Hoài niệm sân bóng tròn ngày xưa trước 1975
Y Nguyên Mai Trần
Theo
tài liệu, thì sân bóng tròn đủ tiêu chuẩn đầu tiên tại Đông Dương được
xây dựng năm 1906 bởi câu lạc bộ Cercle Sportif Saigonnais (CSS) trong
khuôn viên Jardin de la ville (Parc Maurice Long-vườn Bồ Rô) cùng một lúc
với hai sân quần vợt và vòng đua điền kinh (thay thế vòng đua xe đạp
có trước-Vélodrome). Sau khi học được các luật lệ và nguyên tắc kỹ thuật
chơi bóng tròn, người Việt theo sau, trong khoảng 1907-1910 lập ra hai
đội đầu tiên, đội Gia Định Sport và đội Ngôi Sao Xanh (Étoile Bleue). Năm
1922, hai đội này được xáp nhập lại với tên mới “Ngôi sao Gia Định”
(Étoile de Gia Định) . Tuy thế mải đến giai đoạn VNCH (1954-1975) túc
cầu Nam Việt Nam mới trở thành thời kỳ cực thịnh , trong khu vực Đông
Nam Á, và cả làng bóng quốc tế, với những tên tuổi Phạm Văn Rạng, Phạm văn
Mỹ, Đổ Thới Vinh, Phạm Huỳnh Tam Lang, Lâm Hồng Châu…
Cũng
nên nhắc lại trước 1975 , VNCH dù trong hoàn cảnh khó khăn, luôn giương
cao màu cờ sắc áo trong tất cả các Thế Vận Hội, các cuộc tranh hùng ở Đông Nam
Á, Á Châu, World Cup . Người miền Nam vẩn còn nhớ tên tuổi sáng chói
như Phan Hữu Dỏng bơi lội; anh em Võ Văn Thành, Võ văn Bảy quần vượt;
Mai Văn Hòa, Lê Văn Tiết bóng bàn; Lê thành Các , Nguyễn văn Châu, đua
xe đạp, Phạm Lợi Nhu Đạo, đội tuyển bóng tròn Việt Nam được giới
túc cầu quốc tế kính nể . Thời này túc cầu Việt Nam ngang ngữa với
Nam Hàn, Hương Cảng còn Nhật thì chỉ mới bắt đầu khởi sắc. Sân Tao
Đàn và Sân Cộng Hoà là nơi chứng kiến những trận thư hùng tranh giải
hay giao hửu giữa các đội banh tuyển, nổi tiếng ở Saigon và các đội
banh đến từ châu Á, Anh, Pháp, Áo, Úc, Peru, Brasil, Hungary, Mỹ…
Lại
cũng thời kỳ này môn bóng tròn hay túc cầu được mọi người ham mộ
nhiệt thành.Nhất là
lứa tuổi thanh niên, học sinh trung, tiểu học, đại học. Sau những buổi
tập thể dục, thường ở lại sân để chơi thể thao mà môn thể thao dể
hoà nhập với bạn bè, không tốn tiền nhiều là môn đá banh. Chính
phong trào bóng tròn cuối thập niên 50s và thập niên 1960s của các
trường trung học công cũng như tư trên toàn miền Nam, đã là môi trường
nuôi dưỡng, trui rèn sản xuất ra cầu thủ cho nền bóng tròn huy hoàng
thời VNCH.
Bài viết này dùng hai từ bóng tròn hay túc cầu thay vi bóng đá (trong miền Nam, hai từ bóng đá chỉ dùng sau 1975). Môn đá banh, bóng tròn, túc cầu , chỉ cần một quả banh tròn , một số bạn bè và một sân banh kề cận, nhiều khi cũng không cần ai chỉ bảo, dạy dổ tuổi trẻ tự do phát triển theo năng khiếu tự nhiên của từng cá nhân hay theo bước chân cha, anh, bạn bè. Ở tuổi tiểu học, những năm đầu trung học thì đá chân không, ngực trần, đôi khi có áo thun, quần đùi, lớn lên những năm cuối trung học thì đá giày, banh tùy mình mang đến sân, hoặc có thể được trường cung cấp, nhất là trong các cuộc giao đấu tranh giải học đường.
Bài viết này dùng hai từ bóng tròn hay túc cầu thay vi bóng đá (trong miền Nam, hai từ bóng đá chỉ dùng sau 1975). Môn đá banh, bóng tròn, túc cầu , chỉ cần một quả banh tròn , một số bạn bè và một sân banh kề cận, nhiều khi cũng không cần ai chỉ bảo, dạy dổ tuổi trẻ tự do phát triển theo năng khiếu tự nhiên của từng cá nhân hay theo bước chân cha, anh, bạn bè. Ở tuổi tiểu học, những năm đầu trung học thì đá chân không, ngực trần, đôi khi có áo thun, quần đùi, lớn lên những năm cuối trung học thì đá giày, banh tùy mình mang đến sân, hoặc có thể được trường cung cấp, nhất là trong các cuộc giao đấu tranh giải học đường.
Nói chung, tuy điều kiện
tối thiểu, sân banh hay khoảng đất trống, giày hay chân không, thanh,
thiếu niên vẩn đam mê miệt mài đến trời chạng tối mới về. Khuyến
khích bởi những phong trào thể thao học đường để đào tạo mầm non,
tuổi trẻ có cơ hội phát triển năng khiếu bóng tròn đóng góp vai trò
quan trọng trong thời kỳ vàng son của túc cầu Việt.
Hinh 1: Đội banh chân không
của trường trung học Mỹ Tho 1944.
Inset ̣-ảnh nhỏ: tuổi thơ trong
xóm.
Nhà người viết ở gần
sân banh Lê Văn Duyệt ở đường Trung Dũng- quận Gò Vấp, mổi chiều chỉ
cần bạn bè rủ rê là cả đám ôm banh, len lỏi theo đường mòn trong xóm
ra đến sân banh, chọn một phần sân rồi chia phe nhau đá, lớn lên đá cả
sân nhưng không có lưới. Khi nào bị kẹt sân thì ngồi đợi cho tới khi
sân trống thì “nhào vô”.
Sân Lê Văn Duyệt còn là
sân vận động thể thao, thể dục của trường trung học Hồ Ngọc Cẩn
(nằm trên đường Lê Quang Định, gần chợ Bà Chiểu, bây giờ là trường
tiểu học Nguyễn đình Chiểu) Sân này còn chứng kiến những trận tranh giải
giữa các trường trung học và cũng là sân chủ của đội banh nổi tiếng Gò
Vấp.
Cùng hoài niệm về sân
banh và bóng tròn mà bạn bè dù xa nhau ngàn dặm vẩn còn nhớ, cùng
nhau kể chuyện năm xưa với mối thâm tình thuở trước. Thời ấy hình như bóng
tròn là bóng dáng của tuổi thơ, đi đâu cũng thấy có sân sân banh, sân vận
động , đội banh này đá với đội banh kia , giới hâm mộ ngồi quanh nghe
Huyền Vủ trực tiếp truyền thanh, tường trình những trận đá banh lớn , nhờ
thế mà ai cũng biết đến những đội banh lớn như Quan Thuế, Tổng Tham
Mưu, Đội Cảnh Sát Quốc Gia, AJS, (Association để là Jeunesse Sporttive), Không
Quân, Hải Quân…
Viết thêm về Huyền Vũ,
gia đình ông trước 1975, cư ngụ cùng xóm với người viết, xóm Gà, cư
xá Thanh Bình 2, đường Ngô Tùng Châu, Gia định-nay là khu nhà đối diện
với chùa Pháp Vân, đường Nguyễn văn Đậu, Bình Thạnh. Huyền Vũ sang
định cư và mất tại Hoa Kỳ năm 2005 , hưởng thọ 91 tuổi.
Huyền Vũ tên thật là Nguyễn
Ngọc Nhung, người Phan Thiết, chủ bút tạp chí thể thao hàng tuần và báo Nguồn
Sống trước năm 1975, còn là một ký giả thể thao nổi tiếng qua những bài tường
thuật cũng như bình luận các trận cầu quốc tế tại sân cỏ. Nghe ông tường
thuật người ta cãm thấy như mình đang xem trận đấu trên sân cỏ, đây là
khả năng thiên phú cộng vói sự hiểu biết về môn bóng tròn và sự
theo dỏi sát sao khả năng của từng cầu thủ. Huyền Vũ là biểu
tượng-icon của nền túc cầu VNCH đã đóng một vai trò vô cùng quan
trọng trong việc quãng bá môn bóng tròn, một thiên tài khó có người
thay thế.
Hinh2: Ký giả Huyền Vũ
Bài viết này mời người
đọc cùng đi tìm lại sân bóng tròn xưa vùng Sài Gòn Gia Định, một số
tên đã chìm trong quên lảng. Dùng không ảnh và bản đồ xưa định vị sân
banh cho đúng hơn, chỉnh sửa một số chi tiết thông tin không đúng trên
mạng cùng gợi lại một chút hoài niệm thân thương của một thời tuổi
trẻ.
Sân banh nhưng cũng gọi
là vận động trường nếu sân có cả phương tiện cho những môn thể thao
điền kinh,
Trước 1975, thành phố Sài
Gòn và vùng phụ cận Gia Định có khoảng 12 sân bóng tròn. – Tao Đàn, Cộng
Hoà, Hoa Lư, Quân Độị (Tổng Tham Mưu), Mayer (Hiền Vương) , Lam Sơn
(Pétrus Ký), Lê Văn Duyệt, Chí Hoà (Hòa Hưng), Nguyễn văn Học (Viện
Ung Thư Gia Định) , Sân Marine gần sát bệnh viện Saint Paul và trước
1950 có sân của Đội Saigon Sport gần trường Áo Tím Gia Long và sân Phú
De hay sân Lò heo (Fourrière) trước lăng Tả Quân Lê Văn Duyệt.
Sau 1975 sân Tao Đàn , Hoa
Lư giử tên cũ. Sân Cộng Hòa đổi tên Thống Nhất. Các sân khác đã bị
đổi tên, biến dạng hoặc biến mất. Nói chung phần lớn, các sân còn
tồn tại cũng đã biến dạng theo xu hướng thương mại hóa, chia năm xẻ
bảy biến thành “mini-bóng đá” để thoã mản nhu cầu thể dục thể thao
của học sinh-thanh niên . Thực tế ngày nay người Việt nói chung không
hứng khởi, mặn mà, nhiệt thành với môn bóng tròn như xưa vi nhiều lý
lẽ trong đó có lý do kinh tế gia đình, sân bãi thiếu thốn, không đủ
tiêu chuẩn, kỷ năng nhà nghề chưa cao, cơ cấu quản trị chưa minh bạch, áp
lực kinh tế lấn áp khả năng quản trị-điều hành sân cỏ-nhiều sân mini thảm cỏ
nhân tạo , sân vận động biến thành khu giải trí, thiếu chiến lược nuôi
dưỡng và phát triển mầm non từ các phong trào thể thao ở các học
đường.
Điều này được phản ảnh qua
hiện tình bóng tròn hiện nay không khởi sắc, không so bì được với nền
túc cầu VNCH đã từng làm mưa gió trong những cuộc tranh tài Á Châu, Đông
Nam Á.
Hình 3: Đội tuyển VNCH , huy chương vàng SEAP Games 1959
Hình 4: Đội tuyễn VNCH
tham gia giải vô địch thế giới FIFA World cup 1974.
VNCH được xếp vào group 1
cùng với Hương Cảng và Nhật, thua cả hai, bị loại vòng ngoài.
Vị trí các sân bóng tròn xưa trước 1975.
Thời Pháp trước 1954,
các sân lớn hiện còn như Sân Tao Đàn có tên là Camp de football Jardin
de la Ville, Sân Hoa Lư là Citadelle, sân Cộng Hoà- Thống Nhất là
Rénault
Hinh 5. Vị trí các sân
banh vùng Saigon Gia định trên bản đồ 1968
Tham
khảo hình 5.
1-Sân
Lê Văn Duyệt (đường Trung Dũng, Gò Vấp, nay Nguyên Hồng) bị chính
quyền địa phương “biến” thành khu dân cư sau 1975.
2-Sân
Nguyễn Văn Học nay không còn nữa.
Sân
này xưa nằm trong khu Viện Ung Thư nằm sát bên bệnh viện Nguyễn Văn
Học (sau đó người Mỹ giúp xây dựng lại đổi thành bệnh viện Gia
Định). Sân banh Nguyễn Văn Học chỉ tồn tại cho tới khi sân bị trưng
dụng làm bệnh viện khoảng giữa thập niên 1960s
3-Sân Fourrière nằm phia trước Lăng Tả Quân, nơi đây có khoảng đất trống, thời Pháp dùng là phú de và trại lính mã tà tập luyện. Sân này cũng là nơi “luyện tập cuả đội banh nức tiếng Ngôi Sao Gia Định của những thập niên trước 1950s,
3-Sân Fourrière nằm phia trước Lăng Tả Quân, nơi đây có khoảng đất trống, thời Pháp dùng là phú de và trại lính mã tà tập luyện. Sân này cũng là nơi “luyện tập cuả đội banh nức tiếng Ngôi Sao Gia Định của những thập niên trước 1950s,
4-Sân
Citadelle (còn gọi là Hào Thành), nay Hoa Lư vẩn còn vị trí củ
5-Sân
Tao Đàn-nay vẩn còn ở vị trí củ
6-Sân
Quân Đội – nằm phía sau cổng chánh vào Tổng Tham Mưu- là nơi “dụng
võ” của đội banh Tổng Tham Mưu- nằm trên đường Võ Tánh, Phú Nhuận
trên đường lên sân bay Tân Sơn Nhứt- Hiện sân này vẩn còn với tên sân
vận động quân khu 7.
7-Sân
Mayer-Hiền Vương-không còn nữa
8-Sân
Marine-nằm cạnh nhà thương St Paul, không còn nữa
9-Sân
Saigon Sport-nằm cạnh trường Gia Long, không còn nữa.
10-Sân
Cộng Hòa –sau 1975, đổi tên Thống nhất, vẩn còn.
11-Sân
vận động Lam Sơn – thu hẹp lại nhưng vẩn còn
12-Sân
Chí Hòa, gần khám Chí Hòa-không còn nữa.
Hinh 6: Vị trí sân banh
Nguyễn văn Học và Fourriere (sân Lò heo ?) ngày xưa.
Sân Fourrière
Thời
Pháp đi từ phía Saigon qua Cầu Bông đến Lăng Tả Quân, trước khu mặt
tiền của Lăng Tả Quân Lê Văn Duyệt là khu sân tập của trại lính “mả
tà” cảnh sát, phát âm trại từ tiếng Pháp matraque (dùi cui, một loại vủ khí
cảnh sát đeo lủng lẳng bên hông)(14). Trước đó đây là khu phú de (tiếng
Pháp fourrière, là nhà kho, chổ nhốt chó, bò vô chủ) được Pháp biến
thành sân banh gọi là sân banh Fourrière là bản doanh, sân tập dượt
của đội banh người Việt – Ngôi Sao Gia Định, một trong những đội banh
nổi tiếng nhất miền Nam, đoạt rất nhiều giải thưởng thời bấy giờ.
Ngôi
sao Gia Định được coi là một trong “tứ hùng” gồm Stade Millitaire, Cercle
Sportif Saigonnais, Saigon Sport. Sau này Cercle Sportif Saigonnais và Cercle
Sportif Annamite lập ra ủy ban liên câu lạc bộ gọi là Commission Sportive
Interclubs (C.S.I) để tổ chức các giải như giải vô địch Nam kỳ.
Ngôi
sao Gia Định đã đoạt chức vô địch Nam kỳ trong các năm 1932, 1933, 1935, 1936.
Cùng lúc này có rất nhiều hội đá banh hoạt động mạnh như Cercle Sportif , Gia
Dinh Sport, Commerce, Govap Sport , Cho Lon Sport, Khanh Hoi Sport, Chi Hoa
Sport, Paul Bert Sport, Saigon Sport …(15)
Ngôi
sao Gia Định tạm giải tán vào năm 1954, các cầu thủ gia nhập vào các đội AJS
(Association de la Jeunesse Sportive) và Cảnh sát. Cuối thập niên 1950, nhiều
đội banh nổi tiếng trước đây ở Sài Gòn- Chợ Lớn dần biến mất hay sáp nhập với
các đội banh có nhiều tài chính hơn thuộc các cơ sở thương mại hay cơ quan
chính quyền như đội Tổng tham mưu, Việt Nam thương tín, Cảnh sát, Quan thuế…(
Phụ Lục 5).
Hinh 7: Đội banh Gia Định Sport-Ngôi Sao Gia Định
Từ
lăng Ông đi về phía trường Vẽ, bây giờ là trường Đại Học Mỹ Thuật TP.HCM, quẹo phải vào đường Nơ
trang long. Đi về phía ngã Tư Bình Hòa-trước khi đến khu rạp chiếu bóng và
hồ tắm Đại Đồng , là Viện Ung Thư gần sát bên nhà thương Nguyễn Văn Học (sau
đổi tên Bệnh viện nhân dân Gia Định), phía trước khu nhà xác. Khu đất Viện Ung
Thư một thời là vị trí của sân banh Nguyễn văn Học Gia Định – vì đường Nơ trang
long , thời trước 1975 có tên Nguyễn Văn Học .
Cũng
nên biết ông Học sanh ra với họ Trần, là tướng thời vua Gia Long, ông
được nhà vua cho phép đổi họ Trần thành Nguyễn. Đường Nguyễn Văn Học
là con đường lớn chạy dài từ trường Vẻ đến hướng cầu Bình Lợi trên
trục Quốc Lộ 1- Thiên Lý-đi đến Thủ Đức, Lái Thiêu, Thủ Dầu Một,
Biên Hòa… Sau 1975 đổi thành đường Nơ Trang Long, Bình Thạnh.
Hinh 8: Bản đồ Trần Văn Học 1815 là bản đồ do người Việt Nam vẽ đầu tiên với
hiệu đính địa danh lấy từ cuốn Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức. (16)
Sân Lê Văn Duyệt
Hinh 9: Trường Mỹ Nghệ Thực Hành đầu đường Nguyễn Văn Học 1960
Từ trường Mỹ Nghệ đi
xuống ngả Tư Bình Hòa rồi đến ngã Năm Bình Hòa, quẹo trái vào đường Phan
Văn Trị , tiếp tục lần theo đường Phan văn Trị cho đến khi quẹo phải vào
đường Trung Dủng trước 1975 (còn gọi là vùng chợ Cây Thị) nay có tên
Nguyên Hồng, Gò Vấp.
Sân Lê Văn Duyệt cửa chính
nằm trên đường Trung Dủng, sân có một khán đài nhỏ nằm bên tay phải, vòng
đua điền kinh bao quanh sân banh, hai đầu sân vận động là nơi đặt phương
tiện tập điền kinh, có nhà người giữ sân nằm ở góc sân. Một kỹ niệm đặc
biệt cho người viết , nơi đây được nhìn thấy dung nhan của nghệ sĩ Cải Lương
Thanh Nga – con gái ông Bầu Thơ chủ nhân gánh hát nổi tiếng Thanh Minh-Thanh
Nga thời bấy giờ, hình như cô đến dự buổi khánh thành khán đài gì đó – trong
chiếc áo dài màu hồng ,mặt hoa da phấn , rất đẹp nhưng hơi nhỏ người. Sự kiện
đặc biệt xảy ra trong thời gian xảy ra cuộc đảo chánh không thành công của Đại
tá Nguyễn chánh Thi và nhóm Nguyễn triệu Hồng, Vương văn Đông ngày 1/11/60
muốn lật đổ Tổng Thống Diệm
Hình 10: Bản đồ 1968 cho thấy
vị trí của Sân Lê Văn Duyệt – nay không còn nữa
Sau 30/4/1975. Sân banh bị
“quy hoạch” biến thành khu dân cư – Cư xá Nguyên Hồng
Hinh 11: Sân banh Lê Văn
Duyệt ngày nay là cư xá Nguyên Hồng
đường Nguyên Hồng.(Trung Dũng xưa)
Sân Quân Đội
Từ trường Vẽ, theo thời
gian lại có nhiều tên khác như Mỹ nghệ thực hành, Cao Đẳng Mỷ Nghệ rồi bây
giờ sau 75 là trường ĐH Mỹ Thuật. Cổng chánh vào trường nằm ở đầu đường
Nguyễn văn Học có hàng điệp, phượng vĩ xen lẫn với me. Đường Chi Lăng nay Phan
đăng lưu nằm phía trước trường về đi về hướng Phú Nhuận . Đường Chi
Lăng năm xưa có hàng cây keo, nên tên dân gian là đường Hàng Keo.
Đường Chi Lăng đi thẳng
xuống ngã Tư Phú Nhuận quẹo trái vào đường Vỏ Di Nguy- đường nối dài của Hai
bà Trưng (thời Pháp là đường Paul Blanchy ) sau 1975 Vỏ di Nguy đổi thành Phan
Đình Phùng). Quẹo phải vào đường Vỏ Tánh nay là Hoàng văn thụ chạy thẳng lên
phi trường Tân sơn Nhất . Ngã ba Vỏ Tánh và Cách Mạng ( khúc đường nối dài
của đường Công Lý khi qua cầu rạch Nhiêu Lộc bây giờ là đường Nguyễn văn trổi)
có cổng chính vào doanh trại bộ tổng tham mưu VNCH nằm phía mặt nếu đi
từ hướng Phú Nhuận-Saigon trên đường lên sân bay Tân Sơn Nhất. Sân vận
động Quân Đội-còn gọi là sân vận động Tổng Tham Mưu nay là sân vận động
quân khu 7. Đây là sân chủ, nơi tập luyện của đội banh nổi tiếng Tổng
Tham Mưu.
Hinh 12: Sân Quân Đội –Tổng Tham Mưu
Hinh 13 : Không ảnh Sân Quân Đội- Tổng Tham Mưu 1969 (17)
Sân
chủ của đội banh Tổng Tham Mưu , một trong những đội banh nổi tiếng
thời VNCH với “ lưởng thủ vạn năng” Phạm Văn Rạng là thủ môn khét
tiếng miền Nam và Đông Nam Á thời bấy giờ.
Hình
14: Trận đấu banh bầu dục Rugby giao hữu trên sân quân Đội giữa thủy
thủ Úc của chiến hạm HMAS Quiberon và đấu thủ của hội Cercle Sportif
(Saigon Sports Club) trước đám khán giả cổ vỏ trên khán đài từ trại
Davis-1963 (18)
Hình
15: Sân vận động Quân Đội -1965, lính Mỹ gọi sân này Pershing Field Ball
Park (theo tên của một quảng trường nổi tiếng ở tiểu bang New Jersey-
Pershing Field Park, Pershing là tên của một vị tướng nổi tiếng Mỹ.
Hinh
16: trận đấu giao hữu giữa đội banh truyền tin Mỹ 69th Signal BN và
đội truyền tin Quân Đội VNCH 19/11/1967
Cũng
nên biết trại Davis nằm trong khu Tổng Tham Mưu ỏ Tân Sơn Nhất là nơi
đặt trụ sở của hai phái đoàn đại biểu quân sự Cộng sản -Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam thi
hành Hiệp định Paris 27/1/1973 về chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam.Tuy nhiên, hiệp định
này không bao giờ được thi hành vì miền Bắc quyết tâm dùng võ lực
đánh chiếm Miền Nam.
Hinh
17: Trại Davis trong khuôn viên Bộ Tổng Tham Mưu-Tân Sơn Nhất và sỉ quan
Bắc Việt trong trại 1973
Qua khỏi cầu Bông, ngày
xưa có thể quẹo trái vào đường Đinh Tiên Hoàng (đường Albert 1er, thời
Pháp) , bây giờ là đường một chiều, chạy đến gần ngã tư Đinh Tiên
Hoàng – Hồng Thập Tự nay là Nguyễn thi minh khai, phía bên trái
là sân Citadelle , còn gọi là sân Hào thành thời Pháp , thời VNCH đổi
thành sân Hoa Lư.
Sân Hoa Lư-Citadelle
Hinh 18: Sân Citadelle-Hào
Thành-Hoa Lư -bản đồ 1968.(19)
Hinh 19 : Khu vực sân
Citadelle và công xưởng Hải Quân Ba Son và kho đạn của quân Nhật bị máy bay Mỹ
ném bom tháng 4-1945 trong thời kỳ Nhật chiếm SG thời Đệ nhị Thế chiến.
source:fold3.com
Hình 20 : Không ảnh sân
Hoa Lư chụp ngày 29/3/1950
Hinh 21: Vị trí sân Hoa Lư,
thời Pháp gọi là sân Citadelle (còn gọi là Hào Thành) nằm trọn trong
khuôn viên thành Phụng -Gia đình thành
(xem bản đồ của ông Trần Văn Học phụ
lục 5.) (20)
Sân Hoa Lư còn là nơi hội
họp và tập luyện của môn phái VOVINAM- cũng nên biết VOVINAM thời ấy có hai vỏ
đường luyện tập là sân Hoa Lư và Sân Lam Sơn gần trường Petrus Ký nay là
trường Lê Hồng Phong
Hinh 22: Môn sinh VOVINAM
tại sân Hoa Lư 1966 (21)
Sân Mayer
Sân Hiền Vương – Mayer
Theo dòng lịch sử thì sân
Mayer được thành lập vào ngày 19 tháng 1 năm 1929 bởi tổng cục thể thao An Nam
( la Commission Interclubs Annamite (C.I.A). Tham khảo bản đồ Pháp năm 1947
hình 23 trong bài viết, sân banh nằm trong khu vực của các đường Mayer (Hiền
Vương/ Võ Thị Sáu), Lareynière (sic: Larégnère (Đoàn Thị Điểm–Trương
Định), Champagne (Yên Đổ/ Lý Chính Thắng) và Pierre Flandin (Bà Huyện Thanh
Quan) . Lúc đầu diện tích sân rất lớn với sức chứa khoảng 6000 người vào
năm 1930 so với sân Tao Đàn khoảng 3000 người về sau bị xén cắt bớt, thay
vào đó là những biệt thự, khu dân cư rồi biến hẳn luôn.
Hinh 23 : Vị trí sân Mayer, sân Marine, sân Saigon-Sport trên bản đồ 1947.
Hình 23a: Vị trí Sân Mayer, Sân Marine, sân Saigon Sport trong bản đồ 1952-1955
Tham khảo bản đồ Saigon
năm 1947 và 1952, sân Mayer, sân Marine nằm cạnh bệnh viện Saint Paul và
sân của đội banh Saigon Sport nằm cạnh trường Gia Long Áo Tím (sau 1975
đổi thành Nguyen thi minh khai), Sân Maurice Long (Tao Đàn) và Sân
Citadelle –Hào Thành (Hoa Lư thời VNCH)
Hinh 24: Bản đồ Sài Gòn
Chợ Lớn 1960.
Tham khảo bản đồ 1960 ,
vị trí của sân Mayer vẩn còn nằm trong khu tứ giác –Hiền Vương, (Võ
thi sáu) Đoàn Thị Điểm(Trương Định), Bà Huyện Thanh Quan và Yên Đổ
(Lý chinh thắng).
Hinh 25: Bản đồ 1968
Tham khảo bản đồ 1968 :
Sân cỏ trống, Sân Mayer và sân Marine và Sân Saigon Sport đã biến mất
trên bản đồ, thế vào đó là nhà ở, chung cư hay cơ quan công lập
Hình 26: Không ảnh vùng sân banh Mayer 2017
Sân Mayer là nơi chứng
kiến sự thành công ban đầu của nền bóng tròn Nam kỳ với trận thư hùng
của hai đội nam nữ. Tuy bóng tròn xuất hiện cuối thế kỹ 19, đầu thế
kỹ 20, Sài Gòn vẩn chưa có bóng đá nữ. Khoảng năm 1932, ở Cần Thơ mới xuất
hiện đội bóng nữ Cái Vồn (Equipe Feminine de Cai-Von), Cái Vồn là một quận
thuộc tỉnh Cần Thơ trước 1975 cũng là quê hương của hai nhân vật nổi
tiếng ở miền Nam, ông Trần Văn Soái tự Năm Lửa thủ lãnh Hoà Hảo và
ông Phan Khắc Sửu (quốc trưởng Việt Nam Cộng Hòa 1964-1965) . Ông Sửu
là người sáng lập ra đội banh nữ Cái Vồn. Trong trận thư hùng lịch
sữ nam nữ đầu tiên trong lịch sữ bóng tròn Việt, đội Cái Vồn – đã
thủ hòa 2-2 với đội nam Paul Bert (Paul Bert Sport) (22) .
Hinh 27: Đội túc cầu nữ đầu tiên của Việt Nam –Đội Cái Vồn-Cần Thơ (28)
Theo tác giả Pháp A
Larcher-Goscha (Du Football au Vietnam (1905-1949) có ba đội banh nữ ở Nam
Kỳ Cochinchine là Đội Huỳnh Kỳ, Đội Thủ Dầu Một và đội Cái Vồn.
(Xem Phụ Lục 2).
Hiên nay Cái Vồn là một
phường thuộc quận Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long chỉ cách Cần Thơ qua
chiếc cầu Cần Thơ.
Từ ngày 28 tháng 12 năm 1935
đến ngày 1 tháng 1 năm 1936, tại sân Mayer, tổng cuộc hướng đạo Nam kỳ tổ chức
trại họp mặt huynh đệ quốc tế với sự tham dự của đoàn hướng đạo Bắc, Trung
kỳ, Pháp, Trung Hoa, Cam Bốt nhân dịp lễ giáng sinh năm 1935 và năm mới 1936.
Năm 1957, đoàn trượt băng
nghệ thuật Holiday on Ice của Mỹ cũng đã đến biểu diển tại đây.
Hinh 28: Holiday-on Ice souvenir program 1957- Chương trình lưu niệm 1957
Năm 1962, đoàn cirque Cộng
hòa liên bang Đức (Tây Đức) cũng biểu diễn tại sân này.
Sân Marine
Từ sân Mayer băng ngang
đường Hiền Vương-Vỏ thị sáu, thời Pháp đường- Mayer là sân Marine. Sân
Marine nằm trong diện tích bao quanh bởi các đường Hiền Vương (rue
Mayer) -Tú Xương(rue Thévenet) Nguyễn Thông (rue des Eparges) và đường bà
Huyện thanh Quan (rue Pierre Flandin).
Sân Marine nằm kế cận
nhà thương Saint Paul –bây giờ 2017 là bệnh viện Mắt TPHcm, sân này
không còn nữa (xem ảnh 26).
Sân Tao Đàn
Bóng tròn được người Pháp
du nhập vào miền Nam trước rồi sau đó mới lan ra miền Bắc và miền Trung. Sau
khi sân bóng tròn được xây dựng bởi Câu lạc bộ Thể thao Sài Gòn (Cercle
Sportif Saigonnais) năm 1906 (cùng lúc với hai sân quần vợt ) trong Jardin
de la Ville (hay vườn Ông Thượng, nay là Công viên Tao Đàn). Sân được người
ngoại quốc-phần đông là Pháp (Công chức, sĩ quan, thương gia ở Câu lạc bộ
Cercle Sportif Saigonnais (CSS hay Cercle, Xẹc) đã thường xuyên chơi môn bóng
tròn ở đây vì đáp ứng tiêu chuẩn và tiện nghi tối tân thời bấy giờ.
Sau đó có thêm đội Infanterie gồm các lính lê dương đánh thuê (tập ở sân Hào
Thành, tức sân Hoa Lư ngày nay) và đội Marine là lính thủy Pháp tham gia.(23)
Hinh 29 : Sân Tao Đàn trên bản đồ 1968
Sân Tao Đàn là sân duy nhất
có đèn và cũng là sân banh có chiều dài lịch sử vì là sân đầu tiên được thiết
lập đúng tiêu chuẩn đã chứng kiến những cuộc thư hùng giao hữu với các
đội bóng tròn da trắng trên thế giới trong bầu không khí mát mẻ về đêm.
Sân tọa lạc phía sau vườn
ông Thượng vườn Bồ Rô, nguyên khu đất này thuộc khuôn viên Dinh Toàn quyền của
Pháp. Năm 1869, người Pháp cho xây con đường Miss Clavell tách khu vườn khỏi
dinh. Ba mặt còn lại là rue Chasseloup-Laubat phía bắc, rue Verdun phía tây, và
rue Taberd phía nam. Khu vườn chính thức mang tên Jardin de la Ville, nhưng
người Việt quen gọi đó là Vườn Ông Thượng hay Vườn Bờ-rô
Sau đó thành phố xây dựng
thêm cơ sở trong khu vườn cho Hội Hiếu Nhạc (Société philharmonique) năm 1896,
Hội Tam Điểm (Franc-Maçonnerie) năm 1897, và Câu lạc bộ Thể thao Sài Gòn
(Cercle Sportif Saigonnais) được thuyên chuyển vào vườn năm 1902, năm 1906
với sự giúp đở tài chính của thành phố, câu lạc bộ cho xây dựng hai
sân quần vợt, sân bóng tròn và vòng chạy đua (athletics track) trên vòng
chạy xe đạp (vélodrome) củ. Năm 1926 Cercle xây thêm 8 sân quần vợt nửa,
và đến năm 1933, xây một hồ bơi tầm cở quốc tế thời bấy giờ. (25)
Hinh 30: Tuần Dương Hạm Anh Quốc King Alfred (26)
Trận đá banh đầu tiên trong
thời kỳ thuộc địa là vào năm 1905 trên sân banh Parc de Maurice Long- tuy sân
chưa được hoàn thành. Đó là trận đấu giữa trung đoàn thủy quân lục chiến
Pháp với binh lính của tàu tuần dương Anh “Vua Alfred” sau chuyến cập bến tại
Nam kỳ.
Hinh 31: Jardin de Ville camp de football (39).
Hình ảnh sân Tao Đàn
trong thập niên 1910s, 1920s là sân vận động duy nhất có phương tiện cho
những trận giao hữu giữa các đội banh ngoại quốc đến viếng Việt Nam.
Ảnh trên cho thấy sân có gôn cho những trận đấu banh bầu dục (rugby)
–giữa cầu thủ Pháp Cercle Sportif (Saigon Sports Club) và cầu thủ Anh.
Hinh 32: Trò chơi cổ truyền nhân dịp Tết trên sân Tao Đàn năm Mậu Ngọ 1918.(18)
Hinh 33: Sân Tao Đàn long trọng đón vua Xiêm (Siam, Thái Lan) ngày 14-16 tháng 4 năm 1930. (36)
http://anom.archivesnationales.culture.gouv.fr/ulysse/resultats?q=roi+du+siam+&coverage=Indochine&date=&from=&to=&type=Photographie&mode=list&page=4&hpp=10
Hinh 34: Hội tuyễn Tonkin-Bắc Kỳ dự giải vô địch Đông Dương 1940-41
Hinh 35 : Trận đấu giao hữu giữa Hội Tuyển Sàigòn và Thái Lan 5-6-1949 (37)
Hinh 36: Thủ hiến Nam
Việt ông Trần Văn Hửu bắt tay cầu thủ Việt Nam trên sân Tao Đàn
5-6-1949
Hinh 37: Tuyển thủ hai đội Việt, Thái trên sân Tao Đàn.1949
Hinh 38: Sân có trang bị đèn duy nhất để đá đêm.
Hinh 39: Thủ Hiến Trần
Văn Hửu trao Cup cho thủ quân hội tuyển túc cầu Việt Nam tại sân Ông
Thượng-Tao Đàn tháng 6-1949
Kỹ niệm sân Tao Đàn không
dể phai mờ trong tâm trí người miền Nam, nhất là dân Saìgòn Gia Định
vì sân Tao đàn vì màu cỏ xanh mướt, chứng kiến bao nhiêu trận thư
hùng giữa tuyển thủ VNCH và tuyển thủ quốc tế trong tiếng cổ vỏ
vang rền trong ánh đèn, gió mát về đêm . Người viết được ba thỉnh
thoảng chở trên chiếc Mobylette đi từ Xóm Gà đến sân Tao Đàn để xem
những trận đá đèn, nhớ nhiều nhất và vẩn còn đeo đẳng mãi đến
ngày nay là trận đấu giữa đội banh Weiner, nước Áo và đội A.J.S
(Association de la Jeunesse Sportive) Trời mát về đêm, khung cảnh thanh
lịch- Đội Áo cầu thủ da trắng to con, mặc áo đỏ, quần trắng, chạy
nhanh, đưa banh chính xác cuối cùng khống chế đội AJS mặc áo vàng
chơi như để rồi không còn được chơi nữa nhưng AJS thua, không nhớ tỉ
số. Trên đường về, cha con ghé lại quán chè khuya-ăn ly Xâm Bảo
Lượng-kỹ niệm xưa nhớ mấy cho vừa.
Sân Renault-Cộng Hòa-Thống Nhất
Tọa lạc trong vị trí
giữa đường Tân Phước và Đào duy Từ, quận 10 Saigon. Năm 1931, sân vận
động được hoàn thành và được gọi là sân Renault, theo tên của Philippe Oreste
Renault, tham biện hạng nhất , chủ tịch Ủy hội Thành phố Chợ Lớn kiêm chủ tỉnh
Chợ Lớn. Ban đầu, sân chỉ mới có khán đài chính, chưa có các khán đài phụ. Tất
cả đều theo kiến trúc mới như các sân bên Pháp, mái che được đúc bằng xi măng,
cốt thép, có trên 20 bậc ngồi , từ dưới lên cao trông rất quy mô, đó là chưa
kể những hàng ghế xếp riêng trong một khu vực đẹp dành cho quan chức. Sân được
xem là một công trình thể thao đồ sộ, được coi như lớn nhất Đông Dương lúc bấy
giờ.
Hinh 40 :Bản đồ 1968 Sân vẫn nằm ở vị trí củ.
Năm 1959, sân được chỉnh
trang, nâng cấp lớn lại theo tiêu chuẩn quốc tế thời bấy giờ. Khán đài chính
được nới rộng thêm, các khán đài phụ cũng được bổ sung, nâng sức chứa của sân
lên 16.000 người, trang bị giàn đèn chiếu sáng hiện đại. Công việc cải tạo nâng
cấp mãi đến tháng 10 năm 1960 mới hoàn thành. Sân cũng được đổi tên thành sân
vận động Cộng Hòa. Theo nhiều tài liệu ghi nhận, trong trận cầu đầu tiên sau
khi sân mới được khánh thành, nữ nghệ sĩ Thanh Nga được mời đá quả bóng đầu
tiên trước khi trận thi đấu giữa hai đội bóng đá Quan thuế và AJS . Hình ảnh
này sau đó được lan truyền trên các báo, được cho là góp phần làm tăng thêm
danh tiếng cho nữ nghệ sĩ này.
Năm 1967, sân một lần nữa
được cải tạo và nâng cấp. Suốt thời gian từ 1955 đến 1975, đây là địa điểm thi
đấu của các giải khu vực, châu lục, tiếp đón nhiều đội danh cầu quốc tế đến
để học tập và trao đổi kinh nghiệm. Sân cũng chứng kiến nhiều trận thi đấu lịch
sử của nền bóng đá Việt Nam Cộng hòa như giải túc cầu vô địch Thiếu
niên châu Á lần thứ 6 – 1964 (từ ngày 18 tháng 4 đến 28 tháng 4)
Trận thi đấu vòng loại bóng
tròn trong kỳ Thế vận hội Mùa hè 1974, đội tuyển túc cầu quốc gia Việt Nam
Cộng hòa thắng Thái Lan 1-0 nhưng thua Nhật 4-0 và thua Hương Cảng 1-0 và
bị loại.
Sân Cộng Hoà cũng là nơi
trận túc cầu đầu tiên của 2 đội bóng nữ Nam Phương và Nhị Trưng (3-0) vào
ngày 23 tháng 6 năm 1974. (38)
Năm 1966 sau khi đội tuyển
Việt Nam Cộng hòa đoạt giải đá banh Merdeka ở Malaysia thì cúp vô địch bằng
vàng được lưu trữ ở trụ sở Tổng cuộc Túc cầu trong sân vận động Cộng Hòa. Cúp
này thất lạc sau khi sự kiện 30 tháng 4 năm 1975 , và cho đến ngày nay vẫn chưa
xác định lưu lạc ở đâu.(24)
Sân Cộng Hoà cũng là nơi
đội bóng Úc lần đầu tiên đem danh dự cho nền túc cầu Úc khi thắng
giải Quốc Khánh 1967- Giải này có tám nước tham dự Úc (Australia),
Hương Cảng (Hong Kong), Mã Lai (Malaysia), Tân Tây Lan (New Zealand), Tân Gia
Ba (Singapore), Đại Hàn (South Korea) và Thái Lan (Thailand) và Việt Nam
Cộng Hòa (South Vietnam)
Hinh 41 : Đội túc cầu Úc diển hành trên sân Cộng Hòa (4 tháng 11, 1967) (29)
Hinh 42: Úc đá bại Tân
Tây Lan (áo đen) ở nhóm một 5-3 (5/11/1967) trên sân Cộng Hòa.(30)
Hình 43: Đội túc cầu Úc với chiếc Cup sau khi thắng Đại Hàn với tỉ số 3-2 trong trận chung kết. Việt Nam đứng thứ ba sau khi đá bại Malaysia 4-1 (31).
Sau giải Quốc Khánh một
tháng, sân vận động Cộng Hòa vào giữa tháng 12/1967 là nơi có hai trận đấu
giao hửu, giữa đội Mỹ Dallas Tornado, trận thứ nhất gặp Hội tuyển Thanh niên
ngày 14/12/1967 và trận thứ nhì ngày 16/12/1967 gặp Hội tuyển Sài Gòn. Trận gặp
đội tuyển có tới 20.000 khán giả đến chật kín sân vận động và kết quả 2 đội hòa
nhau 1-1.
Hinh 44: Bích chương quảng cáo trận đấu giao hữu Việt Mỹ 12/1967 (32)
Hinh 45: Không ảnh sân Cộng Hoà 1960s.
Hinh 46: Vị trí sân Cộng Hòa 1960s
Hinh 47 : Đá banh trên Sân Cộng Hoà 1970 (33)
Lần đầu tiên , đội bóng
Bình Thuận, đã đoạt chức vô địch Túc Cầu toàn quốc, sau khi hạ đội Mỹ Tho với
tỷ số 2-1 tại sân vận động Cộng Hoà. Đây là giải vô địch toàn miền Nam năm
1971, với sự tham dự của 43 đội từ các tỉnh thành thị và 4 quân khu.
Sân Lam Sơn
Quay
về quá khứ, sân Lam Sơn vốn được người Pháp xây dựng trong khuôn viên trường
Pétrus Ký (nay là Trường THPT Lê Hồng Phong) với diện tích hơn 1,5ha. Sau năm
1975, UBND Q.5 giải tỏa người dân lấn chiếm để phục hồi sân và giao sân cho
Trung tâm Thể dục thể thao (TDTT) Q.5 quản lý từ năm 1978. Tuy nhiên, tranh
chấp “chủ quyền” sân đã nổ ra giữa Trường Lê Hồng Phong và Trung tâm TDTT Q.5
khiến các hoạt động thể thao ở sân Lam Sơn dần trở nên manh mún.
>>Ở
đây, chúng tôi không bàn chuyện ai đúng ai sai mà chỉ thấy đau trước thực
trạng TP.HCM đang
ngày càng thiếu những sân bãi dành cho hoạt động thể thao, thì một chỗ quá đẹp
như sân Lam Sơn lại bị chia năm xẻ bảy. Vì diện tích bị chia cắt thành nhiều
phần nhỏ, sân Lam Sơn không còn duy trì được hoạt động thể thao phong trào
phong phú. Thật đáng buồn khi nơi đây từng là nguồn cung cấp cầu thủ cho nhiều
đội bóng hàng đầu TP.HCM (chỉ
thua Tao Đàn), nhưng giờ đây không có nổi đội bóng phong trào cho ra hồn. Các
đội năng khiếu Q.5 từ lâu đã bị giải tán vì sân Lam Sơn “đóng băng” theo cuộc
tranh chấp nói trên.
Cựu
danh thủ bóng đá Phạm Huỳnh Tam Lang tâm sự: “Tôi xuất thân từ sân bóng đá Lam
Sơn rồi may mắn có được căn hộ nhỏ nằm gần sân này. Nhưng giờ thì tôi không còn
nhận ra được đó là nơi mình từng mải mê rượt đuổi theo quả bóng tròn bất kể
thời gian. Thật đáng buồn khi cái sân bóng đầy ắp kỷ niệm ngày nào đã biến dạng
hoàn toàn…”.
>>Tâm
sự của ông Tam Lang cũng chính là câu chuyện buồn của sân Lam Sơn nói riêng và
thể thao TP.HCM nói
chung- hết trích
Hinh 48: Sân đá banh Lam Sơn trên bản đồ 1968.
Hinh 49: Quang cảnh trường trung học Petrus Ký trong cuối thập niên 1920s
Hinh 50: Không ảnh trung tâm bóng tròn Lam Sơn ngày nay.
Sân Chí Hòa – Hòa Hưng
Hinh 51: Không ảnh 1969 : Khám Chí Hoà và sân đá banh Chí Hòa. (34)
Đây là sân chủ của đội
banh Chi Hòa -Chihoa sport. Sân Chí Hòa cũng là nơi hành quyết ông Ngô
Đình Cẩn, bào đệ của Tổng thống Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Ngô Đình
Nhu, sau cuộc đảo chánh 1/11/1963. Ông Ngô Đình Cẩn bị băt sau đảo
chánh và bi xử tử hình, biệt giam trong khám Chí Hoà.̃
Khi được nói lời cuối cùng
là tử tội có xin ân huệ gì không thì Ngô Đình Cẩn xin rằng được quyền mặc quần
trắng, áo dài đen vì ông muốn được chết trong bộ “quốc phục” Việt Nam (ngày ấy
chính quyền Ngô Đình Diệm quy định “quốc phục” của Việt Nam Cộng hòa là quần
trắng, áo dài đen, đội khăn xếp).
Hơn nữa ông Cẩn cũng muốn mặc
bộ này đó là vì chiếc áo được thân mẫu may cho khi còn ở Huế. Rồi ông cũng nói
với mọi người là ông tha thứ cho những người đã giết ông.
Yêu cầu của Ngô Đình Cẩn
được đáp ứng, những viên cai ngục giúp ông thay quần áo. Rồi thiếu tá Nguyễn
Văn Đức ra lệnh cho 2 nhân viên xốc nách dìu ông Cẩn ra khỏi phòng giam và
xuống cầu thang. Vì Ngô Đình Cẩn không thể đi được, nên người ta phải đặt ông
lên một chiếc băng ca và đẩy đi suốt hành lang này qua hành lang khác. Ra khỏi
khu “lò bát quái”, Ngô Đình Cẩn được chuyển sang một băng ca khác do 4 người
cai ngục khiêng, chiếc băng ca được khiêng ra giữa sân có cắm một chiếc cọc thì
cả đoàn người dừng lại…
Thiếu tá Đức ra lệnh cho đám
cai tù xốc nách đỡ Ngô Đình Cẩn dậy, dìu ra cột. Khi Cẩn được dìu tới cột gỗ
thì một người lính trong đội hành quyết nói nhỏ với Cẩn là xin phép được trói
hai tay ra đằng sau, hai tay được đặt lên một thanh ngang giống như cây thánh
giá mục đích là để người bị tử hình không tụt được xuống. Một người lính cai
ngục lấy chiếc khăn đen bịt mắt tử tội thì Ngô Đình Cẩn lắc đầu liên tục và
nói: “Tôi không chịu bịt mắt. Tôi không sợ chết”. Nhưng người ta vẫn buộc khăn
vào một cách vụng về, vì vậy không chỉ bịt mắt mà bịt gần hết khuôn mặt ông
Cẩn.
Đội hành quyết có 10 người
và đội mũ lính quân cảnh có in 2 chữ MP, chia làm 2 hàng. Hàng trước 5 người
quỳ, hàng sau 5 người đứng. Trong 10 người thì có 1 người được sử dụng khẩu
súng mà trong đó lắp 1 viên đạn mã tử (không có đầu đạn mà chỉ bịt giấy).
Đúng 18h20, phút hành quyết
đã tới, Nguyễn Văn Đức giơ tay ra lệnh thi hành. Viên sĩ quan chỉ huy đội hành
quyết hô lớn: “Bắn!”. Một loạt súng nổ, Ngô Đình Cẩn giũ người xuống ngay lập
tức. Máu từ trên ngực chảy loang xuống chiếc quần trắng. Ngay sau đó viên chỉ
huy đội hành quyết chạy đến gí khẩu súng colt 12 ly vào tai Ngô Đình Cẩn và bắn
phát ân huệ. Bác sĩ pháp y chạy ra dùng ống nghe gí vào ngực Ngô Đình Cẩn nghe
ngóng, vạch mắt ra xem, rồi quay lại gật gật đầu ra ý là Ngô Đình Cẩn đã chết.
Trung tá Luyện, Quản đốc
Khám Chí Hòa ra lệnh cho mấy viên cai ngục cởi trói hạ xác Ngô Đình Cẩn đặt vào
băng ca rồi khiêng vào Khám Chí Hòa để khâm liệm và cho thân nhân nhận xác mang
về chôn cất. Xác Ngô Đình Cẩn được đưa về an táng tại nghĩa trang chùa Phổ
Quang, tức nghĩa trang Bắc Việt Tương Tế gần sân bay Tân Sân Nhất. (Nguồn
Internet )
Phụ lục 1.
Lịch
Sữ túc cầu Việt Nam
Từ năm 1906, người Pháp bắt
đầu sang Việt Nam vừa phổ biến “luật bóng đá” vừa tổ chức lại câu lạc bộ đầu
tiên đã ra đời trước đó là Cercle Sportif Saigonnais” theo mô hình tại “chính
quốc”. Nhiều CLB khác tiếp tục ra đời: như Infanterie, Saigon Sport, Athletic
Club, Stade Militaire, Tabert Club,…Các giải đấu bóng đá cũng bắt đầu được tổ
chức khá thường xuyên từ đó.
Về phía người Việt, từ năm
1907-1910, sau khi học hỏi, nắm bắt được luật và kỹ thuật chơi bóng cũng như
cách tổ chức từ người Âu, đã tự lập nên các đội bóng của riêng mình. Hai đội
bóng đầu tiên của thuần người Việt ra đời là Gia Định Sport và Ngôi Sao Xanh.
Về sau hợp nhất thành đội Ngôi Sao Gia Định. Môn bóng đá dần dần phổ biến cho
người Việt ở Sài Gòn và hầu hết Nam Kỳ lục tỉnh với sự kiện ra đời hàng loạt
các đội bóng khác như: Victoria Sportive, Commerce Sport, Jean Comte, Sport
Cholonaise, Khánh Hội Sport, Tân Định Sport, Gò Vấp, Hiệp Hòa, Phú Nhuận, Đồng
Nai, Thủ Dầu Một, Cần Thơ, Sóc Trăng, Sa Đéc, Gò Công, Châu Đốc, Mỹ Tho,… Sân
bãi cũng được xây dựng thêm, như tại Sài Gòn, ngoài sân bóng đầu tiên ở Công
viên thành phố (Jardin de la Ville), còn có sân Citadelle (Hoa Lư ngày nay),
sân Renault (sân Thống Nhất), sân Fourière (ở Bà Chiểu), sân Mayer (góc Võ Thị
Sáu-Trần Quốc Thảo), sân Marine (gần Trung tâm Mắt),…
Cho tới lúc ấy, ngoài “Tổng
cuộc Bóng đá” của người Pháp, người Việt cũng thành lập một “Tổng cuộc Bóng đá
An Nam” cho riêng mình và hai bên cùng hợp tác tổ chức Giải “Vô địch Nam Kỳ”.
Năm 1932 giải này quy tụ 6 đội người Việt và 3 đội người Pháp tham gia.
Giai đoạn từ 1925 đến 1935, và sau đó từ 1945 đến 1954, đội Ngôi sao Gia
Định tiếp tục nổi tiếng và hầu như ngự trị nền bóng đá Nam bộ với thành tích 8
lần đăng quang ngôi vô địch.
Đặc biệt khoảng năm 1932, ở
Cần Thơ xuất hiện đội Bóng đá Nữ đầu tiên mang tên Cái Vồn, vài năm sau lại có
thêm đội Bà Trưng ở Rạch Giá – Long Xuyên. Đội nữ Cái Vồn vào năm sau đó (1933)
đã lập nên kỳ tích cho bóng đá nữ Việt Nam khi thủ hòa 2-2 với đội nam Paul
Bert tại sân Mayer.
Bóng đá Bắc và Trung Kỳ:
Trong
khi ở Nam Kỳ, bóng đá đã xuất hiện sớm từ cuối thế kỷ 19, thì ở Bắc và Trung Kỳ
mãi tới đầu thế kỷ 20, khoảng 1907-1908, tại Hải Phòng mới hình thành đội bóng
lấy tên là Olympique Hải Phòng. Tại Hà Nội, năm 1912 Câu lạc bộ Bóng đá Hà Nội
(Stade Hanoien) ra đời gồm cả cầu thủ người Việt lẫn Pháp. Ngoài ra còn có đội
bóng của quân đội Pháp thuộc Trung đoàn Bộ binh Thuộc địa (RIC), cùng các đội
khác của người Việt như Lê Dương Đáp Cầu, Lê Dương Việt Trì…
Giai
đoạn 1930-1940, tại Hà Nội còn có thêm các đội bóng như: Chớp Nhoáng (Éclair),
Racing Club, Lạc Long, Ngọn Giáo (La Lance), Hỏa Xa (Usaga), Trường Bưởi, Đại
Học (Université Club), Ngân Hàng, Ô-tô Han (Auto Hall). Tại Hải Phòng, ngoài
đội Olympique còn có thêm các đội Voi Vàng Đất cảng, Mũi Tên (La Flèche),
Radium (Trung Học), Thanh niên Bắc Kỳ (La Jeunesse Tonkinoise). Tại Nam Định có
đội Hồng Bàng, Phủ Lý có đội Phủ Lý Thể thao, Lạng Sơn có đội Le Semeur.
Nói
chung, trong thời kỳ từ 1910 đến 1940 các đội bóng ra đời và phát triển rộng
khắp trên địa bàn miền Bắc nhưng về sân bãi thì vẫn hạn chế. Ngoài sân Hải
Phòng, tại Hà Nội có sân Mangin (nay là sân Cột Cờ) do người Pháp quản lý, sau
này có thêm sân Nhà Dầu do đội Chớp Nhoáng và Câu lạc bộ Bóng đá Hà Nội hợp tác
xây dựng. Các giải đấu cũng được tổ chức nhưng phần nhiều còn mang tính “nội
vùng” và tất nhiên là vẫn mang tính “phong trào”.
Riêng
tại Trung Kỳ, thời kỳ này, nơi vẫn tồn tại triều đình nhà Nguyễn ở kinh thành
Huế, môn thể thao bóng đá phát triển chậm hơn và ghi nhận chỉ có các đội bóng ở
Vinh (đội ASNA), Huế (đội Sept), Đà Nẵng (Tourane) và Nha Trang (đội Cheminot).
Giai
đoạn lịch sử bóng đá Việt Nam từ 1954 đến 1975
Thế
chiến thứ hai (1939-1945) và chiến tranh Việt- Pháp (1946-1954) đã làm gián
đoạn sự phát triển của bóng đá Việt Nam. Cho đến năm 1954 với chiến thắng Điện
Biên Phủ, hiệp định Genève ký kết chia đôi nước Việt thành hai miền Nam – Bắc,
môn thể thao bóng đá ở cả hai miền mới được phục hồi và phát triển trở lại.
Bóng
đá Miền Bắc:
Tại
Miền Bắc, đội bóng Thể Công của Quân đội Nhân dân Việt Nam được thành lập từ
năm 1954 đã nhiều năm liền đoạt chức vô địch. Từ năm 1956, đội tuyển quốc gia
của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời (trong đó nòng cốt là cầu thủ của đội Thể
Công và Trường Huấn luyện quốc gia) đã có chuyến thi đấu quốc tế đầu tiên tại
Trung Quốc với sự dẫn đắt của huấn luyện viên Trương Tấn Bửu. Sau đó, từ 1956
đến 1966, đội chủ yếu tham gia các giải ở các nước xã hội chủ nghĩa và tại các
giải GANEFO (Indonesia, 1963) và GANEFO Châu Á (Campuchia, 1966).
Bóng đá Miền Nam:
Tại Miền Nam, từ 1956 đội tuyển quốc gia của
Việt Nam Cộng hòa đã trở thành một trong 4 đội bóng mạnh của châu Á, khi lọt
vào vòng chung kết giải Vô địch châu Á 1960 cùng với Nam Hàn, Ấn Độ và Trung
Hoa. Từ năm 1960 đến 1966, đội tuyển này thường được xếp hạng từ thứ ba đến thứ
nhất tại các giải đấu châu Á. Đội đã lần lượt đoạt huy chương vàng bộ môn bóng
đá tại SEA Games 1959, và cúp vô địch Merdeka lần thứ 10 tại Malaysia năm 1966
với 12 đội của 12 nước tham dự (do huấn luyện viên người Đức Karl-Heinz Weigang
dẫn dắt).Đặc biệt, đội tuyển cũng là đại diện đầu tiên của Việt Nam tại một
giải đấu cấp thế giới, khi đã tham gia vòng loại World Cup 1974, và các kỳ Thế
vận hội Mùa hè 1964 và 1968.
Nói chung, mục tiêu của hoạt
động bóng đá ở cả hai miền Nam Bắc giai đoạn này là giải trí, rèn luyện thân
thể để duy trì và nâng cao sức khỏe cho mọi người dân. Đây chính là loại hình
bóng đá phong trào, “nghiệp dư” khác với các hoạt động bóng đá “chuyên nghiệp”
của các nước phương Tây cùng thời điểm.
Phụ Lục 2.
Du Football au Vietnam
(1905-1949): colonialisme, culture sportive et sociabilités en jeux
Bài viết về Bóng tròn
Việt Nam (1905-1949): chủ nghĩa thực dân, văn hoá thể thao và tính xã hội
trong các trận đấu bóng tròn.
Theo tác giả bài viết
này Agathe Larcher –Goscha, Đại học Montreal , Canada, có ba hội bóng
tròn Nam Kỳ có 46 đội banh, Annam -miền Trung có 4 và Bắc Kỳ có 15 .
Ngoài ra có 7 đội banh
mà các tác giả không chắc thuộc về hội bóng tròn nào.
Nguồn: http://www.persee.fr/doc/outre_1631-0438_2009_num_96_364_4414
Phụ Lục 3.
Những tên tuổi lừng danh
của nền túc cầu trước 1975
Đội tuyển túc cầu quốc gia
Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) là đội tuyển cấp quốc gia của VNCH từ năm 1955 đến năm
1975. Đội tuyển từng lọt vào vòng chung kết hai giải Cúp Châu Á đầu tiên và
thành tích tốt nhất của đội là giành vị trí thứ tư ngay lần đầu tham dự vào năm
1956. Đội cũng đoạt huy chương vàng tại SEAP Games 1959 được tổ chức tại Thái
Lan. Dấu son oai hùng Năm 1959, lần đầu tiên đội tuyển túc cầu VNCH đã đoạt
được huy chương Vàng tại Đông Nam Á Vận Hội (không có sự tham dự của Nam Dương
và Phi Luật Tân). Đội tuyển túc cầu VNCH có Phạm Văn Rạng (thủ môn), Nguyễn Văn
Cụt, Phạm Văn Hiếu, Nguyễn Ngọc Thanh, Lê Văn Hồ (Myo), Nguyễn Văn Nhung, Đỗ
Thới Vinh, Há, Đỗ Quang Thách, Nguyễn Văn Tư…. Đội tuyển vào chung kết hạ đội
nhà Thái Lan 3-1 và được chính tay hoàng thái tử nước Xiêm (Thái Lan) trao
chiếc cúp vàng tại sân vận động
Hình 52: Đội tuyển VNCH 1966.
Năm 1966, đội tuyển túc cầu
VNCH lập thêm kỳ tích khi đoạt cúp vàng Merdeka, tổ chức tại Mã Lai Á (Malaysia
ngày nay). Tham dự lúc đó gồm có Lâm Hồng Châu (thủ môn), Lại Văn Ngôn, Phạm
Văn Lắm, Văn Có, Phạm Huỳnh Tam Lang, Nguyễn Văn Chiêu, Nguyễn Vinh Quang,
Nguyễn Văn Ngôn, Dương Văn Thà, Đỗ Thới Vinh, Nguyễn Văn Mộng. Trên sân cỏ, đội
tuyển VNCH đã liên tiếp hạ Tân Gia Ba (5-0), Nhật (3-0), Mã Lai Á (5-2), Đài
Loan (6-1) và thua Ấn Độ (0-1). Đội tuyển VNCH vào chung kết với Miến Điện và
trong trận này, đối phương tấn công đội tuyển VNCH liên tục nhưng đến phút 68,
trung phong Phạm Huỳnh Tam Lang đã sút tung cầu môn Miến Điện, đem về chiếc cúp
vàng vô địch cho đội tuyển VNCH. Sách báo Sài Gòn thời đó miêu tả bàn thắng của
trung phong Tam Lang như sau: “Chiêu dùng ngực hứng bóng, xoay người, tung quả
sút hiểm hóc từ xa 25 mét bằng chân trái, bóng đi như ánh chớp vào góc thượng
của khung thành trong sự ngỡ ngàng của đệ nhất thủ môn Á Châu thời bấy giờ là
Tin Tin An, mở tỷ số 1-0 cho đổi tuyển VNCH”. Lần đó, HLV của đội tuyển túc cầu
VNCH là ông Weigang người Tây Đức.
Tại Đông Nam Á Vận Hội năm
1967, đội tuyển túc cầu VNCH lại đoạt huy chương Bạc, khi thắng Lào 5-0, Thái
Lan 5-0 và thua Miến Điện 1-2 khi vào chung kết. Năm 1973, tại Đông Nam Á Vận
Hội ở Tân Gia Ba, đội tuyển túc cầu VNCH lại dành Huy chương Bạc, sau khi vào
chung kết lại thua Miến Điện với tỷ số 2-3.Những cái tên không thể nào quên
Nhắc đến túc cầu Miền Nam Việt Nam là phải nhắc đến những cái tên được gọi là
huyền thoại bất tử mà cho đến mãi giờ đây, sau 40 năm, họ vẫn là những cầu thủ
túc cầu xuất sắc không ai sánh được.
Thủ môn Phạm Văn Rạng với
danh hiệu “Lưỡng thủ vạn năng”. Năm 1949, từ một trung phong của trường Việt
Nam học đường cơ duyên đã đưa ông trở thành thủ môn khi thủ môn chính thức
không thể thi đấu. Năm 51, thủ môn Rạng được đội Ngôi sao Bà Chiểu của ông bầu
Võ Văn Ứng mời về giữ khung thành và chỉ hai năm sau được chọn làm thủ môn cho
đội tuyển Thanh Niên. Năm 1953 bị động viên, ông trở thành người trấn giữ khung
thành cho đội Tổng Tham Mưu. Ông được tuyển vào đội tuyển túc cầu VNCH cùng năm
khi mới 19 tuổi và khoác áo đội tuyển cho đến năm 1964 thì giải nghệ. Thủ môn
huyền thoại Phạm Văn Rạng đã qua đời vào tháng 11 năm
Hinh 53: Thủ môn Phạm Văn Rạng bị vây quanh bởi các fan bóng hồng Nhật Bản.
Phạm Huỳnh Tam Lang sinh năm
1942 ở Gò Công. Năm 1955 lên Sài Gòn và thi đậu vào trường Petrus Ký. Người
đồng hương Nguyễn Văn Tư, cầu thủ nổi tiếng của làng bóng Sài Gòn với biệt danh
“mũi tên vàng đội AJS” đã đưa Tam Lang về nhà ở và dìu dắt vào nghiệp cầu thủ.
Sau khi vừa học chữ vừa luyện bóng, năm 1949 Tam Lang được nhận vào đội tuyển
thiếu niên Nam Việt Nam cùng với Võ Bá Hùng, Phạm Văn Lắm, Nguyễn Văn Ngôn,
Quan Kim Phụng…. Từ đội tuyển thiến niên, năm 1960 Tam Lang được nhận vào đội
tuyển VNCH, lúc chỉ có 19 tuổi. Đến năm 1966 khi chuẩn bị đi Malaysia dự
Merdeka Cup, Tam Lang được HLV Weigang chọn làm thủ quân. Tam Lang cũng là một
cầu thủ trong đội hình chính thức của đội túc cầu Cảnh Sát Quốc Gia. Trung phong
Tam Lang qua đời năm 2014 tại Sài Gòn.
Hinh 54: Thủ quân Phạm Huỳnh Tam Lang với cúp vàng Merdeka năm 1966
Dương Văn Thà, một cầu thủ
lừng danh ‘thần mã’, của đội tuyển Miền Nam từ 1967-1974, cho biết trước năm
1975 là thời kỳ cực thịnh của túc cầu VNCH, qua nghệ thuật nhồi bóng cùng với
tinh thần kỹ luật, tự giác và sự luyện tập.
Ðỗ Thới Vinh sinh khoảng năm
1940 quê ở Phan Thiết và đến tuổi trưởng thành vào Sài Gòn và đầu tiên chơi
trong đội bóng Quân Cụ. Sau đó đầu quân cho đội Quan Thuế. Với lối đi banh lắc
léo khiến hậu vệ đối phương khó truy cản cùng với những đường banh chuyền chính
xác, tài nghệ của Ðỗ Thới Vinh đã được Tổng Cuộc Túc Cầu VNCH để ý đến và có
chân trong đội tuyển VNCH từ năm 1956 cho đến 1969. Đỗ Thới Vinh – có biệt danh
Vinh Sói – được xem là tuyển thủ tiêu biểu của nền túc cầu VNCH với phong cách
thi đấu “hào hoa và hiệu quả”, từng đứng vào đội hình đội tuyển Á Châu cùng với
Phạm Văn Rạng. Sau năm 1966, với chiếc cúp vô địch Merdeka trở về, Đỗ Thới Vinh
đầu quân trong đội bóng Tổng Tham Mưu. Sau này, khi được biệt phái lại ngành
cũ, Ðỗ Thới Vinh trở lại Quan Thuế.
Hinh 55 : Tiền vệ Ðỗ Thới Vinh, trái cùng một đồng đội.
Đỗ
Thới Vinh trong vai trò tiền vệ tạo được nhiều kỷ lục nhất: 13 năm liên tục là
tiền vệ của đội tuyển VNCH với 118 trận đấu quốc tế. Một lần được vinh hạnh
chọn đá trong thành phần đội tuyển Châu Á, 11 lần tham dự giải Merdeka từ 1957
đến 1969, 6 lần dự giải Ðông Nam Á Vận Hội (SEAP Games), 6 lần có mặt ở giải
King’s Cup của Thái Lan, và 2 lần dự Á Vận Hội. Danh thủ Đỗ Thới Vinh mất tại
Sài Gòn năm 1996. Ngoài ra còn có những cái tên khác như Trần Văn Nhung, Lê Văn
Hồ, Cù Sinh, Cù Hè, Hồ Thanh Chinh, Phạm Văn Lắm, Nguyễn Văn Mộng, Lại Văn
Ngôn…..đều góp phần tạo nên một nền túc cầu oai hùng của Miền Nam Việt Nam vang
danh khắp năm châu.
Phụ Lục 4.
Gia Định Thành Bát Quái-
thành Qui và thành Phụng
Được gọi là sân
Citadelle- còn gọi là sân Hào Thành vì sân này nằm trong khuôn viên
của thành Phụng-người Pháp gọi là Sài Gòn citadelle –sau 1954 đổi tên
là sân Hoa Lư.
Hình 56: Bản tranh vẻ 3D của Đại úy Hải quân Pháp Favre 1881
với chú thích của người viết.
Trong
bức họa này sân Citadelle chưa được xây dựng, tuy nhiên thành Phụng
không thấy bị phá hủy, mặc dù Thành Bát Quái bị hủy phá khi Pháp
hạ Gia Định thành năm 1859. Nên chú ý, thành Phụng nhỏ hơn được xây
lại sau khi thành Bát Quái bị phá huỷ.https://nghiencuulichsu.com/2016/08/27/quy-hoach-sai-gon-gia-dinh-xua/
Hinh 57: Vị trí khu Gia Định thành do Ông Trần Văn Học vẻ năm 1815.
Chú thích của người viết cho tiện việc tham khảo.
Phụ Lục 5.
Giải Vô Địch khu Nam
VietNam (South Vietnam) 1961-62
Kết quả giải bóng tròn
khu Nam-các đội hạng nhất muà 1961/62
1-Quan Thuế (Customs)
2-Tổng Tham Mưu (Military
General Staff)
3-A.J.S (Association de la
Jeunesse Sportive)
Có tất cả 13 đội banh
Công Quản Passenger Bus
Club
Thương Cảng Saigon (Saigon
Harbour)
VN thương tín (Commercial
Credit)
Cảnh Sát (Police)
Ngôi sao Gia Định (Gia Dinh
Stars)
Tham Mưu Hành Quân (General
Headquarters)
Quân Cụ tiếp Liệu (Army
Supply)
C.S.S. (Cercle Sportif
Saïgonnais)
Bưu Điện P.T.T. (Postes,
Télégraphes et Téléphones)
Không Quân (Air Force)
Kết Quả sau cùng –dựa
theo hệ thống điểm 3-2-1
1. Customs 63 pts
2. E.M.G. 62 pts (État-Major
Général; Military General Staff)
3. A.J.S. 61 pts
(Association Jeunesse Sportive)
Other teams (13 teams in
total):
Passenger Bus Club
Saigon Harbour
Commercial Credit
Police Gia Dinh Stars
General Headquarters
Army Supply
C.S.S. (Cercle Sportif
Saïgonnais)
P.T.T. (Postes, Télégraphes
et Téléphones)
Air Force
“Vietnam Cup”
Third
place match
1-Jul-62
A.J.S. 2-0 Saigon Harbour
Final1-Jul-62 Customs 0-0 E.M.G.
19-Jul-62
Customs 2-0 E.M.G. [replay]
Phụ Lục 6.
Giải Vô địch Đông Dương
1941
Hinh 58: Đội bóng Bắc Kỳ tham dự giải vô địch Đông Dương
vào ngày 17 và 18 tháng Tư 1941.
Kết quả các trận đấu
ngày 17.04.41 :
Nam Kỳ(Cochinchine) thắng
Bắc Kỳ (Tonkin) 2-0
Trung Kỳ( Annam) thắng Cao
Miên(Cambodge) 5-1
Kết quả các trận đấu
ngày 18.04.41
Bắc Kỳ( Tonkin) thắng Cao
Miên( Cambodge) 4-2
Nam Kỳ( Cochinchine) thắng
Trung Kỳ( Annam) 4 -2
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét