100
NĂM PHI TRƯỜNG TÂN SƠN NHẤT
KỲ
3: ĐƯỜNG BĂNG ĐẤT ĐỎ
“Tôi vẫn nhớ lúc ấy gia đình
mình từ Tân Sơn Nhất bay ra Hà Nội trên chiếc Dakota cánh quạt của Mỹ nhưng do
phi công Pháp lái”.
Phi
trường Tân Sơn Nhất trước 1975 – Ảnh tư liệu
“Máy bay nhỏ, chỉ chở được vài chục
hành khách, lại bay tầm thấp nên tròng trành suốt hơn ba giờ bay. Cô tiếp viên
người Pháp săn sóc chu đáo các vị khách Việt Nam không quen đi máy bay bị ói,
cứ luôn miệng hỏi: Comment allez – vous? Puis – je vous aider? (Bạn có khỏe
không? Tôi có thể giúp gì?).
Cha tôi phải bán gần 500 giạ lúa
thửa điền Tân An để hai cha con du hành Hà Nội nhưng ông không hề tiếc” – gần
70 năm trôi qua, ông Nguyễn Ngọc nay tuổi gần 90 vẫn nhớ mãi chuyến đi máy bay
đầu tiên của mình đi được cất cánh từ Tân Sơn Nhất.
Hai
đường băng đất đỏ
Thuở ấy, đối với thanh niên Sài Gòn
trẻ tuổi như ông Ngọc được chễm chệ ngồi trên ghế đợi chuyến bay ở Tân Sơn Nhất
là điều sang trọng dù rằng diện mạo phi trường hồi ấy khác rất xa bây giờ.
Được chính quyền thuộc địa Pháp xây
dựng cơ bản xong từ đầu những năm 1930, nhưng trước năm 1937 Tân Sơn Nhất chỉ
có một đường băng Bắc – Nam duy nhất dài 1.500m nền đất đỏ.
Để mở rộng diện tích phi trường, họ
tiếp tục trưng mua và truất hữu quyền sử dụng các thửa đất đồn điền liền kề Tân
Sơn Nhất của cả chủ Việt lẫn người Pháp.
Đến Thế chiến thứ 2, phi trường này
có thêm đường băng thứ hai theo hướng Đông Tây dài 1.300m cũng bằng đất đỏ để
các loại máy bay cánh quạt quân sự, thương mại loại nhỏ cất cánh.
Thời kỳ Nhật chiếm đóng Sài Gòn,
đường băng và hạ tầng cơ sở của Tân Sơn Nhất có mở mang thêm một chút để phục
vụ vận chuyển quân sự.
Thế chiến thứ 2 kết thúc, chính
quyền quân sự Pháp theo chân quân Đồng minh trở lại cai trị Đông Dương. Họ nâng
cấp thêm Tân Sơn Nhất chủ yếu để phục vụ cuộc chiến ngày càng khốc liệt với
quân cách mạng và việc đi lại của các nhà cầm quyền cùng giới chủ Pháp khai
thác tài nguyên thuộc địa.
Còn đa số người Việt trung lưu vẫn
chọn xe lửa, phương tiện giao thông xuyên Việt đã hoàn chỉnh lúc bấy giờ.
Ngoài các loại chiến đấu cơ, phương
tiện hàng không vận tải phổ biến nhất của Pháp tại Tân Sơn Nhất lúc ấy là DC3
hay còn gọi là Dakota của Hãng Douglas Aircraft Company, Mỹ. Nó chỉ chở được
khoảng 30 người với tốc độ bay hơn 300km/h.
Phiên bản quân sự C47 của loại máy
bay này là phương tiện chính để quân đội Pháp thả lính dù chống chọi với quân
cách mạng.
Trong chảo lửa Điện Biên Phủ năm
1954, máy bay Pháp bị bắn rớt nhiều đến mức phải trưng dụng khẩn cấp cả những
chiếc Dakota dân sự từ Tân Sơn Nhất ra không vận lính dù và quân nhu.
Tiếp
viên hàng không trước năm 1975 phục vụ hành khách – Ảnh tư liệu
Chuyển
giao
Suốt từ lúc mới thành lập đến tháng
4-1975, Tân Sơn Nhất luôn giữ chức năng phi trường dân sự lớn nhất Việt Nam,
nhưng thật sự hoạt động tấp nập nhất của sân bay lại là vận tải và tác chiến
quân sự.
Qua thời gian đầu do người Pháp
chuyên trách, đến đầu thập niên 1950 đã xuất hiện những tên tuổi Việt Nam đặt
nền móng cho không quân và sau đó là hàng không dân sự Việt Nam.
Trong đó có một nhân vật đặc biệt là
trung tướng Nguyễn Văn Hinh (Chính phủ Quốc gia Việt Nam do ông Bảo Đại làm
quốc trưởng) vốn học trường võ bị không quân Salon de Provence, Pháp.
Từng là phi công chiến đấu trong phe
Đồng minh Thế chiến thứ 2, đại úy Hinh về nước đã nhận nhiệm vụ trưởng phi đoàn
vận tải GT/62 đóng tại phi trường Tân Sơn Nhất.
Ngay năm 1952 sau khi được phong
thiếu tướng, tổng tham mưu trưởng Quân đội Quốc gia Việt Nam, Nguyễn Văn Hinh
đã thành lập Ban không quân, tạo thuận lợi cho một số người Việt sang Pháp học
lái máy bay khởi sự xây dựng nền hàng không dân dụng và không quân của Việt Nam
sau này.
Trong số đó có phó tổng thống Việt
Nam cộng hòa Nguyễn Cao Kỳ.
Theo ông Huỳnh Minh Bon, 88 tuổi,
một cựu phi công có thâm niên dài nhất trong đội bay Việt Nam được đào tạo từ
trường dạy lái máy bay Pháp, sau năm 1954 Tân Sơn Nhất có bước ngoặt thay đổi
lớn.
Hiệp định Geneve được ký kết năm
1954 ở Thụy Sĩ, Pháp buộc phải trao trả lại các quyền lợi cho Chính phủ Việt
Nam mới, trong đó có các sân bay như Gia Lâm và Tân Sơn Nhất.
Tháng 7-1955, trung tá Nguyễn Khánh
được tổng tham mưu trưởng Nguyễn Văn Hinh giao phụ tá không quân.
Cũng trong năm 1955, Pháp trao lại
cho Việt Nam một số máy bay vận tải C47, tuần thám L19 và khu trục cơ cánh quạt
F8F Bearcat lạc hậu, trong đó nhiều chiếc đã cũ, hư hỏng không thể sử dụng.
Tuy nhiên, các cuộc trao trả này đã
không diễn ra đơn giản và nhanh chóng. Ở Tân Sơn Nhất, ông Tạ Huyến, giám đốc
Nha Công tác phi trường, nhiều lần gửi công thư lên Bộ Công chánh và giao thông
phản ảnh tình trạng chậm trễ, gây khó khăn từ phía quân đội Pháp.
Một công thư viết cụ thể đến ngày
16-11-1955, việc chuyển giao bất động sản vẫn còn một số vấn đề do quân đội
Pháp chiếm đóng ở phi trường. Trong 92 công sở và công thự còn 27 nhà vẫn do
Pháp chiếm.
Quan điểm của Nha Công tác phi trường
là tất cả bất động sản nào hữu ích cho phi trường đều cần phải lấy lại và cơ sở
do người Pháp thuê thì phải tự trả, không phải trách nhiệm phía Việt Nam.
Từ năm 1954, ngay sau Hiệp định
Geneve, Nha Tổng giám đốc hàng không thương vụ được thành lập để phụ trách việc
tiếp quản và hoạt động Tân Sơn Nhất cùng các phi trường ở miền Nam Việt Nam.
Sau đó, cơ quan này được đổi tên
thành Nha Không vận, rồi đến ngày 3-4-1956 chính thức mang tên là Nha Hàng
không dân sự, phụ trách bốn sở trực thuộc gồm Sở Quản trị, Sở Không tải, Sở
Khai thác không vận và Sở Công tác không vận.
Ngoài ra còn có Trung tâm Tu huấn
hàng không trực thuộc nha để huấn luyện kiểm soát không lưu, điện tử, viễn ký,
phi cụ…
Cảnh hành khách ra máy bay ở phi trường Tân Sơn Nhất trước năm 1975 – Ảnh tư liệu
Để nâng cấp toàn diện Tân Sơn Nhất
thành sân bay quốc tế hạng A có thể vận hành các loại máy bay phản lực thương
mại hiện đại nhất lúc bấy giờ, chính quyền Ngô Đình Diệm đã thực hiện nhiều đợt
xây dựng, mở rộng sân bay.
Trong đó có đợt xây dựng thêm hệ
thống thoát nước vào năm 1956 bao gồm các hạng mục cầu, cống với tổng tiền đầu
tư là 3.420.000 triệu đồng.
Một cuộc đấu thầu nghiêm cẩn được tổ
chức tại Nha Căn cứ hàng không với hội đồng đấu thầu có sáu người gồm ông Bùi
Thế Quýnh, giám đốc Nha căn cứ hàng không, đại diện Phái đoàn viện trợ kinh tế
Mỹ, Bộ Công chánh và giao thông…
Bốn
nhà thầu đã tham gia và cuối cùng nhà thầu Nguyễn Đình Chúc thắng thầu, bảo đảm
không có sự ngập úng phi trường.
Theo
TTO
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét