Bài này được trích dịch từ chuyên đề GUIDE HISTORIQUE DES RUES DE SAIGON của ANDRÉ BAUDRIT.
LAI LỊCH NHỮNG TÊN ĐƯỜNG ĐẦU TIÊN
CỦA THÀNH PHỐ SÀI GÒN
(Phần tiếp theo)
TESTARD. Hướng
Đông Bắc – Tây Nam nối quảng trường Maréchal-Joffre với đường
Verdun.
Đầu tiên tên là đường Larclause
nối dài. Tên sau này được đặt vào ngày 28 tháng 2 năm 1897.
Jules,
Marcelin, Albert TESTARD
sinh ngày 17 tháng 11 năm 1814. Ông vào
quân đội thuộc địa năm 1833. Ông từng là chỉ huy tại Nouméa, Nouvelle-Calédonie.
Năm 1861, ông đến Sài Gòn phục vụ dưới quyền của đô đốc CHARNER. Ông là thiếu
tá thuộc trung đoàn thứ 3 hải quân. Ông chết trong trận đánh đồn Kỳ Hòa.
THÉVENET. Hướng Đông
Bắc – Tây Nam nối đường Mac-Mahon với đường Verdun.
Đường Thévenet được xây dựng hai lần: Phần
thứ nhất từ đường Mac-Mahon đến đường
Barbé hồi đầu thế kỷ 20; phần thứ hai từ đường Barbé đến đường Verdun vào năm
1908.
Đầu tiên là đường số 6, tên sau này được
đặt vào ngày 30 tháng 3 năm 1905.
THÉVENET đến Sài Gòn năm 1897 và là kỹ sư cầu đường,
giám đốc nha Công chánh Nam Kỳ.
THOMSON. Hướng Tây Bắc – Đông Nam nối đường Mayer tới đường Legrand-de-la-Liraye và chạy dọc theo mặt
đông bắc nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi.
Năm 1906, một kiến nghị tên là FONTAINE của
chánh ủy viên Troupes coloniales đưa lên hội đồng thành phố nên đặt một cái tên
cho con đường số 9 nơi ông ta cư ngụ. Đế nghị này được chấp thuận với cái tên
là THOMSON, người kế vị của LE MYRE DE VILERS.
Về sau với quyết định ngày 23 tháng 1
năm 1943, cái tên Paulin VIAL đã thay thế tên cũ.
Bản đồ 1943 là đường Paulin VIAL
Charles,
Antoine, Francis THOMSON
sinh ngày 25 tháng 9 năm 1845 tại Mustapha Pacha ngày nay là Sidi M'Hamed, quận
Algiers, và qua đời tại Marseilles vào ngày 9 tháng 7 năm 1898, là một quan chức
và nhà ngoại giao Pháp, thống đốc của Nam kỳ 1882-1886.
Francis THOMSON
TRUONG-MINH-KY. Hướng Đông
Bắc – Tây Nam nối đường Larégnère với đường Flandin. Là con đưởng hẹp và ngắn, nó
còn kéo dài tới đường Lacant rồi đường Verdun.
Theo lời đề nghị của ông TRAN THAI NGUYEN
mong muốn hội đồng thành phố đặt tên Trương Minh Ký cho một đường. Người ta đã
lấy một phần của đường Lacant để đặt tên này.
Về sau quyết định của toàn quyền ký ngày
23 tháng 1 năm 1943 đã lọai bỏ tên Lacant và con đường này hoàn toàn mang tên
Trương Minh Ký.
Bản đồ 1958 tên không đổi
Ghi chú: Bản đồ hiện tại là đường Nguyễn Thị Diệu
Trương
Minh Ký sinh tại Chợ Lớn
ngày 16 tháng 10 năm 1855 và mất tại sài
Gòn ngày 11 tháng 8 năm 1900. Ông là ủy viên hội đồng thành phố và đã hiến đất
của ông cho việc xây dựng con đường này. là nhà giáo, nhà báo, nhà văn
hóa Việt Nam. Cũng như thầy mình là Trương Vĩnh Ký, ông có nhiều đóng
góp quan trọng trong việc phát triển nền văn học Quốc ngữ Việt Nam.
TURC. Hướng Đông
Bắc – Tây Nam đường rất ngắn nối đường Catinat với quảng trường Rigault-de-Genouilly sông Sài Gòn.
Là một trong những con đường người Pháp
xây dựng tại Sài Gòn và là con đường tỏa ra quảng trường Rigault-de-Genouilly.
Đầu tiên nó là đường số 7. Với quyết định của thị trưởng BARBIER và sự phê chuẫn
của đô đốc DUPRÉ ngày 27 tháng 1 năm 1871 đặt tên cho nó là đường Turc.
Louis
TURC sinh ngày 5 tháng
3 năm 1829 ở SaintGermain-de-la-Corbette (Lozère). Ông vào trường y hải quân
năm 1854 và trở thành bác sĩ giải phẩu hạng 3 vào năm 1856.
Đến Sài gòn, ông là bác sĩ giải phẩu ở Mỹ Tho trước khi ông qua lãnh vực dân sự. Ông
là thanh tra tập sự trong Affaires indigènes ngày 1 tháng 8 năm 1865. Được xếp
hạng 4 ngày 1 tháng 1 năm 1867; được xếp hạng 3 ngày 15 tháng 5 năm 1867. Tám
ngày sau đó, ông trở thành ủy viên hội đồng thành phố.
Năm 1874, ông là lãnh sự tại Hải Phòng
và ở đó cho tới năm 1879. Ông rời Đông Dương ngày 21 tháng 12 năm 1884.
VANNIER.
Hướng Đông Bắc – Tây Nam nối đường Georges-Guynemer với đại
lộ Charner.
Là một con đường xưa có
tên đầu tiên là đường số 5, đổ ra quảng trường Rigault-deGenouilly. Tên VANNIER
được đât bởi quyết định của đô đốc DE LA GRANDIÈRE ngày 1 tháng 2 năm 1865.
Năm 1937, đoạn đường từ
quảng trường tới đại lộ Charner đổi tên lại là đường des Frères-Denis.
Bản đồ 1958 là đường Ngô Đức Kế
Philippe
VANNIER sinh ở Auray
(Morbihan) năm 1762. Từ năm 1778 ông tham gia phục vụ Hải
quân Hoàng gia Pháp, và được ghi nhận là đã tham gia vào cuộc Chiến tranh
giành độc lập Hoa Kỳ.
Philippe Vannier giúp đỡ Nguyễn Ánh theo
lời kêu gọi của giám mục Bá Đa Lộc. Năm 1790, Nguyễn Ánh giao cho ông
chỉ huy một còn tàu trong hạm đội của mình. Năm 1792, ông điều khiển một con
tàu trước đó do Jean-Marie Dayot chỉ huy và đánh nhau trong trận Quy
Nhơn. Năm 1800, Philippe Vannier chỉ huy tàu Phượng Phi, con tàu lớn nhất
trong lực lượng hải quân của Nguyễn Ánh với 26 súng và 300 lính. Tháng 4 năm
1801, ông lại đánh nhau ở trước Quy Nhơn một lần nữa và được thăng
lên hàm Đô đốc chỉ huy Hải quân quân Nguyễn. Trận này đã mở đường cho Nguyễn
Ánh tiến ra Bắc.
Sau khi chiến tranh kết thúc, ông ở lại
Việt Nam và trở thành quan Nhà Nguyễn. ông cưới một phụ nữ người Việt
theo công giáo tên là Madeleine Sel-Dong và có rất nhiều con. ông phục
vụ với tên Việt Nguyễn Văn Chấn tới năm 1826 nhưng rời khỏi Việt Nam cùng
thời gian với Jean-Baptiste Chaigneau, sau khi vị vua không ưa Pháp
là Minh Mạng lên ngôi.
Philippe Vannier mất ngày 6 tháng
6 năm 1842 tại Lorient.
VASSOIGNE. Hướng Bắc Đông Bắc – Tây Tây Nam nối
đường Paul-Blanchy với đường Paul Bert. Nó tiếp giáp với chợ Tân Định.
Xưa là đường số 41. Ngày 30 tháng 3 năm 1906,
hội đồng thành phố đặt tên Vassoigne cho con đường này.
Bản đồ 1920
Bản đồ 1942
Ghi chú: Bản đồ hiện tại là đường Nguyễn Hữu Cầu
Jules, Jean, Pierre DE VASSOIGNE sinh ngày 27 tháng 5 năm 1811 ở Rivière-Salée ( Martinique )
và qua đời ngày 3 tháng 10 năm 1891 ở Paris , là
một tướng Pháp.
Ông
nổi bật ở Baltic trong năm 1854 chống lại người Nga (Chiến dịch của Bomarsund),
Ngày 22 tháng 9 năm 1856, ông được bổ nhiệm làm Đại tá và chỉ huy
Trung Đoàn 3 (1856/1859) tại Rochefort. Vào ngày 7 tháng 11 năm 1860, ông được
thăng tổng tư lệnh và phái đến Bắc Kỳ để giải tỏa Tourane. Vào giữa
tháng 2 năm 1861, ông được giao nhiệm vụ chuẩn bị tấn công mặt đất trên đường tới
Ki-Hoa Ngày 27 tháng 2 năm 1861, tấn công các pháo đài của Ki-Hoa, ông ta bị
thương nặng bởi một mũi tên.
Pierre DE VASSOIGNE
VERDUN. Hướng Tây Bắc – Đông Nam nối giao lộ các đường Krantz, Frère-Louis,
Phan-thanhGian, La-Grandière, Lacote tới phần giáp ngoại ộ thành phố theo hướng
Tây Bắc. Nó còn là đường quốc lộ 1 nối Sài Gòn với Pnom-Penh.
Đường
này trước đó chỉ là một đường mòn. Nó mang tên là đường Thuận Kiều theo tên một
ngôi thành An Nam dsu này đã bị san phẳng ở một chục cây số cách Sài Gòn hay cách
hai cây số của con đường Pnom-Penh trên hương lộ đến Đức Hòa.
Năm
1916, một ủy ban của hội đồng thành phố đề nghị đặt tên cho con đường này là đường
Verdun và lời đề nghị được chấp thuận (10/8/1916).
VERDUN là một trận lớn chính của mặt trận phía
Tây trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Trận đánh nổ ra giữa quân đội Đức và
Pháp từ 21 tháng 2 đến 19 tháng 12 năm 1916 xung quanh Verdun-sur-Meuse ở đông
bắc Pháp.
Bản đồ 1942
Bản đồ 1958 là đường Lê Văn Duyệt Sài Gòn
Ghi chú: Bản đồ hiện tại là đường Cách mạng Tháng 8
VIÉNOT. Hướng Bắc Tây Bắc – Nam Đông Nam là con đường chạy dọc chợ Bến Thành nhập với đường Espagne
ở phần đầu đại lộ Bonard.
Tên
được đặt theo quyết định ngày 20 tháng 6 năm 1913.
Henri VIÉNOT sinh ở Fécamp (SeineInférieure) ngày 2
tháng 5 năm 1847, là luật sư. Năm 1873 ông đến Sài Gòn và hành nghề tại đây.
Ông mất ngày 3 tháng 4 năm 1884.
VIGERIE. Đường René. Hướng Tây Bắc – Đông Nam nối đường Richaud với đường Legrand-de-la-Liraye
khu vực Đa Kao.
Đầu
tiên là đường số 5. Tên mới được đặt vào ngày 26 tháng 4 năm 1920.
René, Jean VIGERIE sinh ở Sài Gòn ngày 17 tháng 8 năm
1890. Là thầy ký hạng 3 của tòa thị trưởng. Chết trong trận chiến tranh thế giới
ngày 28 tháng 6 năm 1917.
(Còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét