không còn hoạt động,
bà Daw Phyu và đa số con cháu đã đi định cư ở nước ngoài. Dầu cù là Mac-Phsu
nay chỉ còn trong ký ức của những người Saigon cũ.
Cuộc sống của ông hoàng Miến Điện Myingun ở Saigon
Trong một bài phóng sự đăng trên tờ báo “The Singapore
Free Press and Mercantile Advertiser”ngày 16 tháng 9 1893 của Tsaw Hla
Phroo đã viết về cuộc phỏng vấn của một người Miến vùng Tenassarim với ông
hoàng Myingun (1). Bài này cho ta thấy rõ hơn về con người và cảm nghĩ của
Myingun về cuộc sống ở Saigon và suy nghĩ của ông Myingun về vấn đề chính trị
giữa Miến Điện và Pháp.
Nhân vật người Miến Điện này đã tả thành phố Chợ Lớn lúc bấy giờ
nối với thành phố Saigon qua hai phương tiện giao thông: đường thủy qua các ghe
đò và bằng chuyên chở công cộng qua các xe“tram” chạy bằng hơi nước
đỗ ở các trạm giữa Saigon và Chợ Lớn. Vé đi xe “tram” có 3
hạng: hạng nhất, hạng nhì và hạng ba. Ông đi Chợ Lớn và ở đây ông đã gặp Hoàng
tử Myingun. Myingun mặc âu phục nhưng trên đầu vẫn mang khăn đầu “gaung
baung” truyền thống Miến Điện.
“.. Myingun đã hỏi tôi tin tức về các bộ trưởng trước đây trong
triều đình, tình hình chung ở Miến Điện và người dân Miến nghĩ gì về ông hoàng
Myingun. Tôi đã trả lời là người dân Miến hầu như không còn nhớ đến Myingun, và
cho rằng Myingun không thể có hy vọng gì danh lại đất nước ra khỏi tay người
Anh khi mà chính Myingun cũng không làm được gì với cha của mình. Đến đây thì
Myingun đã ngắt lời tôi, nói rằng không phải bất cứ cố gắng nào cũng dẫn tới
thành công, và ông đang mong đợi sẽ lấy lại được Miến Điện ra khỏi tay người
Anh với sự trợ giúp của người Pháp, mà họ đã hứa với Myingun khi Pháp có chiến
tranh với Anh. Tôi hỏi ông hoàng Myingun là người Pháp sẽ cho ông cái gì khi họ
lấy được Miến Điện. Ông nói rằng ông hy vọng là chiến tranh giữa Pháp và Anh sẽ
xảy ra nay mai và ông đã nhấn mạnh hỏi tôi chú ý đến điều ông nói là người Anh
sẽ đánh nhau với Pháp vào khoảng ba hay bốn tháng nữa về vấn đề tranh chấp ở
Siam. Lúc đó người Pháp sẽ gởi một lực lượng đến Miến Điện và người Nga sẽ gởi
quân đánh Ấn Độ; người Anh một mình đánh với với hai quân thù vì thế sẽ thua
trận. Người Pháp sẽ lấy Siam và Miến Điện sẽ được giao lại cho Myingun bởi vì
người Pháp một mình sẽ không thể nào cai quản được hai xứ.”
Qua sự suy nghĩ trên của Myingun, ta thấy ông hoàng hoàn toàn
ngây thơ và kém cỏi trong sự hiểu biết về phương diện chính trị và ngoại giao
lúc bấy giờ. Lẽ nào người Pháp tổn phí sức lực và vô vụ lợi với ông như vậy.
Ông thực sự chỉ là con cờ trong cuộc tranh danh ảnh hưởng giữa Anh và Pháp ở Siam
và Miến Điện. Người Pháp muốn dùng ông như là công cụ khi đối phó với Anh. Nếu
người Anh làm khó dễ với Pháp trong sự liên hệ ngoại giao đặt ảnh hưởng Pháp ở
Siam thì người Pháp có thể đánh tiếng là họ sẽ gởi Myingun lên Chieng Roon ở
bắc Lào tiếp giới Miến Điện để hợp tác với tiểu quốc Shan khởi nghĩa quấy rối
đánh người Anh ở Miến Điện.
Bài báo viết tiếp:
“Tôi hỏi ông Hoàng Myingun là người Pháp có lực lượng mạnh không
ở Á châu, trong khi người Anh đã có lực lượng mạnh, như 3 “lakhs”(1) ở Ấn Độ.
Và trước khi người Pháp và Nga mang quân từ Âu châu sang thì thuộc địa Pháp ở
Đông Dương đã bị tấn công và mất vào tay người Anh. Myingun nói rằng lực lượng
ở Ấn Độ không thể được sử dụng hết được vì còn phải để lại để phòng ngự dẹp
loạn khi người bản xứ nghe tin người Nga đến. Myingun không tin là tất cả các
vua ở các tiểu quốc Ấn Độ đều trung thành. Cuối cùng ông cũng nói rằng
ông tuy vậy sẽ rất hài lòng và cám ơn nếu người Anh để cho ông cai trị vùng
Kyaing Ton, Kyaing Chaing và Kyaing Sen. Ông đâu biết là Kyaing Chaing và
Kyaing Sen đã được trao cho Siam và Kyaing Ton chịu thần phục với người Anh.
Ông cứ tưởng là các tiểu quốc (States) này vẫn ở trong tay người Trung Quốc như
là trước đây các tiểu quốc này còn chịu dưới sự chi phối của hai nước Miến Điện
và Trung Quốc.”
Như vậy, đến đây thì ta biết là Myingun cũng không theo dõi và
nắm được tình hình lúc bấy giờ ở Miến Điện
“Tôi nói với ông Hoàng là ngay cả nếu người Anh bị quân Pháp và
Nga đánh bại, người Pháp và Nga sẽ không đời nào trả lại Miến Điện lại cho ông,
vì nước này rất giàu có phong phú tài nguyên. Nghe đến đây, ông hoàng thở dài.
Tôi nói là còn có một hy vọng ông lấy lại Miến Điện nếu ông đã tin tưởng vào
người Anh và được họ bảo vệ khi còn ở Miến Điện. Ông đã bỏ lỡ đánh mất cơ hội
trở thành vua Miến Điện; bởi vì ông có thể đã được thay thế người em của ông,
vua Thibaw (3), khi Thibaw bị truất phế nếu lúc đó ông đã được người Anh bảo
vệ, ông sẽ không bao giờ còn có cơ hội nữa khi mà ông hiện nay đang được người
Pháp nuôi dưỡng.
Ông hỏi tôi là ai và người Anh sẽ cho ông những gì khi ông chịu
thần phục họ. Tôi nói với ông tên tôi là Maung Pyu, xuất thân từ thành phố
Moulmein (2) và tôi là thương gia buôn bán gạo và gỗ trên đường đi Trung quốc
để thông thương. Ông hoàng không tin lời tôi nói. Tôi nói với ông là người Anh
chắc chu cấp cho ông tương đương giống như là người Pháp đang chu cấp cho ông ở
Saigon là 300 dollars cộng với ăn ở chu toàn.
Theo tôi thì dường như ông muốn được chu cấp nhiều hơn, và đất
đai để các người hầu ông và gia đình họ hàng khai thác theo ý ông và ông đã có
lẽ đã trở lại với người Anh nếu tình hình và vấn đề ở Siam lúc đó không căng
thẳng nguy kịch.
Tin đồn lúc này ở Saigon là người Pháp đã tuyên chiến với Siam
và người Anh nhảy vào cứu Siam. Ông tin vào tin đồn này và hy vọng người Pháp
sẽ gởi ông trở lại Miến Điện. Tôi dám chắc là người Pháp đã làm cho ông tin như
vậy. Ở Saigon, họ xôn xao phấn khởi bởi vì có lúc họ không có thông tin gì
trong ba ngày vì điện tín đã bị cắt. Một trung đoàn người An Nam đã được gởi đi
vùng song Cửu Long nhưng trong vòng hai tuần khoảng 400 trong số 600 hay 700
binh lính đã chết vì bệnh dịch tả. Luật động viên đã được ban hanh và cứ mỗi
trong 3 hộ gia đình người An Nam là phải cấp 1 người vào lính. Người Miến Điện
chúng ta có muốn luật động viên như vậy không?
Ông Hoàng lúc này đã 50 tuổi và tóc bạc nhưng ông vẫn còn khỏe
mạnh. Không ai khi chưa gặp ông khi trướ, nhận ra được hay có thể nhận ra được
ông qua sự mô tả của chính quyền. Ông có ba người vợ, 3 con và 3 người con của
em ông đã mất, Myingon Daing.
Ông thì không uống rượu nhưng có rượu để tiếp khách, và ông mời
tôi uống, nói rằng trước kia ông uống rất nhiều trở thành một người vô lại tất
trách, bây giờ thì ông đã thay đổi và dốc lòng vào tôn giáo. Ông nhờ tôi nói
điền này lại cho Gaung Dauks và Gaung Oks(4) nếu tôi gặp họ. Tôi hiểu là ông
mong nhận được sự giúp đỡ của các nhà sư.
Tôi gặp một sĩ quan hải quân Pháp ở Saigon, đã mang hàng đóng
từng kiện cho một tàu chiến quá các thác lên thường nguồn song Mekong. Tàu này
hiện đang ở đó. Ông ta rất là lễ độ và lịch sự, như người Pháp thường là vậy.
Theo ông ta nói thì thuộc địa Pháp ở Đông Dương có dân số 18 triệu và quân số
là 35,000. Ông nói là Pháp sẽ chiếm được Siam nhưng hiện giờ thì Pháp chưa sằn
sàng. Khi tôi nói với ông ta là người Anh sẽ ngăn chặn, ông ta nói là người Anh
xen vào chuyện của người khác và không táo tợn xen vào chuyện chính trị ở lục
địa Âu châu như khi họ ở ngoài này.
Vì tin đồn về chiến tranh xảy ra giữa Anh và Pháp về vấn đề
Siam, nên tôi đã không đi Trung Quốc nhưng tôi hy vọng sẽ đi được trong các dịp
khác, đi cả Trung Quốc và Nhật.
Những gì mà nhà báo Tsaw Hla Phroo năm 1893 đã viết như trên, ta
cũng không loại trừ sự thiên vị trong ý kiến của ông về ông hoàng Myingun. Tuy
vậy nó cho ta thấy một số thông tin về cuộc sống của Myingun ở Saigon. Thời
điểm cuộc gặp gỡ giữa ông hoàng Myingun và người đồng hương của ông vào năm
1893 xảy ra hai năm sau khi hoàng thái tử Nga, mà sau này là Sa hoàng Nicolas
II, vị Sa hoàng cuối cùng (1868-1918) trong lịch sữ Nga viếng Saigon vào ngày
21 tháng 3 1891 trong chuyến viễn du đi nhiều nước như Siam, Đông Dương, Trung
Quốc và Nhật. Hạm đội hải quân Nga và vị Sa hoàng tương lai được đón tiếp trọng
thể ở cảng Saigon, có cổng chào ở công trường Rigault de Genouilly (ngày nay là
công trường Mê Linh).
Nhiều người dân được Pháp vận động và những người tò mò đứng
chen xem đoàn xe ngựa và kỵ binh tùy tùng của Thái tử Nga đi trên đường phố
Saigon như trên đường Catinat, đại lộ Norodom. Trong những ngày viếng thăm có
buổi dạ tiệc ở dinh Thống đốc do Toàn quyền Piquet chiêu đãi, dạ vũ trên tàu
hải quân “La Loire”, xem Opera Giroflé-Girofla ở nhà hát, đến Chợ
Lớn xem múa lân ở rạp người Hoa, đến vườn thành phố, đi săn… (9) (10). Như vậy
thì ông Hoàng Myingun lúc đó ở Saigon chắc chắn biết được sự liên hệ tốt đẹp
của người Pháp và Nga.
Các con của ông hoàng Myingun ở Paris năm 1890.
Cả hai mất khi lưu vong ở Sài Gòn năm 1910.
Ông Hoàng Myingun tin rằng người Pháp và Nga sẽ là đồng minh
đánh người Anh ở Ấn Độ, Miến Điện và Siam nếu quân Anh tấn công nước Siam. Điều
này cũng có cơ sở nhưng ông đã đánh giá quá cao sức lực của Pháp và Nga và đánh
giá thấp lực lượng Anh lúc bấy giờ, như trong bài báo trên cho thấy.
Sau này như ta biết là Pháp không muốn gây khó khăn với Anh và
trở thành đồng minh với Anh trong những năm đầu thế kỷ 20 đến hết thế chiến thứ
nhật. Số phận của ông hoàng Myingun trở thành một quá khứ quên lãng của người
Pháp.
Có thể ảnh hưởng của Myingun không còn như hồi còn ở Miến Điện
lúc xưa, nhưng sau này vẫn còn một số người nhớ tới ông Hoàng lưu vong ở
Saigon. Năm 1942, khi quân đội Nhật đánh chiếm Miến Điện và hổ trợ nhà kháng
chiến yêu nước chống Anh, ông Aung Sang (mà bà Aung Sang Suu Ki là con gái) lập
đội quân Burma Independence Army (BIA) trở lại giải phóng Miến Điện. Lúc ấy,
Aung Sang để lấy được sự ủng hộ của dân chúng, đã ngầm khuyến khích sự tuyền
truyền cho là đại tá Keiji Suzuki, một sĩ quan Nhật người giúp đỡ sự thành lập
quân kháng chiến BIA, là hậu duệ của Hoàng tử Myingun, nay trở lại phục vụ và
lãnh đạo trong đạo quân BIA đánh người Anh để lấy lại ngai vàng (8).
Nhưng sau này khi chiếm được Miến Điện, người Nhật viện cớ là
BIA quá lớn và thiếu kỹ luật nên đã bãi bỏ BIA và thành lập một đội quân nhỏ
hơn, gọi là Burma Defense Army (BDA). Người Nhật cho Miến Điện độc lập với một
chính phủ bù nhìn trong khối Đại Đông Á. Lúc này Aung Sang mới biết là người
Nhật còn tệ và ác hơn người Anh và vì thế sau này ông đã hợp tác với đồng minh
đánh lại Nhật.
Sự liên hệ giữa Việt Nam và Miến Điện trong lịch sử không có
nhiều và ít được đề cập đến, nhưng sự kiện ông Hoàng tử Myingun lưu vong ở
Saigon và hậu duệ của ông đã có đóng góp một phần nhỏ vào đời sống kinh tế và
văn hóa ở Việt Nam vào cuối thế kỷ 20 cũng là một sự kiện đáng được nhắc đến.
Nguyễn Đức Hiệp (sggdpost)
Chú thích:
(1) Một “lakh” tương đương với 100 ngàn quân
(2) Moulmein (Mawlamyine) la` thành phố thuộc vùng người Môn,
Nam Miến Điện, giáp giới với Thái Lan. Moulmein ở ngay cửa sông Salween với
vịnh Bengal
(3) Vua Thibaw, có họ hàng với Myingun, kế vị vua Mindon trị vì
từ năm 1878 đến 1885. Khi mới lên ngôi, Thibaw đã giết nhiều người trong hoàng
tộc, các con của vua Mindon. Vì sự tàn ác này, Thibaw không được long người.
Trong thế cờ tranh danh ảnh hưởng giữa Anh và Pháp, Thibaw ngã thiên về Pháp.
Không lâu sau, chiến tranh lần thứ ba giữa Anh và Miến Điện xảy ra, vua Thibaw
thua trận, Mandalay và lãnh thổ cuối cùng ở bắc Miến Điện năm 1886 bị xác nhập
vào thuộc địa Anh cho đến khi Miến Điện độc lập vào năm 1948. Thibaw là vị vua
cuối cùng của triều đại Konbaung.
(4) Gaung Oks và Gaung Dauks là chức vụ trong hàng tăng sĩ đạo
Phật ở Miến Điện. Các vị sư chủ trì ở các chùa bầu ra ngài Thathanabaing làm
chủ tịch giáo hội Phật giáo. Dưới ngài Thathanabaing là các chức Gaung Oks, mỗi
Gaung Oks lo cho một huyện và có một Gaung Dauks trợ giúp.
Tham khảo:
(1) Tsaw Hla Phroo, France Burma and the Myingun prince, The
Singapore Free press and Mercantile Advertiser, 16 September 1893. pp. 2, http://newspapers.nl.sg/Digitised/Article/singfreepressb18930916.2.7.aspx
(2) Biography of The Venerable Mahasi Sayadaw, http://static.sirimangalo.org/mahasi/Biography.htm
(3) Annuaire général Administratif, Commercial et Industriel de
l’Indo-Chine, 1910, 1911, Imprimerie F.-H. Schneider, Hanoi
(4) Maung Maung, Daw Pyu la Mac Phsu, in “Dr. Maung maung:
gentleman, scholar, patriot”, compiled by Robert Taylor, ISEAS Publishing,
Institute of Southeast Asian Studies, Singapore, 2008.
(5) Sơn Nam, Việc khẩn hoang vùng Rạch Giá, Tập san Sử Địa, số
19-20, Sài Gòn, 1970, tr.178.
(6) Sơn Nam, Hồi ký Sơn Nam (Tập 1), Nxb Trẻ, 2001.
(7) Le Temps, No. 10411, 07/11/1889.
(8) Stephen McCarthy, The polical theory of tyranny in Singapore
and Burma: Aristotle and the rhetoric of benevolent despotism, Routledge,
London and New York, 2006.
(9) Maurice Leudet, Nicolas II Intime, Editeur F. Juven, Paris,
1898.
(10) George Dürrwell, Ma chère Cochinchine, trente années
d’impressions et de souvenirs, février 1881-1910 , E. Mignot (Paris), 1911
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét