Bài này được trích dịch từ chuyên đề GUIDE HISTORIQUE DES RUES DE SAIGON của ANDRÉ BAUDRIT.
Thành phố Sài Gòn
kể từ khi Pháp can thiệp
Dinh thự đầu tiên của thống đốc ở Sài Gòn
Bản đồ Sài Gòn năm 1878
Sự
bùng nổ của SAIGON.
Một nghiên cứu toàn diện về lịch sử đô
thị của Sài Gòn cho thấy rằng những người cư ngụ đầu tiên đã hoàn toàn tin tưởng
vào sự phát triển của thành phố. Sự tự tin của họ dựa trên một cách chính xác
vào lực lượng điều hành và không nằm ngoài sự sáng suốt của Đô đốc RIGAULT DE
GENOUILLY. Bằng chứng về sự tin tưởng này là sắc lệnh của đô đốc BONARD đưa ra
vào năm 1862 cho đại tá công binh COFFYN lập ngay bản đồ một thành phố là
500.000 dân, công việc này là, quả thật vậy, một chút quá sớm!
Khi người Pháp đến đã có những con đường,
chẳng hạn như - chúng ta đã thấy - đi dọc
theo rạch Bến Nghé và con sông và các ngả rẽ sau thành đường Catinat, đường Paul-Blanchy
và đại lộ Luro (sau đó đại lộ Citadelle). Sau khi rải đá và xây dựng các con đường
rồi mở những con đường khác song song. Những cư dân mới này giữ vẫn giữ lối coi
hướng của người An Nam (hay Cam Bốt) là hướng Đông Nam – Nam Bắc hay Tây Nam –
Đông Nam thường áp dụng cho các quốc gia có nhiều nắng. COFFYN lên kế hoạch xây
dựng một thành phố rộng 2.500 ha. Trong lúc đó, nó chỉ mới có 20 ha rưỡi; diện
tích này được hiểu là “đất xây dựng” có nghĩa là những khoảng trống gới hạn bởi
những con đường mới vạch và chưa rải đá.
Bản đồ Sài Gòn năm 1795
Khu vực hải quân dường như là khu vực đầu
tiên được xây dựng theo một kế hoạch đô thị xác định rõ ràng. Đây là nơi sẽ tạo
ra trung tâm của thành phố trong tương lai. Một vòng xoay (thực sự là một nửa
vòng tròn) được vạch ra là nơi tỏa ra các con đường mới: đầu tiên là một mạch
giao thông lớn giao tiếp thành phố với bên ngoài (sau là đường Paul Blanchy), và
những con đường khiêm tốn hơn chiều dài đáp ứng được nhu cầu của thời điểm đó.
Khu thống đốc sớm gắn liền với vùng “ Giồng
cao”. BONARD đã cho xây dựng dinh thự đầu tiên của mình, đó là một ngôi nhà gỗ lắp
ráp khiêm tốn nà ông ta đã mua ở Singapore trong chuyến đi đến của ông. Một số tòa nhà hành chính, bệnh viện được xây
dựng một cách nhanh chóng. Năm 1862, một mạng lưới điện tín nối Sài Gòn đến Chợ
Lớn, Biên Hòa, Bà Rịa và Vũng Tàu.
Dinh thự đầu tiên của thống đốc ở Sài Gòn
Một sự tiện nghi đem lại thoải mái cho
những người cư ngụ đầu tiên. "Đáng ngạc nhiên, một trong số họ cho biết,
điện báo tin đã hoạt động giống như ở Pháp." Gần dinh của thống đốc, những
văn phòng được lập ra chung quanh một quảng trường đi thẳng tới đầu đường
Catinat. Nó chiếm không gian lúc bấy giờ là giữa đường Lagrandière và mặt tiền
của nhà thờ: đó là quảng trường Đồng Hồ vì có một chiếc đồng hồ được đặt tại
nơi này trên một cái tháp bằng gỗ. Nó có cả một đài quan sát. Ở phía đối diện của
quảng trường là (về sau là thư viện thành phố) là tòa ngân khố (trésor) và tòa
bưu điện. Nơi này nơi kia, các công trình quân sự được dựng lên: khu vực kỵ
binh Đông Dương, những cửa hàng của hải quân và pháo binh, v.v… Cuối cùng, tại khu vực thành phố thấp ở
những con kênh đã tồn tại trước đó, người ta đào thêm kênh mới, đó là kênh Gallimard
về sau được lấp tạo thành đại lộ Bonard. Nó khai thông một bên là kênh Bến Nghé
bởi phần đầu của đường Pellerin và một bên là về sông Sài Gòn nơi mà hiện nay
là tòa quản lương hải quân.
Quảng trường Đồng Hồ và khu đất về sau là bưu điện thành phố năm 1862
Bản đồ Sài Gòn năm 1867
Một nhân chứng vào năm 1863 đã cho chúng
ta ấn tượng của ông trong những năm đầu tiên ở Sài Gòn, thành phố người Pháp "con
đường đá dăm lớn, giao nhau vuông góc với nhau theo khoảng cách, đã thay thế
các đường xá hẹp và gồ ghề của một thành phố An nam, nhưng những ngôi nhà vẫn
còn thiếu rất tại nhiều điểm để lấp đầy khung cảnh bình thường này. Hầu hết nhà
của những người định cư dựng lên là bằng gỗ; luôn cả những cơ quan công cộng mà
đôi khi được dựng lên một cách vội vàng. Trong số các quan chức biết trước đã
cư ngụ trong những ngôi nhà cổ bản xứ mà mà ngói nghiêng đã chiếu bóng của họ một
vài bước chân…Một vài khu đất trông vẫn còn trong tình trạng đầm lầy và những bụi
tre dầy. Ở đó dài theo các con kênh, những người bản xứ đã cư ngụ trong những
túp lều ọp ẹp và thê thảm nằm trên những chân nhà sàn, họ ít về số lượng, tuy
nhiên, phần đông là những cư dân ưu tiên của thành phố xung quanh. Thành phố là
một từ không dính dáng đến người An Nam mà là của người Pháp.
Sức
sống của thành phố dưới chính quyền của các đô đốc.
Sự chậm chạp trong việc tổ chức lần đầu
đối với thành phố này là một kết quả trực tiếp của chính sách: đối với Pháp, sự
sắp đặt của người Pháp ở Nam Kỳ trái ngược lại ý muốn và sự khởi đầu tại đây là
có khả năng. Điều này khiến việc đầu tư vốn vào thuộc địa; như Sài Gòn, sự tin
tưởng không được thiết lập giữa những người mới và người An Nam; vốn dè dặt. Từ
năm 1865 thành phố Sài Gòn bắt đầu bước đi hướng tới sự phát triển mà chúng ta
thấy ngày hôm nay, và đô đốc DE LA GRANDIÈRE là người đặt nền móng cho sự thay
đổi kỳ diệu này.
Trong năm 1865, tình hình bên trong và
bên ngoài đã phát triển theo một hướng thuận lợi, Sài Gòn được biết như một sự
phát triển ngoạn mục: những con đường mới được vạch ra, nhiều tòa nhà hành
chính theo kế hoạch và điều này thu hút dân số lao động. một số trường hợp tốt
đẹp dẫn sự phát triển của thành phố; nhiều làng mới được xây dựng bên ngoài giới
hạn đô thị. Những công việc vệ sinh được tiến hành vì tỷ lệ chết của người Châu
Âu ở đây rất cao đặc biệt là vào đầu mùa mưa (tháng 4 – tháng 5). Một khu vườn
thực vật và sở thú được đề nghị. Bên khía cạnh giải trí là cung cấp các chuyến
thăm tới các loài động vật hoang dã nó còn là nơi vườn ươm cho cây trong thành
phố và cho những bông hoa được phân phối cho các cá nhân cần đến.
Đời sống được tổ chức, các con đường mới
được tạo ra, những bến cảng được xây dựng. Từ nay chúng ta có thể đi từ cảng Napoléon
(về sau là cảng Le – Myre – de -Vilers) dự định cho một ngày…một cuộc đi dạo đẹp
nhất thế giới, khi những cây me được trồng thành bốn hàng sẽ lớn dần nhưng
trong trạng thái ban đầu (1865), phần này của thành phố đã là một nơi yêu thích
để đi dạo. Quang cảnh với những chiến thuyền lớn, cảnh sinh hoạt tạo ra bởi những
chiếc tàu bản xứ, ép nhau thành hàng dọc theo bờ sông hay lưu thông trên sông;
sự mát mẽ của nước sông đã thu hút người đi bộ, đặc biệt là vào những ngày khi dàn
nhạc của chính quyền trình diễn và chúng ta có thể nhìn thấy những chiếc xe
duyên dáng, bắt đầu phổ biến ở Sài Gòn. Người quan sát có thể tìm thấy cuộc dạo
này một cách thú vị hơn bằng một buổi tối đẹp, khi dọc theo bến cảng và các con
đường đổ vào được thắp sáng bởi những chiếc đèn lồng tỏa ánh sáng vào tất cả
các ngôi nhà. Trong thời kỳ này, thành phố không có ánh sáng nào khác ngoài những
chiếc đèn con bắt buộc phải có phải để chỉ rõ lối vào mỗi nhà.
Cảng Sài Gòn năm 1875
Đây cũng là vào năm 1865 có những người
phụ nữ đầu tiên của Pháp đến các thuộc địa. Đô đốc DE LA GRANDIÈRE khuyên mọi
người nên đem gia đình từ Pháp sang trong mỗi kỳ nghỉ. Một nhân chứng cho biết "
bạn có thể thấy những giờ bớt nóng khi mặt trời lặn, vùng nông thôn xung quanh
Sài Gòn bắt đầu sôi động bởi nhiều người di dạo bằng xe ngựa hay xe hơi và kể cả
không phải hiếm những người đi dạo là khách của những chiếc tàu. Năm 1863, cuộc
hôn nhân đầu tiên tổ chức tại các thuộc địa có cô dâu đến từ Java; người chồng
vô cùng bối rối vào thời điểm đó, để tìm ra người phụ nữ trong nước. Năm 1865, ngược
lại số lượng những gia đình chưa đếm được bao nhiêu, những nhóm múa được hình
thành trong các buổi chiêu đãi của toàn quyền và buổi chiều tối khi đi quanh
các con đường yên bình không còn hiếm vẳng tiếng thân thuộc của đàn piano gợi
lên những ký ức về quê hương vắng mặt. " Sự lùi lại nhanh chóng của ranh
giới đô thị về phía tây bắc cũng đánh dấu sự phát triển của Sài Gòn. Vào năm
1863, thành phố dừng lại ở đường La Grandière; năm sau, nó đạt tới đường số 23
(đại lộ Norodom). Vào ngày 03 Tháng Mười năm 1865, nó mở rộng đến đại lộ Stratégique
(đường Chasseloup-Laubat) và hai tháng sau đó, nó vượt đến đường số 27 (đường Richaud)
!
Nhà thờ gỗ đầu tiên tại Sài Gòn
Để có được một ý tưởng chính xác về sự
phát triển phi thường của mảnh đất châu Á này được phong phú nhờ vào lòng nhiệt
huyết của người Pháp, nó phải được nghiên cứu cùng lúc sự lớn lên của Chợ Lớn
và xem xét những lý do làm tăng trưởng của hai thành phố này cho đến khi chúng
sáp nhập lại với nhau.Nhưng nó sẽ là quá mở rộng phạm vi nghiên cứu khiêm tốn
này mà chỉ nhằm mục đích cung cấp cho một ý tưởng về sự ra đời của Sài Gòn,
thành phố của người Pháp.
Đó là sắc lệnh ký ngày 04 Tháng 4 1867, rằng
thống đốc DE LA GRANDIÈRE thiết lập một ủy ban thành phố được chuyển thành Hội Đồng
Thành Phố từ ngày 08 Tháng Bảy năm 1869. Từ nay, sự phát triển của thành phố sẽ
được dễ dàng hơn, bởi vì tất cả các sự kiện được chú ý đều được phản ánh vào
biên bản của Hội đồng. Do đó từ sắc lệnh này, Sài Gòn đã được quan tâm với ánh
sáng đô thị bằng cách mua 50 đèn đường đốt bằng dầu dừa; trong năm 1867, việc
mua lại số đèn đường mới được quyết định; năm 1869 việc sử dụng dầu hỏa thay thế
cho dầu dừa.
Mặc dù tất cả các nỗ lực để hiện đại hóa
thành phố nhưng nó vẫn còn điều không lành mạnh, điều kiện vệ sinh tồi tệ đã tạo
sự chú ý làm tổn hại danh tiếng của nó về một thành phố cực kỳ nguy hiểm để
sinh sống. Năm 1867, chỉ huy Bovet, kỹ sư, đề xuất với ủy viên hội đồng rằng
Sài Gòn vẫn còn nước đọng giữa thành phố và việc san lấp mặt bằng phải được thực
hiện. Sau đó, ông đã thực hiện cuộc thử nghiệm với các kênh ở khu thấp của
thành phố trở thành nơi chứa rác rưởi và là trung tâm của sự hôi thối. Ông đòi
hỏi phải khôi phục lại hay lấp đi. Ông trích dẫn ba tuyến đường thủy quan trọng:
1) Kênh Gallimard, đào bởi bàn tay con
người kể từ khi cuộc chinh phục ở giữa đầm lầy trên đó thành lập thành phố Sài
Gòn và song song với đường Isabelle (đường Espagne);
2) Kênh Grand Canal. (về sau là đại lộ
Charner) nối với các kênh Gallimard một bên và sông Sài Gòn một bên;
3) Kênh Arroyo trở thành phần đầu của đường
Pellerin nối một bên với kênh Chinois và một bên đầu kênh Gallimard.
Nhưng phải từ 20 đến 25 năm bàn cãi vô ích
để đạt được một giải pháp dứt khoát: Là lấp những kênh này.
Thật không may, cuộc bàn cãi này đã gây
tai hại cho tất cả các hoạt động sáng tạo trong các lĩnh vực khác: Vào năm
1871, ví dụ, người Pháp quyết định lập một tòa thị sảnh và đã mua một miếng đất
dùng cho việc này. Nhưng sau khi bắt đầu thực hiện, nơi được lựa chọn không còn
ưa thích nữa, họ bắt đầu tìm kiếm một vị trí tốt hơn. Sau đó, kế hoạch đã được
yêu cầu, rồi chấp nhận, rồi từ chối, thực hiện, sửa đổi, bị mất, tìm thấy ...
Cuối cùng, tòa thị sảnh này mà việc
xây dựng đã được chấp thuận vào năm 1871 thì đến năm 1908 mới hoàn tất. Vì vậy,
phải mất khoảng 40 năm để xem đứng tòa nhà này từ lúc nó được bắt đầu xây dựng.
Dinh thống đốc hiện nay cũng đòi hỏi nhiều
năm như vậy. Đó là ngày 23 tháng 6 năm 1868 viên đá đầu tiên được đặt bởi Đô đốc
LA GRANDIÈRE và đã được đức ngài MICHE, Giám Mục Dansara làm lễ ban phép.
Dinh Norodom
Trong cuộc chiến tranh Pháp - Phổ
1870-1871, không có ảnh hưởng ở Đông Dương, chu vi của thành phố lớn dần: các
làng Cầu Ông Lãnh, Phú Hòa và An Hòa được hợp nhất lại.
Trong những năm sau đó tốc độ tăng dần:
Năm 1894, Hòa Mỹ, Phú Hòa, Nam Chơn, Tân
Định và một phần của làng Huấn Hòa được nối liền, tăng 344 ha;
Năm 1895, một phần làng Khánh Hội và Tam
Hội là 82 ha;
Năm 1904, một phần làng Tân Hòa và Phú
Thạnh;
Năm 1907 (16 tháng 8), một phần làng
Khánh Hội và Chánh Hưng.
Tổng diện tích của thành phố Sài Gòn, vì
vậy tại thời điểm đó đạt 1.674 ha.
Các công trình bắt đầu được xây dựng. Một
sắc lệnh ngày 14 Tháng Mười Một năm 1874 quyết định xây dựng trường Chasseloup –
Laubat (hoàn thành vào năm 1877); sau đó xây dựng một nhà thờ. Tờ « Courrier de
Saigon » số ngày 05 tháng hai năm 1876 đăng cuộc thi cho đề án này.
Từ nay, những cố gắng to lớn trong việc
xây dựng đã hoàn tất. Thành phố phát triển bình thường rất nhạy cảm trong thời
ký bùng nổ kinh tế. Hai thành phố Sài Gòn và Chợ Lớn hướng tới hơn bao giờ hết
và cuối cùng hòa vào thành một vào ngày 01 Tháng Một năm 1932.
Sơ đồ trung tâm thành phố của Le Favre
Đến năm 1879 chấm dứt chính quyền của
các đô đốc. Họ đã được thay thế bởi các thống đốc dân sự cho đến năm 1887; họ
nhượng lại vị trí của mình cho các phó soái để sau đó sẽ trở thành toàn quyền Đông
Dương (tháng 12 năm 1911). Nhưng thống đốc dân sự và các thống đốc Nam Kỳ không
là một phần trong sự phát triển của thành phố Sài Gòn mà là các Đô đốc toàn quyền.
Ngoài ra ký ức của họ được gắn liền với sự gợi lên "kỷ nguyên anh
hùng" đã tốn rất nhiều nổ lực và rất nhiều hy sinh để người Pháp đầu tiên
đến với sự tự tin đã giải quyết chỗ hoang vu này với những làng đơn sơ nhiều bệnh
tật hiểm nghèo. Tuy nhiên, cần lưu ý những niềm tin mãnh liệt của những người
tiền nhiệm cho sự phát triển tương lai của thành phố; Tất cả các tài liệu phản
ánh sự lạc quan này. Chúng tôi giữ lại chỉ có một, huyền thoại đã được lựa chọn
khi hội đồng thành phố này năm 1871 phú cho Sài Gòn câu vịnh « Paulatim
Crescam» (dần dần tôi phát triển).
Sài Gòn thời kỳ đầu
Lịch sử Sài Gòn nên được viết, cho chúng
ta, những người Pháp, đã tổng kết một nổ lực sáng tạo và hiệu quả trong 80 năm;
đối với người nước ngoài, nó chứng minh cho họ rằng tài khai phá của chúng ta không
phải là một từ trống rỗng; Đối với người An Nam, nó chỉ ra con đường phi thường
họ đã đi hướng tới sự sung túc, hòa bình và hạnh phúc, giang cánh tay trung thực
đến những người có ý định để hướng dẫn họ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét