Lịch sử cuộc viễn chinh Nam Kỳ năm 1861
(Histoire de L’EXPÉDITION DE COCHINCHINE en 1861)
Người dịch: Hoang
Phong
Nguồn: http://www.vuontaodan.net/thuviensach.
Nguyên là một quyển sách do nhà Hachette tại Pháp xuất bản năm 1864. Sách khá xưa, vì thế tôi xin phép được dài dòng kể lại vì đâu lại có quyển sách này trong tay.
Tại Pháp, cứ mỗi năm một hai lần các làng xã tổ chức ngày
bán đồ cũ. Ðó cũng là dịp dân trong vùng gặp nhau trò chuyện. Nhà nào có đồ đạc
không dùng thì đem ra bán rẻ. Hoặc nhà nào dọn dẹp kho, tầng hầm, nhà xe, có
thứ gì không dùng cũng đem ra bán. Có những gian hàng ăn uống vui như ngày hội.
Tôi thích đi thơ thẩn dạo xem người lớn gặp nhau, trẻ con nô đùa, xem những thứ
lỉnh kỉnh bày la liệt trên mặt đất, những vât kỷ niệm của ông bà họ từ xưa,
những đồ dùng trong nhà còn mới hay đã hỏng. Bỗng đi ngang gian hàng của một
người thanh niên còn trẻ, anh ta vọt miệng hỏi tôi:
- Ông có mua sách cũ không?
Tôi nhìn thấy trên mặt đất cạnh chân anh chỉ có độ mười
quyển sách. Anh ta hiểu ý ngay và giải thích với tôi rằng:
- Có một người buôn bán sách cũ chuyên nghiệp vừa mua hết,
chỉ còn có từng đó.
- Anh cho phép tôi lựa nhé!
Chưa kịp ngồi xuống xem thì anh ta đã nhanh nhẹn cúi xuống
nhặt lên một quyển sách đưa cho tôi. Quyển sách mốc meo, ẩm uớt, tuy đóng bìa
cứng nhưng đã rách nát. Nể nang đứng lại vì lời mời của anh, bây giờ lại nể
nang vì anh ta chìa cho tôi quyển sách trước mặt. Quyển sách mốc xanh rất bẩn,
ì lịch sự tôi phải cầm. Lật ra trang đầu:
Histoire de
L’EXPÉDITION DE COCHINCHINE en 1861
Tôi ít khi đọc sách vớ vẩn, nhưng dù sao thì quyển sách
này cũng nói về quê hương tôi, biết đâu có một vài chi tiết hay hay về lịch sử.
Từ ngày nhỏ tôi rất ghét môn sử, không bao giờ thuộc bài.
Sử của một nước mà tôi không biết nó ở đâu, địa danh của một trận đánh cũng
chẳng biết nó chỗ nào, năm ngàn người chết hay mười ngàn người chết thì cố nhớ
để trả bài thế thôi, nếu vô phước mà thầy gọi trúng tên.
Ðã mua thì phải đọc. Nhưng càng đọc thử lại càng thấy
nhiều xúc cảm dâng lên trong tôi. Những xúc cảm rất phức tạp, vừa đau đớn, vừa
hãnh diện, vừa mỉm cười. Ðau đớn cái đau đớn của tổ tiên tôi, hãnh diện cái
hãnh diện của dân tộc tôi, mỉm cười trước cái ngây ngô của lịch sử, cái thật thà
dễ thương của con người. Có khi nước mắt chảy quanh nhưng cũng có khi phải bật
thành tiếng cười.
Vì thế đã nảy ra cái ý dịch quyển sách này để những người
đồng hương với tôi có dịp chia xẻ những cảm xúc trong tôi
Tác giả có lối văn rất xưa, rắc rối và bóng gió, thường
hay dùng chấm phẩy ( hai chấm “ câu và ý dài dòng,
tôi cố gắng, nếu có thể được, giữ nguyên cách hành văn và cả cách chấm câu của
tác giả khi dịch. Cố giữ lối trình bày ý tưởng của tác giả, nhưng cũng phải
chuyển thành tiếng Việt Nam thế nào cho gọn gàng, dễ đọc. Câu nào "nửa Tây
nửa ta” thì xin độc giả tha thứ.
Cuối trang thỉnh thoảng có ghi chú, nếu là ghi chú của tác
giả thì tôi không thêm gì cả, nếu ghi chú của người dịch, trong mục đích giúp
người đọc dễ theo dõi câu chuyện, thì tôi ghi rõ là: (ghi chú của người dịch).
Nếu có ghi chú của tác giả lẫn lộn với ghi chú của người dịch thì tôi ghi cả
hai cho rõ ràng.
Tên người và địa danh tôi giữ nguyên theo thời đó và theo
cách viết trong sách, không thay đổi.
Sách có 10 chương, 3 trang hình vẽ và phần phụ lục. Hình 1
là bản đồ sáu tỉnh Nam Kỳ vào thời đó. Hình 2 là bố trí của đại đồn Chí Hòa [1],
thành phố Saigon-Chợ Lớn và hệ thống sông ngòi chung quanh, rất tiếc là trong
quyển sách rách nát của tôi tờ hình số 2 đã mất. Hình 3 là thành Mỹ Tho và hệ
thống sông ngòi.
Phần phụ lục gồm có 6 phần và sau hết là Sổ tang:
Phụ lục I: Danh sách tổng tham mưu của toàn thể hạm đội
đánh chiếm Nam Kỳ đặt dưới quyền chỉ huy của phó đô đốc [2] Charner, tên từng
chiến hạm và sĩ quan chỉ huy, chức vụ và cấp bực của mỗi người, (danh sách chỉ
có các sĩ quan chỉ huy trở lên, từ cấp bực hạ sĩ quan trở xuống không ghi, gồm
20 trang trong nguyên bản). Tôi xem như một tài liệu tham khảo nên không dịch.
Phụ lục II: Danh sách, tên tuổi, cấp bực, toàn bộ Quân
đoàn viễn chinh Nam Kỳ, từ vị Chỉ huy trưởng [3] tức phó đô đốc Charner đến các
sĩ quan cấp dưới, lữ đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội, ban tham mưu, hành
chính v.v., từ cấp hạ sĩ quan trở xuống không có trong danh sách, (tất cả 14
trang trong nguyên bản). Tôi không dịch phần này
Phụ lục III: Danh sách những quân nhân được tuyên dương
công trạng, (3 trang trong nguyên bản). Tôi chỉ dịch lời tuyên dương của phó đô
đốc chỉ huy trưởng, không nêu tên từng người.
Phụ lục IV: Chỉ dụ của hoàng đế Tự Ðức (ngày 4 tháng 11
năm 1860). Tôi cố gắng dịch ngược trở lại thành tiếng Việt, (3 trang trong
nguyên bản).
Phụ lục V: Cách xây dựng thành trì của người Annam (gồm 3
trang trong nguyên bản). Phần này có phiên dịch.
Phụ lục VI: Quân điền [4] và dân quân Ðồn điền Annam (8
trang). Phần này có phiên dịch.
Sổ tang: Tất cả những người Pháp gục ngã ở Nam Kỳ miền
dưới cho đến năm 1862. Dịch những dòng mở đầu sổ tang của tác giả. Sổ tang gồm
ba phần (không dịch):
Phần 1: Danh sách những người tu hành, chức vụ, ngày chết
(5 trang trong nguyên bản)
Phần 2: Danh sách quân nhân thuộc hải quân, cấp bực, ngày
chết (25 trang trong nguyên bản)
Phần 3: Danh sách quân nhân thuộc lục quân, cấp bực, ngày
chết (35 trang trong nguyên bản)
Cuối sách tôi xin phép độc giả được ghi thêm một vài cảm
nghĩ của tôi để làm phần kết luận
Tôi không ngồi đối diện với tác giả để tìm hiểu và hỏi han
tác giả. Tôi xin phép được ngồi một bên bàn với tác giả để cùng nhau lật lại
một vài trang sử nhỏ của quê hương tôi. Tác giả kể cho tôi nghe những gương oai
hùng của người lính viễn chinh, tôi cũng len lén mượn ngòi bút của tác giả để
mô tả lại những giọt máu của tổ tiên tôi, những giọt máu rơi rớt trên những
thửa ruộng sình lầy. Hình như những giọt máu ấy vẫn còn âm ấm trong tôi.
Bures-Sur-Yvette, 08.03.00
------------------------------------
[1] Nguyên văn bản dịch là “thành Kỳ Hòa”. – TN
[2] Nguyên văn bản dịch là “phó thủy sư đề đốc”. Thực ra,
cấp bậc của Charner lúc bấy giờ là “Vice-amiral”, dịch là “Phó đô đốc”. Về sau
này, Hải quân Pháp sau này có thêm cấp bậc trên Phó đô đốc là “Vice-amiral
d’escadre”, dịch là “Phó thủy sư đô đốc”. Vì vậy, ở bản hiệu đính sẽ sửa chữa
các lỗi này để tránh nhầm lẫn. – TN
[3] Nguyên văn bản dịch là “nguyên soái”. – TN
[4] Nguyên văn bản dịch là “Nông trại quân đội”. - TN
CHƯƠNG I
Ðề cương:
Ngưng chiến ở Bắc Kinh giúp các lực lượng Pháp rảnh tay -
Phó đô đốc Charner được Hoàng đế đề cử thống lãnh viễn chinh Nam Kỳ [1] - Các
lực lượng viễn chinh tổ chức trở lại, rời nước Tàu đến Saĩgon trong những ngày
đầu tháng 2 năm 1861.
Hoàng đế Hien-fung [2] bất thần đào tẩu về Zhe-hol [3] nơi
tận cùng xứ Mãn châu làm quân đồng minh hết hy vọng thương thuyết với Thiên
Quốc. Quyết định cực đoan của Hoàng đế nước Tàu gây ra mối hiểm nguy lớn nhất
cho việc tiến quân của lực lượng đồng minh lúc bấy giờ. Tương lai cho thấy
nhiều điềm xấu và tối tăm: quân đồng minh đang lâm vào một cuộc chiến man rợ,
kéo dài nhưng muốn chấm dứt trong danh dự cũng thật khó khăn. Mùa đông đã báo
hiệu và mọi người đều biết sẽ vô cùng gay go trên đất Tàu, buộc ta phải chọn
một quyết định. Lực lượng đồng minh vì thế phải rút lui, đóng quân chặt chẽ tại
Tien-tsin [4], thiết lập liên lạc với căn cứ hành quân trên bờ biển qua các ngõ
Tien-kou, Sing-ko, Takou [5]. Lực lượng hải quân cũng bắt buộc phải chuẩn bị
theo để hứng chịu mùa đông.
Bộ mặt mới của tất cả mọi việc sẽ thay đổi hết, tùy thuộc
vào những yếu tố mới, tức việc tiếp xúc với Hoàng tử Kong [6], từ tánh tình, vị
thế vương quyền của ông ta cho đến kết quả trung gian của một lực lượng Âu châu
liên hệ thân hữu từ lâu với nước Tàu [7]. Ngày 25 tháng 10 năm 1860, nam tước
Gros, huân tước Elgin và hoàng tử Kong cùng ký một hiệp ước hoà bình. Hiệp ước
thành công nhờ sự dàn xếp của tướng Ignatieff [8]. Nhờ vậy tình trạng tháo mở,
quân đội của hai cường quốc được giải tỏa [9]. Lực lượng hải quân và một phần
đội quân viễn chinh của ta được rảnh tay để kéo xuống đập vào Nam Kỳ với mục
đích củng cố vị thế thống lãnh của Pháp ở phần đất Á châu này.
Hoàng đế [10] giao phó việc chỉ huy viễn chinh cho phó đô
đốc hải quân Charner. Phó đô đốc Charner liền tổ chức lại lưc lượng hải quân do
chính ông làm chỉ huy trưởng từ lúc mới khởi đầu cuộc chiến tranh với Tàu. Ông
thành lập hai sư đoàn lớn. Sư đoàn thứ nhất gọi là Sư đoàn Tàu, lo việc bảo vệ
và canh giữ Ta-kou, Tche-fou, Shang-ha13] cho trại binh Saĩgon. Theo các tin
tức mới nhất thì quân trại Saĩgon càng ngày càng thiếu nhân lực, việc canh
phòng khó khăn vì vòng đai phòng thủ rộng. Ðoàn quân đổ bộ trước kia đã tiến
chung với quân đồng minh vào Bắc Kinh được giải thể. Thủy quân đánh bộ cũng
tách ra khỏi quân đoàn viễn chinh trên đất Tàu để tăng cường một phần cho trại
quân Ta-kou; phần còn lại chuyển đến Canton, và sau đó là Saĩgon. Tướng Jamin [14]
cùng với trung đoàn bộ binh 101, tiểu đoàn 2 bộ binh, một giàn pháo binh 12
khẩu, một giàn pháo binh 4 khẩu, một đại đội công binh và một nửa bộ phận hành
chánh được chuyển về Shang-haĩ. Tướng [15] Collineau được chỉ định chiếm đóng
Tien-tsin với đoàn lục quân 102, hai giàn pháo binh, một đại đội công binh, một
số kỵ binh và một nửa còn lại của bộ phận hành chánh. Chiến thuyền Forbin giao
cho tướng [16] Cousin-Montauban, vì ông này muốn thanh tra vài nơi tại Nhật Bản
trước khi quay về Shang-haĩ.
Việc điều động lực lượng vừa kể đột nhiên làm mất tầm quan
trọng chiến lược của Tche-fou. Trong suốt cuộc viễn chinh Tàu, Tche-fou là kho
lương chính của quân đội. Nay kho lương này chỉ còn dùng để tiếp tế cho các
chiến hạm trong vùng, cho toán quân phòng ngự địa phương và cho vùng sông
Pei-ho [17] khi cần tới. Tuy vậy vị trí này còn giữ một tầm quan trọng khác;
trong thời gian mà vịnh Pe-tche-li và sông Pei-ho bị đóng băng thì phải dùng
ngõ Tche-fou để liên lạc với Tien-tsin.
Các vấn đề chi tiết được giải quyết giữa các chỉ huy
trưởng thuộc các tổng tư lịnh hải quân và quân đội. Công cuộc chuyển quân lên
tàu để trực chỉ Nam Kỳ bắt đầu, mặc dù băng giá, xa bờ và bão tố.
Gió thổi gần như liên tục từ ngoài khơi vào; sóng đứng
trên đáy biển bùn, chuyển thành sóng đập, tạo sình lầy gây thật nhiều trở ngại
cho việc chuyển quân; nếu sóng lăn và dài thì ít gây khó khăn hơn. Khí lạnh đã
bắt đầu gay gắt: dây thừng trên tàu đóng đá và sàn tàu cũng đông đá trơn trợt;
ban ngày cũng thường đóng băng; ban đêm hàn thử biểu tuột xuống đến mười hay
mười hai độ dưới số không. Thủy thủ đoàn của các pháo hạm lớn từ Nam Kỳ vừa đưa
tới đây, vì đã quá mệt mỏi sau hai năm chiến đấu dưới khí hậu nhiệt đới, nên
phải chịu cam khổ vô cùng. Vào khoảng 20 tháng 11, nước đá bắt đầu bít sông
Pei-ho. Pháo hạm Alarme bị một cơn gió mạnh làm mắc cạn trên bãi ngay phía
trước Ta-kou, mất luôn bánh lái và một phần đuôi tàu. Hộ tống hạm Alom-prah gặp
khó khăn vì chân vịt không sử dụng được. Pháo hạm Fusée bị kẹt băng trên sông
Pei-ho, sau đó nhờ một trận nước lũ bất ngờ mới thoát ra được, nhưng khi ấy thì
việc chuyển quân đã thực hiện xong, cả đạo quân lên đường hết rồi.
Một phần quân số và hành trang được chuyển lên tàu từ một
địa điểm cách bờ 6 hải lý, vào đúng lúc cái lạnh của mùa đông càng ngày càng
mãnh liệt. Ðây là cuộc hành quân không chiến đấu khó khăn nhất mà hải quân ta
đã thực hiện. Việc chuyển quân đánh dấu cuộc viễn chinh nước Tàu đã chấm dứt,
chuyển sang chuẩn bị cho cuộc viễn chinh Nam Kỳ. Nhưng thật ra thì việc chuẩn
bị viễn chinh Nam Kỳ được điều động ở Sha-lui-tien cách Bắc Kinh 60 dặm và cách
Saĩgon đến 800 dặm [18]: các đoàn quân dùng cho chiến dịch Nam Kỳ tiến về
Sha-lui-tien, các pháo hạm bằng sắt cũng được kéo về nơi này. Pháo hạm bằng sắt
loại nhỏ hết sức đắc dụng trong các trận chiến, đã góp công thật đáng kể vào
các trận đánh buộc các đồn bót trên sông Pei-ho phải đầu hàng. Người ta thấy
loại pháo hạm này ngược xuôi không ngừng trên sông, chuyên chở quân lính và
tiếp liệu. Chúng hết sức hữu dụng ở bất cứ loại công tác nào giao phó. Cách
đóng các pháo hạm bằng sắt vừa kể đâu có dự trù để dùng vào việc chuyên chở
giữa bến Sha-lui-tien và các chiến hạm ở cửa sông Pei-ho; khoảng cách 6 hải lý,
biển động, sóng lắc, tàu chòng chành một cách đáng ngại. Máy tàu không đủ mạnh
để ngược sóng trong lúc gió mạnh, nhưng là một phương tiện vô cùng quí giá giúp
tay cho người lính hải quân trên đường chiến đấu: pháo hạm đủ sức dùng làm tàu
kéo, đôi khi cũng dùng để chở nặng. Nhờ các tàu này mà việc chuyển quân hoàn
tất trong 20 ngày, mặc dù biển động, gió bão và trời lạnh. Các tàu này đã giúp
thật nhiều cho thủy thủ đoàn khỏi ra tay chèo chống; thật ra thì thủy thủ đoàn
dù có bắt buộc họ chèo họ cũng không đủ sức. Ở Nam Kỳ, nơi sông ngòi chằng
chịt, vai trò của các pháo hạm sẽ còn cần thiết hơn nữa; ta có thể đoán trước
rồi đây các tàu này sẽ là những phương tiện rất tốt vừa để chiến đấu vừa để
tiếp vận trong cuộc chiến ở Nam Kỳ. Nhưng phải công nhận việc kéo những chiếc
sa-lúp pháo hạm chạy bằng hơi nước, chỉ dự trù hoạt động trong vùng nước êm,
suốt 800 dặm đường biển để đến Nam Kỳ, là một kinh nghiệm mới cho ngành hải
quân. Súng đại bác, đạn dược, lương thực trên sa-lúp pháo hạm đều chuyển sang
các tàu kéo. Các khe hai bên vách tàu được bít kín, than đem dồn về phía mũi
tàu để khi kéo thì đầu tàu khỏi bị ngóc cao quá độ. Các sa-lúp pháo hạm đã vượt
qua khỏi mọi thử thách, chỉ mất có hai chiếc bị chìm trên đường đến Nam Kỳ.
Trong khi đó các tàu lớn lần lượt ra khơi sau khi chuẩn bị
xong. Tàu Saône chở cu-li từ Canton. Tàu Duchayla rời bến ngày 10 tháng 10 với
nam tước Gros; cột chính của tàu có treo cờ quốc gia kích thước vuông có hình
ngọn lửa [19]. Ngay ngày hôm sau, huân tước Elgin cũng đi Hong-kong. Ngày 1
tháng 12, tàu Némésis ra khơi quay về Pháp sau 5 năm hoạt động ở Tàu. Ðã có bao
nhiêu người ra đi với chiếc tàu này mà từ nay sẽ không bao giờ trở về nữa!
Suốt thời gian hoạt động vừa kể trên, tàu Némésis đã tham
dự vào tất cả các cuộc hành quân đánh phá ở Tàu và Nam Kỳ, sử dụng đại pháo và
dùng cả thủy thủ đoàn của tàu để đổ bộ. Các tàu Renommée, Monge, Dryade,
Dragonne, Forbin lần lượt ra khơi theo lịch trình đã định trước. Các tàu này sẽ
thượng cờ Pháp khi đến Nagasaki và Yedo; phô trương thanh thế xong thì trực chỉ
Woo-sung [20] hoặc Hong-kong.
Ngày 5 tháng 12 năm 1860, các toán quân chuyển từ Bắc
Kinh, đúng ra phải đến đóng ở Shang-haĩ, lại đem lên tàu để đưa đi Nam Kỳ. Các
tàu chiến cuối cùng của Pháp trong vùng cũng nhổ neo rời bến trên sông Pei-ho.
Cửa sông hình phễu không thấy bờ bến đâu hết giống như ở giữa biển khơi, nước
thì vàng khè vì phù sa sông Pei-ho và sông Peh-tang; cuối vịnh Pe-tche-li, mà
người ta thường gọi sai là vũng tàu Sha-lui-tien, và cả sông Pei-ho trở nên
vắng tanh, thật hiu quạnh sau khi hơn 400 tàu đã nhổ neo. Tàu
Impératrice-Eugénie, kéo cờ hiệu của phó đô đốc Charner, tàu Echo dùng làm tàu
truyền lệnh, cả hai lên đường đến Tche-fou, nơi đây chỉ cách Ta-kou hơn 60 dặm.
Hai tàu đã đến nơi chiều ngày 6 tháng 12. Sau khi xắp xếp chi tiết công việc
tại đây xong, phó đô đốc tổng tư lịnh cùng với hai tàu lại lên đường ngày 7,
đến Woo-sung tiền đồn của Shang-haĩ vào ngày 10 tháng 12. Các chiến hạm khác
chậm trễ vì công tác cũng lần lượt tới nơi. Chỉ huy trưởng viễn chinh là phó đô
đốc
Charner có toàn quyền gây chiến hay làm hòa với xứ Annam. Từ
Hoàng Hải, eo biển Sakhaline, biển Nhật Bản cho đến eo biển Malacca và eo biển
quần đảo Sonde, suốt 1800 dặm, tất cả tàu bè trương cờ Pháp phải chịu mệnh lệnh
của ông. Trọng trách của ông rất lớn: vì tình trạng chiến tranh, vì cách xa mẫu
quốc, thêm việc nắm giữ hai trọng trách một lúc, vừa là chỉ huy trưởng viễn
chinh, vừa là sứ thần, thêm số chiến thuyền quan trọng dưới quyền chỉ huy của
mình; tất cả các trách nhiệm hệ trọng đó đã góp phần làm chói lòa thanh danh
của phó đô đốc. Chính đây là sự ủy quyền rộng rãi nhất từ thời Ðệ nhất đế chế,
1 chiến hạm [25] trang bị đại bác chạy chân vịt, 2 chiến hạm chạy chân vịt
trang bị súng nặng đặt trên sàn tàu, 2 hộ tống hạm [26] loại một chạy chân vịt,
1 hộ tống hạm loại hai chạy chân vịt, 2 hộ tống hạm loại nh30], 2 tàu vận tải
chạy chân vịt có trang bị mỗi tàu hai giàn đại pháo [31], 4 tàu chuyên chở ngựa
chạy chân vịt, 11 tàu chuyên chở đại pháo chạy chân vịt, 1 tàu cơ xưởng chạy
chân vịt. Tất cả là 68 chiến thuyền gồm 13 chạy buồm và 55 chạy chân vịt. Nhân
lực gồm có 4 sĩ quan cấp tướng [32], 13 Đại t35], 105 Trung úy [36], khoảng
chừng 100 chuẩn úy, 100 bác sĩ y khoa, 80 sĩ quan hành chánh, 8.000 lính thủy.
Sức mạnh hỏa lực gồm 475 miệng lửa; sức mạnh mã lực của đội hải thuyền tổng
cộng 7.866 mã lực. Nhiều tàu hơi nước của các công ty hàng hải thuộc vùng bán
đảo và viễn đông được thuê bao để nối liền các cứ điểm từ bờ biển nước Tàu đến Nam
Kỳ. Các tàu thuê đều phải mang cờ Pháp: vị tổng tư lịnh chọn lựa và biệt phái
sĩ quan của mình giữ chức thuyền trưởng hoặc đại diện cho quân đội trên các tàu
này. Tóm lại có 80 tàu buôn do nước Pháp thuê, chở lương thực, đạn dược, than,
tạo thành một hải đội thương thuyền mà tầm quan trọng thật đáng chú ý tới.
Ðiều không được may là một số các chiến hạm đã chiến đấu từ 4
năm nay, vài chiếc đã bước vào năm thứ 5. Thiết bị trên tàu ở vào tình trạng hư
hao, các nồi hơi súp-de [37] của 4 pháo hạm lớn và 3 hộ tống hạm gần như rã rời
từng mảnh. Tuy nhiên thủy thủ đoàn tốt, sĩ quan xuất sắc, rất thành thạo sau 4
năm chiến đấu. Có thể nói rằng họ tuy có mòn mỏi nhưng không phải là kiệt lực,
họ được khích động bằng một luồng sinh khí anh hùng. Trong số các sĩ quan rời
Pháp đã lâu, có nhiều người khi đến Tàu vẫn còn là vị thành niên. Họ già đi
trong gian khổ và chỉ còn biết nước Pháp qua các bức tranh họ mang theo, họ
cũng chẳng hiểu gì hết về thói tục của những dân tộc trước mặt họ, biết đâu họ
cũng chỉ vô tình như những thủy thủ khác mà thôi. Những năm tốt đẹp nhất của
đời họ đã trôi đi trong khắc khổ, thiếu hẳn sự gần gũi với xã hội chung quanh;
sự chung đụng mà ta thấy nơi nào trên trái đất cũng có, nhưng tuyệt nhiên thiếu
hẳn ở cái đất Tàu này. Chẳng có gì để làm rung động quả tim của người trai trẻ
mới 25 tuổi đời [38]. Vì thế họ đành chú tâm đến những chuyện khác vậy. Họ kể
chuyện xông pha chiến đấu, những thành tích xuất sắc trong ngành nghề của mình,
họ bàn với nhau về bảng thăng thưởng. Rốt lại cũng là lợi lộc (tôi muốn nói ở
đây là danh dự chớ không phải là tiền bạc) đã làm món mồi để lôi cuốn tham
vọng, làm mất đi ý nghĩa hy sinh cao cả của đời họ, kể cả những sở thích riêng
tư họ cũng phải hy sinh, nhưng lúc nào họ cũng sẵn sàng hy sinh thêm, họ coi
giá trị của huân chương và cấp bực từ trên ban xuống thật xứng đáng với sự hy
sinh của họ. Không còn ai non dại. Họ đều có vẻ rắn rỏi và năng hoạt; người nào
trước kia dù có nông nổi cũng đã trở nên nghiêm trang hơn; nhiều người đúng ra
đã bước vào tuổi thích nghỉ ngơi nhưng vẫn tỏ ra rất hăng hái. Họ dễ bị khích
động vì vinh quang, vì danh dự để bảo tồn thanh danh của người thủy thủ; họ tạo
thành một khối quân nhân đoàn kết chặt chẽ, nếu sau này có tan rã thì dù cho có
gặp hoàn cảnh thuận lợi như trước cũng biết đâu không bao giờ còn tái tạo lại
được một khối chặt chẽ như vậy, vì những người đã từng tạo ra nó không còn nữa.
Không cần phải khó khăn tìm tòi, ta cũng nhận thấy họ là những người của biển
cả, những chiến sĩ, những nhà địa lý thủy học, bác học, ngôn ngữ học; vị chỉ
huy trưởng nào chẳng sung sướng thấy dưới tay điều khiển của mình có những đại
úy thuyền trưởng [39] mới 30 tuổi, chiến đấu không ngừng với sóng gió trên mặt
biển xứ Tàu, cặp bờ vào đất Shang-haĩ ở bất cứ thời tiết nào, mặc dù bờ biển
nơi đây được coi là khó khăn nhất thế giới. Khả năng quyết định được đem ra thử
thách liên tục ở mọi sự kiện, ngay khi hành động đang xảy ra, đã tạo cho mỗi
người con đường đi lên. Người chỉ huy có thể trông cậy và tin cẩn ở những con
người như thế.
Công bố cuộc viễn chinh đánh chiếm Nam Kỳ với một lực lượng hùng
hậu cũng giống như có một dòng máu mới bơm vào huyết quản của họ, những huyết
quản đã bao lần sôi sục.
Giai đoạn chuẩn bị viễn chinh Nam Kỳ làm bùng dậy tinh thần đồng
đội; nhiều người đã từ lâu được quyền trở về Pháp cũng không muốn nhắc đến
chuyện này. Người nào cũng muốn dự phần vào các cuộc hành quân sắp diễn ra.
Woo-sung là một làng Tàu nghèo nàn ở ngã ba sông Yang-tze[40] và
Wam-poo[41]. Làng là bến đậu và chỗ họp của hạm đội. Vùng đồng ruộng chung
quanh thật bằng phẳng, chỉ hơi nhấp nhô một vài nơi: gồm có ruộng lúa và ruộng
trồng bông vải thấp lè tè. Cảnh vật buồn tênh. Tất cả sinh hoạt đều dồn trên
mặt sông Shang-haĩ, thuyền buồm ngược xuôi không ngừng; nhiều chiếc trọng tải
đến 300 tấn: có đủ khả năng đi biển, rất linh hoạt, xoay trở thật tài tình nhờ
bánh lái có đục lỗ. Tàu bè Âu châu từ khắp nơi trên thế giới đến, xuôi dòng
trên sông nhưng thường thì không ghé vào Woo-sung. Hải quân bỏ neo thành hàng
dài thật oai nghiêm bên phía tả ngạn vì nước sâu hơn; phía hữu ngạn nước cạn có
nhiều cồn. Từ trên cột buồm của chiến hạm Impératrice-Eugénie có thể nhìn thấy
thành phố Shang-ha {44] de Vassoigne sẽ chỉ huy các binh đoàn viễn chinh, dưới
quyền của vị chỉ huy trưởng. Bộ binh, lính đánh bộ người Phi châu, pháo binh,
công binh, hậu cần gồm chung là 85 sĩ quan, 1.303 quân sĩ, 272 vừa ngựa vừa lừa
[45]. Quân sĩ rút bỏ các đảo Chu-san. Biệt đội bộ binh đóng giữ các hòn đảo này
sẽ chuyển về Hong-kong. Ðội thủy quân lục chiến trước đây đặt dưới quyền chỉ
huy của đô đốc do một quyết nghị chung của đồng minh ở Ta-kou, gồm 800 người [46],
nay đem sát nhập vào binh đoàn viễn chinh. Một sĩ quan tùy viên quân sự của bộ
tổng tham mưu được biệt phái thêm cho binh đoàn [47] để bảo quản việc điều động
quân lính và thực thi quân kỷ trong các cơ quan. Công tác lập doanh trại, cứu
thương, lương thực sẽ do ủy ban kế toán quân đội đảm trách, ủy ban do một vị
phụ tá quân nhu trưởng chỉ huy. Sở ngân khố và bưu điện được thiết lập thường
trực tại Saĩgon. Một viên chức liên lạc được đặt tại Singapour để tiếp nhận
công hàm, văn thư từ Âu châu chuyển sang Nam Kỳ.
Như vậy là binh đoàn viễn chinh đã được tổ chức xong. Nếu kể
thêm đội thủy quân lục chiến sẵn có trong thành phần quân lính đóng tại Saĩgon,
cùng với ban chỉ huy đã thành thạo của đội ngũ này, thì số binh đoàn nhỏ tại
Nam Kỳ cũng đã tăng lên đến 4.000 người. Hiển nhiên đây là một binh đoàn [48]
đủ sức tiến lên, chiến đấu, cắm quân và tiếp tục chiến đấu nữa; không như các
toán quân mà sáng thì đổ bộ, chiều phải rút về điểm xuất phát, nếu muốn sống
còn.
Kinh nghiệm ở bắc nước Tàu đã cho thấy sự ích lợi của phu khuân
vác người Tàu. Dưới khí hậu nóng bức, nhiễm độc vì bịnh sốt rét kinh khiếp này,
bọn cu-li[49] lại còn cần thiết hơn nữa. Vì thế ta có chiều hướng đặt người Âu
châu giữ vai trò chiến đấu mà thôi. Một đội quân đánh thuê gồm 600 người được
tuyển mộ và huấn luyện do đại tá hải quân[50] chỉ huy trưởng Canton là
Coupvent-Debois đảm trách.
Tiền bạc, lương thực, than được tồn kho và phân chia cất giữ ở
Hong-kong, theo những chỉ thị và tiêu chuẩn đặc biệt thích nghi và phù hợp cho
nhu cầu của cuộc viễn chinh Nam Kỳ. Chuẩn đô đốc Page nhận chỉ thị phải cho
lịnh các tàu chiến từ Pháp sắp đến đây phải chuyển vào Hong-kong 13.000 đồng
tiền [51] Mễ Tây Cơ mà các tàu này mang theo. Tàu Persévérante giữ trọng trách
cất giữ số tiền đã được chia cho Pháp quy định trong hiệp ước Tien-tsin và thỏa
ước Bắc Kinh. Bốn trăm ngàn khẩu phần lương thực tồn trữ ở Hong-kong xem như đã
đủ cho số lượng phòng cơ. Tất cả các tàu chuyên chở lương thực phải được gởi về
Saĩgon. Trong số 8.000 tấn than trên các tàu của chính phủ Pháp thuê đang cặp
bến Hong-kong, thì 4.000 tấn được chuyển lên bờ, 4.000 tấn còn lại phải chở đến
Saĩgon.
Ðể kết thúc bảng thống kê chuẩn bị cho cuộc viễn chinh Nam Kỳ
cũng phải kể ra đây phần đóng góp của nước Tây Ban Nha. Trước đây đội ngũ người
Tây Ban Nha đóng tại Saĩgon thu hẹp chỉ còn 230 bộ binh. Phó đô đốc Charner
thông báo các việc đang được chuẩn bị và đã được thực hiện đến đại tá đại diện
toàn quyền Hoàng gia Thiên Chúa Tây Ban Nha là Palanca Gutierrez, cùng viên
toàn quyền Phi Luật Tân. Sau đây là lời ông nói với đại tá Palanca, người mà
ông vẫn giữ mối liên lạc cá nhân quí mến và thân thiện: “Người Tây Ban Nha là
những người đồng minh chớ không phải là thành phần phụ thuộc. Nhưng không thể
nào có chuyện phân chia lãnh thổ Saĩgon được. Phải chờ sau này và ở một nơi
khác, tức là Tonquin [52], thì Tây Ban Nha mới có thể được đền bù cho sự hy
sinh vinh quang của mình. Ðó là tinh thần các chỉ thị của Hoàng đế Nã Phá Luân
ban xuống”. Còn về việc đánh nhau thì đô đốc kêu gọi đến tinh thần nhất trí.
Ông tin vào sự hợp tác mà vị toàn quyền Tây Ban Nha hứa hẹn. Nói với đại úy đại
diện Phi Luật Tân, vị thủ lãnh viễn chinh cũng đòi hỏi một tinh thần như vừa
kể. Theo thứ tự ưu tiên ông đòi phía Tây Ban Nha phải gởi thêm cho ông 150 kỵ
binh, 400 lính bộ và 300 thủy binh gốc người Tagal [53]. Manille phải đặc biệt
cung ứng 150 kỵ binh cả người và ngựa; cũng dễ hiểu là vai trò của kỵ binh rất
hữu ích ở Nam Kỳ. Sự tăng viện này đã không hề xảy ra. Nhưng bù lại, đô đốc tìm
thấy nơi đại tá Palanca Gutierrez một sự hợp tác trung thành và nhiệt tâm, điều
này giúp ông có thể tin cẩn vào tinh thần hào hiệp của vị sĩ quan Tây Ban Nha.
Tất cả các công tác không liên quan gì đến chiến dịch viễn chinh
cũng được giải quyết ở Woo-sung. Các chiến hạm Prégent, Dordogne, Gironde lên
đường thực hiện công tác riêng. Chiến hạm Prégent được biệt phái đến
Fou-chow-fou [54], trên bờ biển Fo-kien [55] để nhận tiền bồi thường cho nước
Pháp đã được quy định trong hiệp ước Bắc Kinh. Chuyện này thật gai góc, nhưng
đã được thực hiện tốt và thành công. Tàu Prégent là chiến hạm Pháp đầu tiên
xuất hiện trên sông Min [56], hai bên bờ sông là thành phố Fou-chow. Tàu
Dordogne đến Nhật Bản, nơi đây tình trạng của các nhà ngoại giao và lãnh sự ở
Yeddo [57], vừa được cải thiện chưa được vài ngày nhờ sự hiện diện quân sự của
Pháp và Anh đặt dưới quyền chỉ huy của các chuẩn đô đốc Page và Jones, lại đột
nhiên trở lại cảnh như trong tù. Tàu Gironde đi Bang-cock [58] để đón các sứ
thần Xiêm La.
Những công tác chuẩn bị sau cùng được tận lực thúc đẩy. Các
chiến thuyền hư hại [59] đều cặp bến an toàn ở vũng tàu Shang-haĩ để sửa chữa.
Từ 15 đến 21 tháng 1, thủy thủ đoàn và thiết bị lần lượt cho lên tàu để lên
đường đi Saĩgon. Ngày 24 tháng 1, vị tổng chỉ huy rời Woo-sung, ngày ông rời
Woo-sung ông đã quyết định từ trước. Vừa lúc chiến hạm Impératrice-Eugénie của
đô đốc vượt cửa sông Yang-tze-kiang[60], thì tàu Dryade do chuẩn đô đốc Protet
chỉ huy cũng vừa tiến vào cửa sông để cặp bến Shang-haĩ.
Tàu Impératrice-Eugénie chỉ ghé Hong-kong có 4 hôm để nghỉ ngơi.
Tại Hong-kong tất cả đã được chuẩn đô đốc Page sửa soạn chu đáo từ trước, còn
chính ông thì đã đến Nhật được 20 ngày rồi. Các tàu Fusée và Calvados vẫn còn
tiếp tục sửa chữa. Thủy quân lục chiến được chuyển nhanh chóng lên tàu
Impératrice-Eugénie để tàu nhổ neo đi Nam Kỳ. Ngày 7 tháng 2, tàu ngược sông
Don-na2] Tức Hàm Phong (1831–1861), Hoàng đế nhà Thanh 1850–1861 – TN
[3] Tức Nhiệt Hà – TN
[4] Tức Thiên Tân – TN
[5] Chưa tìm được tên gốc của các phiên âm. “Takou” phải chăng
là “Đại Cổ”? – TN
[6] Tức Cung thân vương Dịch Hân (1833-1898) – TN
[7] Tức là nước Nga. (ghi chú của người dịch (ND))
[8] Tức Nikolai Pavlovich Ignatiev (1832–1908), Bá tước Nga – TN
[9] Nước Anh và nước Pháp liên kết đi đánh Tàu. – ND
[10] Tức Napoleon đệ tam. – ND
[11] Chưa rõ phiên âm Tche-fou. Shang-haĩ chính là Thượng Hải. –
TN
[12] Tức Quảng Đông – TN
[13] Thật ra thì vào lúc đó, tình thế của Saĩgon đã dươc cải
thiện, nhưng vị chỉ huy trưởng Canton buộc phải tuân lịnh của Tổng tư lịnh gởi
đi từ tháng 7 năm 1860 bắt phải chuyển một đại đội bộ binh đến Saĩgon. Trong
khi ấy trại quân Saĩgon vừa được bổ xung một trăm thủy quân chiến đấu do tàu
Weser chở tới. Hai trăm quân bổ sung khác sẽ còn được liên tục chở đến sau. –
Tác giả (TG)
[14] Nguyên văn bản dịch là “Đại tướng”. Thực ra, “Général” chỉ
có nghĩa là “tướng” nói chung, còn
Général d’armée” mới có nghĩa là “Đại tướng”. Jamin giữ cấp bậc
“Général de brigade”, tương đương
huẩn tướng. – TN
[15] Nguyên văn bản dịch là “Đại tướng”. Collineau giữ cấp bậc
“Général de brigade”, tương đương Chuẩn tướng. – TN
[16] Nguyên văn bản dịch là “Đại tướng”. Tuy nhiên cấp bậc của
Montauban lúc bấy giờ là “Général de division”, tương đương “Thiếu tướng”.
[17] Tức sông Bạch Hà, nay gọi là sông Hải Hà ở Turng Quốc. – TN
[18] Mỗi dặm là 4,445 km. – ND
[19] Ðó là dấu hiệu trọng vọng lớn lao, nhưng hơi khác với cờ
của tổng tư lịnh trong hải quân, cũng gần giống như vậy. - TG.
[20] Tức Ngô Tùng. – TN
[21] Ðệ nhất đế chế: là chế độ chính trị Pháp từ tháng 5 năm
1804 đến tháng 4 năm 1814, Napoleon đệ nhất làm hoàng đế. – ND
[22] Nguyên văn bản dịch là “tàu chuyên chở có trọng tải nặng”.
Thực ra “vaisseau de ligne” có nghĩa là “đại chiến hạm chủ lực” - TN.
[23] Frégate de premier rang: Tàu chiến loại lớn có 3 cột buồm.
– ND. Nguyên văn bản dịch là “tàu chiến đấu”. – TN
[24] Frégate de deuxième rang: Tàu chiến loại nhỏ hơn có 2 cột
buồm. – ND
[25] Nguyên văn bản dịch là “Đại pháo hạm”. Thực ra “corvette”
có nghĩa là “chiến hạm” – TN
[26] Nguyên bản là “aviso”. – TN
[27] Nguyên bản là “aviso de flottille”. – TN
[28] Nguyên văn bản dịch là “chiến hạm”. Thực ra “bâtiment de
flottille” có nghĩa là “chiến thuyền hạng nhẹ” – TN
[29] Nguyên văn bản dịch là “pháo hạm”. Thực ra “canonnière” có
nghĩa là “pháo thuyền” – TN
[30] Nguyên văn bản dịch là “thuyền đại pháo bằng sắt có thể
tháo lắp được”. – TN
[31] Nguyên văn bản dịch là “tàu trọng tải chạy chân vịt mang
theo mỗi tàu hai giàn đại pháo”. – TN
[32] Nguyên văn bản dịch là “Đại tướng”. – TN
[33] Nguyên văn bản dịch là “đại úy thuyền trưởng đại chiến
hạm”. – TN
[34] Nguyên văn bản dịch là “đại úy thuyền trưởng tàu chiến
đấu”. – TN
[35] Nguyên văn bản dịch là “trung úy chiến hạm”. – TN
[36] Nguyên văn bản dịch là “sĩ quan hải quân cấp trung úy”. –
TN
[37] Nguyên bản ghi “chaudière”, nghĩa là “nồi hơi”. – TN
[38] Tiếc quá, tác giả chẳng tìm được cô gái Tàu nào ở Thượng
Hải sao? Có thể đây là cách viết của tác giả để tự ám chỉ mình một cách kín
đáo? – ND
[39] Dịch sát nghĩa từ “Capitaine”, tương đương cấp sĩ quan cấp
Tá trong Hải quân Pháp. – TN
[40] Tức sông Dương Tử. – TN
[41] Tức sông Hoàng Phố. – TN
[42] Câu này cho ta đoán có thể tác giả là người ở trên Chiến
hạm Impératrice-Eugénie, hoặc thuộc đạo quân thủy quân lục chiến được đưa lên
tàu đi Nam Kỳ. – ND
[43] “Hoàng đế quyết định hôm nay ở hội đồng chính phủ truyền
cho thống chế bộ trưởng chiến tranh ra lịnh bằng văn thư ngày tức khắc cho
tướng Montauban để bàn thảo và hội ý với ông trong mục đích chiếm giữ cho nước
Pháp vị trí thật quan trọng là Saĩgon”
Và kế tiếp: “Hoàng đế, ông biết không, đã sai viết thư cho tướng
Montauban bảo ông này phải đặt dưới quyền của ông 1.800 quân”
(Hai đoạn trên trích từ 2 công văn của bộ trưởng hải quân gởi
cho phó đô đốc Charner, ngày 26 tháng 9 và 10 tháng 12 năm 1860). – TG
[44] Nguyên văn bản dịch là “Đại tướng lữ đoàn”. – TN
[45] Ghi chú của TG
Sĩ quan Lính Ngựa
Bộ binh ----------------
39
709 22
Bộ binh người Phi châu
3
29 31
Pháo binh---------------
15
316 184
Công binh---------------
4
77
13
Hậu cần------------------
24
172 22
[46] Tướng O’Malley, trên nguyên tắc, phải rời bỏ Tien-tsin cùng
với trung đoàn chiến đấu 101 đến Saĩgon. Nhưng việc này không được thực thi
đúng như vậy, vì sau đó chuẩn tướng de Vassoigne (thủy binh lục chiến) được chỉ
định bằng công hàm bộ trưởng giữ chức phó chỉ huy trong binh đoàn viễn chinh
đánh chiếm Nam Kỳ. ‘’...Tôi có sai tham mưu trưởng bộ tổng tham mưu viết thư
cho tướng O’Malley, ngay khi có thể thực hiện được, sẽ cùng với tiểu đoàn chiến
đấu 101 đến Saĩgon xáp nhập với ông.’’ (Trích thư của tướng Cousin-Montauban
gởi cho phó đô đốc Charner, ngày 14 tháng giêng 1861). – TG. Cả O’Malley và de
Vassoigne đều mang cấp bậc “général de brigade”. – TN
[47] Vị chỉ huy trưởng kỵ binh của Bộ tham mưu được chỉ định giữ
chức vụ này, và một đại úy cũng của Bộ tham mưu làm phụ tá cho ông. – TG
[48] Nguyên văn bản dịch là “quân đoàn”. – TN
[49] Nguyên bản là “coolie”. – TN
[50] Nguyên văn bản dịch là “đại úy hải quân”. – TN
[51] Nguyên bản là “piastre”. – TN
[52] Câu ‘’hớ” này cho biết ý đồ của người Pháp sẽ đánh chiếm
hết xứ Annam, chớ không phải chỉ nhắm vào hai tỉnh Gia Ðịnh và Ðịnh Tường. – ND
Trong bản dịch ghi là Bắc Kỳ, nay giữ lại như nguyên bản. – TN
[53] Người Philippine gốc Malaysia. - ND.
[54] Tức Phúc Châu phủ. – TN
[55] Tức Phúc Kiến. – TN
[56] Tức sông Mân Giang. – TN
[57] Tức Yedo, Nhật Bản. – TN
[58] Tức Bangkok. – TN
[59] Gồm các chiến hạm : Dragonne, Mitraille, Alarme, Prégent,
Alom-prah. – TG
[60] Tức Dương Tử Giang. – TN
[61] Tức sông Đồng Nai. - TN
(Còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét