Thứ Hai, 19 tháng 9, 2016


Sự cướp phá tòa đại sứ Pháp
            tại Sài Gòn tháng 7 năm 1964                                                                             
 (Tiếp theo)

1964 cơ hội để trung lập hóa
Năm 1964, sự nguy hiểm càng ngày càng lớn dần. Mặt trận Giải phóng miền Nam kiểm soát một phần lớn của các chiến dịch và các vụ ám sát Ngô Đình Diệm đã dìm những thành phố miền Nam Việt Nam trong một sự hỗn loạn chính trị thực sự trong đó tám nội các nối tiếp nhau trong khoảng thời gian mười chín tháng. Sự sụp đổ của chế độ cho phép những tiếng nói mà trước đó đã bị trấn áp được lên tiếng. Họ ca ngợi công lao của “Cách mạng 1963” và thách thức tất cả những mưu toan lập lại chế độ đã bị lật đổ. Họ lên án độc đoán của chính quyền, sự mờ ám của của chế độ đã thiên vị người công giáo và đàn áp người phật giáo. Nhưng mối nguy hiểm lớn nhất trong con mắt của những người di cư là đặt lại nghi ngại hai điểm cốt yếu của các bài phát biểu của ông Ngô Đình Diệm: cuộc chiến chống lại chủ nghĩa cộng sản và sự thống nhất của Việt Nam. Họ phải đảm bảo rằng cuộc cách mạng năm 1963, lật đổ tất cả các giáo điều của chế độ cũ nhưng không vất bỏ lý tưởng quốc gia mà họ khao khát.
Nếu trước đây vài tiếng nói độc lập đề nghị đàm phán với miền bắc, trong năm 1964 đã xuất hiện một xu thế thật sự về trung lập hóa. Một số phong trào, như vì hòa bình của nhà sư Thích Quảng Liên muốn ngăn chặn xung đột tương tàn đã chia rẽ người Việt Nam từ năm 1945 (28). Nhưng ngoài các cuộc gọi cho một lệnh ngừng bắn, các phong trào ly khai đe dọa phá vỡ miền Nam Việt Nam. Trong tháng tám năm 1964 hội đồng nhân dân cứu quốc thành lập ở Huế đòi quyền tự trị miền Trung Việt Nam và trung lập hóa tất cả mọi xung đột trên vùng đất này (29). Theo tổ chức này, miền trung trở thành vùng đệm cho vụ xung đột nam bắc. Nhưng đối với người di cư, đề xuất này là một đe dọa như việc đòi trung lập hóa. Trong trường hợp Nam Việt Nam nếu bị chia cắt, nhiệm vụ của họ để thống nhất đất nước sẽ gặp khó khăn gấp đôi.
Những cuộc biểu tình năm 1964, tạo thành một phản ứng của những bước đi mới . Hành động của sinh viên không chỉ nhắm tới nước Pháp mà còn chính phủ và nhân dân, rằng sự bất công của Hiệp định Geneve đã làm họ không thể quên. "Tinh thần của đêm không ngủ là biểu hiện của người dân về văn hóa, niềm tin vào chiến thắng của lý trí và chính nghĩa của các quốc gia yếu kém. Mục tiêu của đêm không ngủ là để cảnh tỉnh, để cảnh báo đồng đội rằng những người yêu nước đang đối diện với một quá khứ giả dối và mối đe dọa hiện tại của cộng sản và thực dân là sự thông đồng giữa hai bên” (30), đó là lời tuyên bố của tổng hội sinh viên. Trong cuộc họp báo hai ngày sau các cuộc cướp phá, cũng nhắc nhở rằng họ đã sẵn sàng để chiến đấu cho sự thống nhất của đất nước. Khi một phóng viên hỏi tại sao các sinh viên lo ngại sự tổng động viên nếu họ thấy mình rất quyết tâm để chiến đấu chống chủ nghĩa cộng sản, chủ tịch hội trả lời rằng sự chống đối của họ về sự không công bằng trong việc tuyển mộ, "Nhưng trong trường hợp có một cuộc bắc tiến, cần có một cuộc tổng động viên thì sinh viên thì sẽ tình nguyện tạo thành hàng ngũ phía trước” (31).
Một vài ngày sau khi vụ cướp phá tòa đại sứ, tượng đài tại công trường đài chiến sĩ bị tháo dỡ bằng dây thừng và cuốc bởi các sinh viên (32). Tổng hội sinh viên nắm lấy cơ hội này để nhắc nhở lại tuyên bố của mình. Họ yêu cầu cắt đứt quan hệ ngoại giao và quốc hữu hóa tài sản của Pháp. Nhưng bên cạnh đó, họ cũng yêu cầu chính phủ nên bắt đầu chuẩn bị cho một cuộc hành quân bắc tiến (33). Mặc dù tổng hội không đại diện cho ý chí của tất cả các thành viên, thông điệp của nó rất rõ ràng: Quyết tâm chống lại chủ nghĩa cộng sản và thống nhất Việt Nam. Trong những tháng sau đó các cuộc biểu tình chống Pháp vẫn tiếp tục, sinh viên tiếp tục đấu tranh chống lại các mối đe dọa cả trung lập và ly khai. Đồng thời tổng hội hình thành lực lượng sinh viên liên đại học do Nguyễn Phúc Liên, một người gốc bắc và rất gần với giới công giáo Bùi Chu. Tổ chức này dùng để chống lại hội đồng nhân dân cứu quốc đã bắt đầu xâm nhập vào trong giới sinh viên ở Huế (34).
Cuối cùng, các sinh viên cũng không phải một mình là người đáp lại lời kêu gọi thự hiện sự thống nhất. Một bài viết trên báo Dân chủ mới, điều hành bởi Hà Thành Thọ, một nhà báo di cư cũng nhắc lại nguồn gốc của lý tưởng quốc gia: "Từ những ngày đầu tiên của cuộc đấu tranh chống Pháp, chúng ta nhớ rằng vấn đề thống nhất đất nước cho nhân dân ta cũng không kém quan trọng hơn độc lập. Độc lập mà không thống nhất lãnh thổ sẽ là chỉ một sự độc lập tạm thời kể từ thời điểm đó, khi Pháp vẫn ở Nam Kỳ, độc lập cho An Nam và Bắc Kỳ chỉ là sự độc lập bấp bênh. (...) Pháp đã thay đổi chiến thuật và ngừng chống lại việc thống nhất "nếu đó là ý nguyện của nhân dân Việt Nam", nhưng biến độc lập thành một dạng tự trị (...). Dân tộc chúng ta liên tục phản đối, quyết tâm đổ máu mình để đạt được độc lập và thống nhất thật sự. (...). Chúng ta cuốn theo những thời điểm khó phân biệt được nhưng chúng ta có một thế hệ trẻ đầy nhiệt tình và cam kết tương lai của tổ quốc chúng ta là an toàn và tràn đầy hy vọng. " (35) Đối với những người di cư, là một quốc gia Việt Nam duy nhất thống nhất từ Bắc đến Nam.
Dù là sinh viên hay nhà báo, những người di cư nắm lấy cơ hội của lễ kỷ niệm lần thứ mười này để nhắc nhở những người còn lại về sự cấp bách của việc đạt được lý tưởng quốc gia của họ và không bỏ cuộc. Đối mặt với các mối đe dọa cộng sản ở nông thôn và sự bất ổn chính trị, họ mạnh mẽ tái khẳng định ý nguyện của họ là thống nhất đất nước. Nhưng thiếu vắng một chính phủ cứng rắn và và có tham vọng giống như họ, những người di cư chỉ còn một điều phải làm: xuống đường và thậm chí cầm vũ khí để bảo vệ quyết tâm này. Giữa năm 1964 và 1966, và thậm chí sau khi bắt đầu có sự can thiệp của Mỹ, người di cư cũng không giảm cảnh giác. Đối mặt với sự kích động đôi khi tạo ra  bạo lực của đối phương (36), những người di cư tập hợp lại trong vô số các tổ chức từ năm 1964 và 1966, bề thế khác nhau. Một số hoàn toàn công giáo như Đoàn Đại Kết, số khác, gồm mặt trận iên tôn giáo chống lại chủ nghĩa cộng sản và trung lập của cha Hoàng Quỳnh (37). Những tổ chức khác là các quân nhân, như những người Nùng nhóm lại trong Hiệp hội các cựu chiến binh yêu nước (38). hoặc lực lượng bán quân sự như lực lượng Hùng Vương (39). Nhưng các hội này dù phương thức hoạt động có khác nhau nhưng yêu cầu một mục tiêu duy nhất liên kết họ: đó là sự thống nhất và giải phóng Việt Nam khỏi chủ nghĩa cộng sản.
Kết luận
Một phân tích về những sự kiện dẫn đến việc cướp phá tòa đại sứ Pháp tại Sài Gòn ngày 20 tháng bảy năm 1964 cho thấy phải nằm trong bối cảnh hai mặt của một xu hướng trung lập. Bên ngoài, đề nghị của Tướng De Gaulle đã làm lung lay tinh thần đoàn kết rõ ràng của mặt trận phương Tây để ngăn chặn các mối đe dọa Cộng sản. Bên trong, một phong trào nổi lên do hậu quả của các vụ ám sát Ngô Đình Diệm. Hành động này phá hoại làm ô nhục của một cuộc khủng hoảng sâu sắc hơn, như tất cả những biểu hiện phong trào bài Pháp của các cuộc biểu tình năm 1964 chỉ là đỉnh của tảng băng trôi. Những người di cư mà cuộc sống đã bị thay đổi sau Hiệp định Geneve là những người ủng hộ mạnh mẽ của một nước Việt Nam thống nhất. Các khoảng trống chính trị còn lại của sự sụp đổ nền Cộng hòa và những phản ứng quốc tế do dự đối với sự mở rộng của chủ nghĩa cộng sản trùm lên một mối nghi ngờ sâu sắc, không làm cho họ dửng dưng lại. Những người di cư phản bác lại những đề nghị của Pháp cũng như mối đe dọa trung lập hóa và phá vở một nước Việt Nam từ bên trong. Những "cựu binh" của Chiến tranh Đông Dương đã huy động tất cả các nguồn lực của mình để tiếp tục cuộc chiến chống lại chủ nghĩa cộng sản và lãnh đạo đất nước để chiến đấu trong cuộc chiến tranh Việt Nam. (36)

Phần chú thích
28  Contrairement à l’idée d’un Bouddhisme manipulé par les communistes comme dans Marguerite Higgins dans 1965. Our Vietnam Nightmare, New York, Harper & Row, ou Mark Moyar. « Political Monks: The Militant Buddhist Movements during the Vietnam War », 2004. Modern Asian Studies, 38(4), 749-794, les velléités bouddhistes étaient nationalistes, Edward Miller. « Religious Revival and the Politics of Nation Building : Re-interpreting the 1963 ‘Buddhist Crisis’ in South Vietnam  ». Modern Asian Studies, ou pacifistes selon Robert J. Topmiller, 2006. The Lotus Unleashed: The Buddhist Peace Movement in South Vietnam, 19641966, Lexington, University Press of Kentucky.
29  SHD GR/10T, 967, Rapport de l’Ambassade de France sur la situation politique au Vietnam en août 1964 au Ministre des affaires étrangères, 31 août 1964, p. 16. Un bulletin du Service de la documentation extérieure et du contre-espionnage français rapporte que ces projets séparatistes sont réitérés lors des élections de 1966. Le bonze Tich Tri Quang demandait l’autonomie du Centre Vietnam, où le conflit contre les communistes serait neutralisé et l’aide économie et technique américaine substituée
par la France et le Japon. SHD GR/10T, 973, Bulletin de renseignement du SDECE sur les menaces de sécession du Centre-Vietnam.
30  « Thông cáo của Tổng hội Sinh viên Saigon về cuộc tuấn hành trong đêm không ngủ » [Proclamation de l’Association générale des étudiants au sujet du cortège de la nuit sans sommeil]. Tự do, 22/7/1964,  p. 1.
31  « Đoạn giao với Pháp » [Rupture des relations diplomatiques]. Tự do, 22/7/1964, p. 4.
32  « Dêm hôm qua 28-7, 1 nhóm sinh viên đập phá và kéo đổ 3 pho tượng đồng tại Công trường Chiến-sĩ Pháp » [La nuit dernière du 28/7, un groupe d’étudiants saccage et fait tomber les trois statues de bronze de la Place des combattants français]. Dân chủ mới, 30/7/1964, p. 1
33  « Tuyên ngôn của Uỷ ban Sinh viên Cách Mạng yêu cầu 7 điểm » [La déclaration du comité des étudiants révolutionnaires en sept points]. Dân chủ mới, 30/7/1964, p. 1
34  Nguyễn Phúc Liên. Tóm tắt lý lịch. Visité le 7/7/2014, http://www.viettudan.net/36984/index.html. 35  Lê Hữa. « Đêm không ngủ » [La nuit sans sommeil]. Dân chủ mới, 24/7/1964, p. 3.
36  Le 21 septembre 1964, le Comité de salut national vandalisa plusieurs bureaux gouvernementaux et occupa la radio de Hué. Le 23 janvier 1965, il incendia la bibliothèque de la Chambre d’information américaine de la même ville.
37  TTLT2/PThT/An Ninh [Sécurité], 15.166, Tài liệu của Võ phòng về tình hình an ninh tại khu vực đồng bào công giáo tại Biên Hoà và Gia Định năm 1965, 5.1.654.6.65 94 tr. Tài liệu hạn chế, [Documents des renseignements de police sur la sécurité dans les zones des compatriotes catholiques de Bien Hoa et Gia Dinh en 1965, 5.1.65-4.6.65 94 p. Diffusion restreinte].
38  TTLT2/PThT/An Ninh [Sécurité], 14.990, Hồ sơ v/v các cá nhân và đàon thể xin thành lập các lực lượng chiến đấu chống cộng và việc tuyển dùng quân nhân giáo phái vào địa phương quân năm 1964 8.1.64-22.1.65 58 tr., Tài liệu hạn chế, [Dossier sur les personnes et groupes demandant la création de forces anticommunistes et l’engagement de forces religieuses dans les forces régionales, 1964, 58 p. Diffusion restreinte].

39  TTLT2/UBLĐQG/, 569, Hồ sơ v/v hoạt động của các lực lượng năm 1965-1967 79 tr, [Dossier sur les activités des forces paramilitaires].

Tài liệu đối chứng:

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

  Tết Sài Gòn trăm năm trước ra sao?   Biết những gì xảy ra trong quá khứ xa xưa dường như là mơ ước muôn đời của con người. Bởi trong c...