Saigon – Đường Catinat
đầu thế kỷ 20 – Phần 2
Nguyễn Đức Hiệp
Ông Nguyễn Liên Phong
đã tả một góc cạnh của đường Catinat vào đầu thế kỷ 20 trong quyển “Nam kỳ
phong tục nhơn vật diễn ca” (9) đúng như các cơ sở
kinh doanh Hoa, Ấn lúc ấy ở khu đầu đường Catinat như sau:
Nhứt là đường Ca-ti-na,
Hai bên lầu các, phố nhà phân minh
..Máy may mấy chỗ quá nhiều,
Các tiệm tủ ghế dập dều phô trương
Đồ sành, đồ cẩn, đồ đương [đan]
Đồ thêu, đồ chạm trữ thường thiếu chi
..Nhà in, nhà thuộc, nhà chà,
Nhà hàng ăn ngủ với nhà lạc son
Tuy vậy cũng có một số
cửa tiệm của người Việt trên đường Catinat. Và trên đại lộ Bonnard có cửa tiệm
may của ông Nguyễn An Khương ở số 49 đại lộ Charner mà trong niên giám 1910 ghi
là: “49. Nguyen-An-khuong, tailleur”(10). Ông Nguyễn An
Khương chính là thân phụ của nhà cách mạng Nguyễn An Ninh. Nhà may này về sau
là khách sạn Chiêu Nam Lầu, trở thành một cơ sở tham dự trong phong
trào Minh Tân do ông Gilbert Trần Chánh Chiếu lãnh đạo. Chiêu Nam Lầu đón
nhận những người An-Nam (Việt) ăn ở trú ngụ, khuyến khích người Việt kinh
doanh, canh tân đất nước. Cũng chính tại số 49 Charner là nơi ông Phan Chu
Trinh mất năm 1926, sau khi ông từ Pháp trở về Việt Nam và trú ngụ tại Chiêu
Nam Lầu.
Đi qua các cửa hàng
cửa người Hoa và Việt là đến tiệm thuốc tây của ông Holbé ở số 22 Catinat. Đây
là tiệm đầu tiên của ông Holbé, sau này ông chuyển đến tiệm thuốc tây Solirène
ở số 171 Catinat (góc Catinat và Bonnard). Nhà riêng của ông Holbé ở số 2,
place du Chateau d’Eaux (quảng trường tháp nước, nay là Hồ Con Rùa), nơi tụ tập
của nhiều nhân sĩ và trí thức Pháp, Việt ở Saigon.
Đến đây ta đến ngã ba Catinat
và rue Turc (nay là Hồ Huấn Nghiệp, ông Turc là thị trưởng đầu tiên của thành
phố Saigon). Ở bên kia đường Turc là cửa hàng bách hóa “Motte et Cie.”
Bắt đầu từ đây lên ta sẽ thấy tiệm và phố người Pháp nhiều hơn và chiếm đa số
cho đến cuối đường Catinat ở quảng trường nhà thờ (ngày nay gọi là quảng trường
Công xã Paris).
Hình 6: Magasins
genereaux Mottet et Cie, 1908. Cửa hàng bách hóa công ty Mottet. Góc đường
Catinat và đường Turc. “Carte postale” này là do chính công ty Mottet sản xuất.
Công ty Mottet có cửa
hàng trên đường Catinat (số 24-30 Catinat và 1-2-3 Café hotel de la maison
Mottet, góc rue Catinat và rue Turc, tức góc Đồng Khởi và Hồ Huấn Nghiệp ngày
nay. Niên giám Đông Dương 1908 ghi “Mottet et Cie. (approvisonnement
general)”. Cửa hàng “Mottet et Cie.” là một trong hai cửa hàng
bách hóa đầu tiên ở Saigon. “Mottet et Cie.” bán nữ trang,
rượu (sĩ và lẻ), nước khoáng (eaux minerals), xe đạp (11), đăng
ký gởi tàu biển, bán máy giặt. Niên giám 1908 có ghi “MM. Mottet et
Ogliastro” (12) bán máy giặt chạy bằng hơi nước
(Blanchisserie à vapeur), giày, nón, đại diện cho công ty đường sông (Compagnie
de messageries fluviales) ở Cần Thơ… Công ty cũng in các “carte postales”
hình ảnh về Saigon và nhiều nơi khác. Công ty Mottet et Cie. bắt đầu xuất hiện
trong niên giám Đông Dương vào năm 1906 bán nữ trang. Trong niên giám 1908 có
ghi M.-S. Mottet là nhà thương mại và niên giám 1907 cho biết ông Mottet là
lãnh sự đại diện cho nước Nga hoàng (imperial Russie).
Niên giám năm 1911 ghi
ông Hauff (“maison Mottet”) là đại diện lãnh sự Nga và ông Novella (“maison
Ogliastro”) đại diện lãnh sự Ý. Cũng trong niên giám năm 1911 có ghi ông
Blanc ở nhà số 23 rue Bangkok là chủ“maison Mottet et Cie” và là
người kế nhiệm của công ty “Mottet et Cie.” ở đường Catinat
bán rượu sĩ và lẻ. Như vậy có thể nói năm 1911, hai ông Blanc và Hauff đã kế
nhiệm ông Mottet điều hành công ty Mottet et Cie. Và đúng như
vậy, niên giám Đông Dương năm 1915 chính thức ghi hai ông H. Blanc và P. Hauff
là “successeurs Mottet et Cie.” ở các cơ sở công ty trên đường
Catinat, đường Turc và đường Vannier
Hai ông Blanc và Hauff
cũng là chủ khách sạn “Hôtel de l’Univers” ở đường Turc. Nếu ở
góc đường Catinat và đường Turc, ta quẹo phải vào đường Turc và đi đến hết
đường thì sẽ thấy “Hotel de l’Univers” ở bên phải, số 3 rue
Turc, cạnh quảng trường Rigault de Genouilly (quảng trường Mê Linh). Quang cảnh
ở quảng trường này đầu thế kỷ 20 như trong hình sau (hình 7)
Hình 7: Carte postale
trong bộ sưu tập của nhà thương mại Poujade de Ladevèze – Tượng kim tự tháp
tưởng niệm Douard de Lagrée và tượng Rigault de Genouilly nhìn từ đường Paul
Blanchy (Hai Bà Trưng). Trong hình, nếu ở đường Paul Blanchy ta quẹo phải
khoảng 30m thì sẽ đến khách sạn “Hotel de l’Univers” trên góc
đường Turc và Vannier và cơ sở thương mại của ông Poujade de Ladevèze ở đầu
đường Vannier (7 rue Vannier, niên giám 1909) cạnh khách sạn.
Hai nhà thương mại
xuất nhập khẩu Henri Blanc và P. Hauff cũng biên tập và in các “carte postale”
ký hiệu “en nuage” in các hình ảnh chụp trên khắp Đông Dương,
và các hình ảnh chụp ở Trung Hoa: phần lớn các ảnh này nằm trong bộ sưu
tập “Collection Phénix” (vers 1907), số còn lại trong bộ sưu
tập “Collection Sylvia” (xem phụ lục 3 về các nhà nhiếp ảnh ở
Saigon). Sau này vào thập niên 1930, số 24 đường Catinat là tiệm ông J. Aspar,
người in quyển sách chỉ dẫn về đường phố, sinh hoạt ở Saigon, quyển “Guide
pratiques” in năm 1934.
Bây giờ từ ngã ba
Catinat và rue Turc nơi cửa hàng bách hóa “Motte et Cie”, chúng ta
đi lên về hướng nhà hát thành phố, sẽ gặp tiệm nữ trang, bán súng đạn đi săn
(bijoutier, Noel, armurier) của ông Cafford ở số 32-36 Catinat (theo niên giám
1910, 1911) mà trước đó (1909) là tiệm nữ trang (bijoutier) của ông bà Fernand
Michel. Sau này vào thập niên 1950-1960, tiệm bán nữ trang, súng đạn Cafford
chuyển về ở góc đường Tự Do và Nguyễn Thiệp, đối diện với quán café Brodard.
Kế tiệm nữ trang
Cafford là tiệm thịt nổi tiếng và lâu đời nhất ở đường Catinat: tiệm thịt “Boucher,
charcutier A. Guyonnet” số 38-40 Rue Catinat.
Hình 8: Rue Catinat
vào năm 1950 (café Brodard nằm ở góc Nguyễn Thiệp và Đồng Khởi ngày nay). Tiệm
bán thịt A. Guyonnet ở số 121 rue Catinat, gần Brodard (131 Đồng Khởi).
Tiệm của ông Guyonnet
trước kia ở số 48 Catinat (theo niên giám 1908 và 1916, ông Guyonnet hành nghề“boulangerie,
charcuterie, boucherie, fruits primeurs”). Sau đó tiệm chuyển đến số 38-40
rue Catinat (niên giám 1925 và niên giám 1933-1934 đề tựa “Frigorifique
de l’alimentation, alimentation generale, R.C Saigon no. 501”). Và cuối
cùng ở thập niên 1950 th́ì chuyển đến số 121 rue Catinat. Ông Alban Guyonnet
(cùng thời với công ty tiệm cầm đồ Ogliastro-Hui Bon Hoa) là hội
viên Phòng thương mại (niên giám 1933-34).
Tiếp tục đi, ta sẽ đến
tiệm sách lớn “Librairie des Écoles” cho học sinh của ông bà
Léon Rousseau ở số 64-72 Catinat (1910, 1918).
Đi lên một chút nữa ta
sẽ đến một ngã tư thứ hai: đó là ngã tư rue Catinat và rue d’Ormay (13) (Mạc
Thị Bưởi ngày nay). Ngay ở góc đường Catinat và rue d’Ormay là nhà in “Imprimerie
commerciale”: địa chỉ “74-86 Catinat, M. Rey (Marcelin) imprimerie
commerciale” và “60-64 d’Ormay, Rey Imprimerie commerciale
depot”. Nhà sách và nhà in của ông Marcelin Rey in đủ các loại sách, các
quảng cáo thương mại kể cả các sách viết bằng chữ Quốc ngữ, chữ Hán và chữ
Khmer.
Nếu ta quẹo trái đi
vào đường d’Ormay về hướng đại lộ Charner, gần góc đường d’Ormay và đại
lộ Charner, số 63 rue d’Ormay là tòa nhà cơ sở điện ảnh (cinematographe) của
công ty điện ảnh “Pathé frères” do ông Lebreton làm giám đốc
(niên giám 1910). Sau này ở noi đây, ông Louvet (nhà quay phim, cinematographe)
làm nơi chiếu phim. Một nơi giải trí rất được ưa chuộng vào ban đêm, trước khi
có rạp Eden (đường Catinat) và rạp Casino (đường Bonnard) sau này.
Qua đường d’Ormay,
theo niên giám 1909, 1910, 1911 thì số 88 Catinat là tiệm thịt (charcutier) của
ông J. Martinon, và từ số 90 đến 94 Catinat là tiệm tạp hóa, trái cây, kim,
chỉ, nút quần áo (epicerie-mercerie) của ông A-Koune (người Hoa còn có tên là
Huynh-Can theo niên giám 1890). Năm 1912 thì ông J. Martinon dời tiệm thịt đến
số 116 Catinat. Quay đầu về hướng ta đã đi qua, ta sẽ thấy phía bên kia đường
là tòa nhà góc đường Catinat và d’Ormay ở số 25-27 Catinat của ông Lacaze (3) như
trong hình dưới đây (hình 9).
Hình 9: Đường Catinat,
bên phải có lẽ là văn phòng nhà in báo Impartial (14).
Bên phải là đường d’Ormay. Hình chụp về phía bến Bạch Đằng, khoảng thời gian
cuối thập niên 1920 hay đầu 1930s. Đây là hình trong bộ sưu tập của nhà nhiếp
ảnh F. Nadal. Để ý hai cột đèn nối nhau ở giữa đường. Điện thắp sáng Saigon bắt
đầu từ năm 1896, từ nhà máy phát điện đầu tiên ở vị trí sau Nhà hát thành phố
trên đường Paul Blanchy (Hai Bà Trưng ngày nay). Sau đó đầu thập niên 1910 thì
nhà máy điện nhà đèn Chợ Quán được xây và đưa vào hoạt động cung cấp cho toàn
cả Saigon và Chợ Lớn. Nhà máy phát điện cũ, sau nhà hát thành phố, trở thành
trạm phụ (sub-station) biến thế cung cấp từ nhà đèn Chợ Quán.
Đi lên nữa, ta sẽ đến
ngã ba đường Catinat và đường Amiral Dupré (15) (góc Đồng
Khởi và Đông Du ngày nay). Theo niên giám 1909, số 49-55 đường Amiral Dupré là
tiệm làm bánh mì (boulangerie) của bà Soundan, sau này trở thành nhà hàng
(1910, 1911, 1912). Đây chính là quán café, hộp đêm và vũ trường “Croix
du Sud” hay Tự Do sau này ở thập niên 1950-1970.
Bên kia đường Amiral
Dupré là cửa hàng bách hóa Courtinat, cửa hàng bách hóa đầu tiên ở Saigon thành
lập ít nhất từ năm 1890 (theo niên giám Đông Dương 1890). Công ty “A.
Courtenat et Cie” hay Bazar Saigonnais (niên giám
1911). Địa chỉ số 96 đến 106 rue Catinat, và số 95 Rue Catinat (magasins de
nouveautes).
Hình 10: Bộ sưu tập
Nadal – Cửa hàng bách hóa A. Courtenat số 96-106 rue Catinat và 48 Amiral Dupré
(bên phải hình). Trên tòa nhà phía đường Dupré có đề chữ “A. Courtenat
Cie, nouveauté” (bazar). Công ty có văn phòng ở Lyon, buôn bán cửa
hàng dầu thơm, nước hoa, máy may, cung cấp dụng cụ điện và dịch vụ gắn điện…
Ngoài ra công ty Courtenat còn có cửa hàng ở Rue Amiral Dupré (nay là đường
Đông Du) số 19, 21, 23 etc. (Loueurs en garni), và số 48 Amiral Dupré (bazar de
nouveautés)
Ông Auguste Courtinat
bắt đầu buôn bán ở Saigon it nhất là từ năm 1890 khi ông có tên trong niên giám
Đông Dương (“Annuaire générale de l’Indochine”). Trong niên giám năm
1900 ông là hội viên Phòng thương mại Saigon (“Chambre commerce de Saigon”).
Ông là người cùng thời với ông Paul Blanchy (thị trưởng Saigon 1895-1901), và
ông Holbé (dược sĩ và nhà sưu tầm khảo cổ học).
Ngoài ra công ty “Courtenat
et Cie” còn có đất canh tác ở Vị Thủy (Rạch Giá) (theo niên giám
1917).
Bên kia đường, số 89
Catinat là tiệm thuốc tây của ông Molinier (1905, 1906, 1907-1911). Theo niên
giám 1912, số 95 là trụ sở của Hội Âm thanh Viễn Đông (Société phonique
d’Extrême-Orient), mà các năm trước đó là tiệm đổi tiền của người Ấn. Theo
niên giám Đông Dương từ 1906 đến 1910, thì ông F. Coudurier và Montégout là chủ
nhà sách và nhà in (imprimeurs libraries) ở số 119 đến 129 Catinat. Trước đó
vào năm 1905, thì cơ sở in và nhà sách này vẫn còn là của công ty của ông
Claude (“Claude et Cie.”). Năm 1906, nhà in “Coudurier et
Montégout” in cuốn sách hướng dẫn về Saigon “Saïgon-Souvenir “
của L. I. (8). Cuốn sách này rất có ích cho những ai muốn tìm hiểu về sinh hoạt
Saigon đầu thế kỷ 20. Sau đó, theo niên giám 1912, thì ông Portail thay
thế ông F. Coudurier và ông Montégout (“ancienne maison Coudurier et
Montégout”). Đến năm 1924 thì ông A. Portail dời đến số 171-173-175 rue
Catinat. Đây chính là tiền thân của nhà sách Xuân Thu ngày nay. Nhà in của ông
Portail đã in nhiều sách của các tác giả sống ở Saigon, như quyển tiểu
thuyết “L’Âme de Cochinchine” của Albert Viviès, và các Niên
giám Đông Dương như niên giám các năm 1933, 1934.
Hình 11: Bộ sưu tập
Nadal – Pharmacie Normale 123 rue Catinat (theo Guide pratiques, 1934).
Khoảng thập niên 1920 (theo sư hiện diên của các xe hơi trong hình). Theo niên
giám 1922, L. Sarreau (pharmacien) có tiệm thuốc ở số 119 rue Catinat (ancienne
maison Bérenguier, Molinier, de Mari). Hình chụp từ trước tòa nhà
Courtenay et Cie. hướng về quảng trường nhà hát thành phố. Góc đường giữa hình
gần 2 xe đậu song nhau là đường Carabelli (Nguyễn Thiệp sau này). Xem bức hình
này với hình chụp năm 1950 (hình 8) trong đó có cửa tiệm A. Guyonnet ở số 121
rue Catinat, thì ta thấy tòa nhà “Pharmacie Normale” gần như
không thay đổi (16).
Kế cửa hàng bách
hóa “Courtenat et Cie.” là tiệm đồng hồ, nữ trang, in khắc
(horloger, bijoutier, graveur) của ông Reynault Monnier ở số 108-110. Đi lên
nữa về hướng Nhà hát thành phố, ta sẽ gặp tiệm nón và giày (chapellerie et
chaussures) của ông Canavaggio ở số 118-120 Catinat. Chính nơi này đầu thập
niên 1920 là nơi nhà nhiếp ảnh Ả Rập Fernand Nadal có tiệm nhiếp ảnh và buôn
bán dụng cụ nhiếp ảnh. Ông Nadal đã để lại các hình ảnh và các bộ sưu tập quý
giá về Saigon.
“Nam Kỳ nhơn vật
diễn ca” (1906) đã tả cảnh khu giữa gần nhà hát thành phố đường Catinat nơi
có nhiều cửa hàng người Pháp như sau:
..Những đồ Đại Pháp, Huê Kỳ
Ăng-lê, Nhựt Bổn món gì cũng sang
Hàng Tây các sấp nhẩy tràn
Xiêm, Miên, Bắc thảo đồ đoàn bố vi
Số 128 là tiệm của bà
Wirth ở (1907, 1908, 1909), một nhà buôn bán tạp hóa. Tiệm tạp hóa của bà Wirth
trước đó ở số 120 Catinat (1905, 1906). Ngoài bán hàng, bà Wirth còn sản xuất
và thương mại các ảnh “cartes postales” từ cuối thế kỷ 19 với
các ảnh xưa ở Saigon, quí hiếm trong giai doạn đó cho đến đầu thế kỷ 20. Tiệm
bà Wirth cạnh ngay khách sạn và quán “Café de la Terrace” nổi
tiếng của ông Bénard (1909, 1910, 1912) ở địa chỉ 130 Catinat, ngay góc đường
Catinat và quảng trường Francis Garnier. Sau này số 128 Catinat là tiệm nữ
trang “Bijouterie Parisienne” (1910, 1911) và năm 1912 do
Guintoli và Bardotti làm sở hữu chủ, thì tiệm nữ trang dời tới địa chỉ 130
Catinat, ngay ở địa điểm của quán “Café de la Terrace”.
Bây giờ trước khi đi
đến quảng trường Francis Garnier, ta hãy nhìn lại đoạn đường vừa đi qua. Ta sẽ
thấy cảnh quang giống như hình dưới đây (hình 12)
Hình 12: Bộ sưu tập
Nadal – Đường bên phải là Carabelli chứ không phải Garabaldy như trong hình
(Carabelli là tên của ông thị trưởng người gốc Corse của thành phố Saigon vào
cuối thế kỷ 19, rue Carabelli là đường Nguyễn Thiệp ngày nay). Tòa nhà ngay góc
đường, 141-143 Catinat và 2 Carabelli, là quán “Café de l’Union” của
bà Aymés. Cũng tại quán Café này là trụ sở “Amicale Bretonne” (Hội
ái hữu Bretonne). Sau này là tiệm café Brodard, Gloria Jeans (131 Đồng Khởi).
Cạnh “Café de l’Union”, số 131 đến 139 Catinat là tòa nhà của ông
Lorin (1912), Flarin (1910), O. Sammarcelli (1909), với hai tiệm đổi tiền của
hai người Ấn (Theo niên giám 1909, 1910, 1912, Va. Mougamadoucharif số 131
và Mougamadoumeinedine số 139, hai người Ấn này có thể mướn hai địa chỉ
này). Trên đường Carabelli, thì số 1 Carabelli là hội “Amicale Corse”,
nơi những người gốc Corse hội họp. Ảnh chụp về hướng bến Bạch Đằng. Để ý cạnh
tòa nhà số 131-139 và 141-143, là tòa nhà “Pharmacie Normale”.
Từ “Café de
l’Union” đi qua đường Carabelli là tiệm thuốc tây của ông Trombetta ở
số 145-147. Đi lên chút nửa, 149-151, là tiệm tóc “Lavatory Saigonnais” của
ông Hombert và khách sạn “Hôtel de France” như hình dưới đây
(hình 13).
Hình 13: Hình này
trong bộ album hình sưu tập của P. Dieulefils (hình chụp khoảng trước năm
1900). Bên trái hình là khách sạn “Grand Hotel de France” (157
rue Catinat theo niên giám 1905-1906 do bà Dabène làm chủ, 159bisrue
Catinat theo niên giám 1907-1911, 157bis 1er étage
theo niên giám 1912). Tòa nhà bên phải là “Café de la Terrace” và
khách sạn (ngày nay là khách sạn Caravelle). Hình chụp vào đầu thế kỷ 20 (đầu
thập niên 1900). Bức hình này tương tự như ảnh carte postale trong collection
Poujade de Ladeveze. Hình chụp về phía quảng trường Nhà hát thành phố (“Place
Francis Garnier” hay “Place de Theatre”) và nhà thờ Đức
Bà. Trên đường chưa có xe hơi, như vậy là hình chụp trước ít nhất khoảng năm
1910. Hình chụp cho thấy khách sạn “Grand Hotel de France” chưa
đổi đến góc đường ở số 159bis, như vậy hình chụp khoảng năm
1905-1906 hay trước đó.
Góc đường Catinat và
đại lộ Bonnard, số 159bis cũng là địa chỉ của công ty “Compagnie
Générale exportation”(1907-1912), nơi nhà thương gia Edouard Tréfaut và kế
toán Gaston Phélyzon trú ngụ. Số 159 là tiệm đổi tiền của người Ấn,
Condassamy (1907-1911). kế bên ở số 157bis là tiệm tạp hóa và
quần áo (epicerie et mercerie) của Hoa kiều có tên Soa-a-Pan, Sina et
Cie (niên giám 1907-1912). Cùng địa chỉ 157bis năm
1910 là tiệm mức kẹo (confiseur) của ông Marius Rousseng và tiệm đổi tiền của
N. Labigang (niên giám 1910-1912). Đến năm 1922, theo niên giám Đông Dương, thì
157bis vần là của N. Labigang (“Maison Rousseng, Pâtisseur –
Confiseur – Chocolatier”).
Số 157 là tiệm đổi
tiền của người Ấn (1907-1912), tòa nhà trước đó là khách sạn “Hôtel de
France” (1905-1906). Sau này vào năm 1922, số 157 Catinat (theo niên
giám 1922) là “Imprimerie Librairie de l’Union” của ông Nguyễn
Văn Của mà ông G. Durrwell, một nhà nghiên cứu văn hóa, là người có trách nhiệm
về luật pháp (fondé de pouvoir). Theo Vương Hồng Sển (10) nhà in này
trước đó là của ông Đinh Thái Sơn, sau chuyển nhượng lại cho ông Nguyễn Văn Của
vào năm 1918. Ông Durrwell cũng là chủ tịch “Hội Nghiên cứu Đông Dương” (“Société
des Etudes Indochinoises”). Nhà in của ông Của đã có in các tập san nghiên
cứu của hội Nghiên cứu Đông Dương.
Ngoài ra nhà in “Imprimerie
de l”Union” (157 Catinat) đã in các tác phẩm của nhà văn Hồ Biểu
Chánh, Lề Hoàng Mưu và các quyển sách nghiên cứu có giá trị như “Notice
historique, administrative et politique sur la ville de Saïgon” năm 1917 về
lịch sử thành phố Saigon, và nguồn gốc các tên đường dưới sự hướng dẫn của thư
ký tòa thị sảnh thành phố (9), quyển “Recueil de Morale Annamite par Yên Sa
Diệp Văn Cương” năm 1917, quyển“Monographie de la province de Bac Lieu,
par Louis Girerd” in năm 1925, quyển “La pagode des clochetons et
la pagode Barbé, contribution à l’histoire Saigon-Cholon par P. Midan” in
năm 1934 ở nhà in “Imprimerie de l’Union”(57 rue Lucien Mossard).
Bây giờ ta đứng ở
tiệm “Café de la Terrace” mà trên lầu là khách san. Đây là
giao điểm của đường Catinat với quảng trường Francis Garnier (hay quảng trường
nhà hát thành phố), “Café de la Terrace” ngày nay là khách sạn
Caravelle (đặt theo tên một loại máy bay của hảng hàng không Air France, hảng
này có văn phòng ở tầng trệt của khách sạn). Nhìn về phía tay phải của
quảng trường, ta sẽ thấy nhà hát thành phố, được xây vào cuối thế kỷ 19 và hoàn
thành vào năm 1900, năm đầu của thế kỷ 20.
Chú thích:
(9) Nguyễn Liên Phong tác giả “Nam kỳ
phong tục nhơn vật diễn ca” xuất bản tại Sài Gòn năm 1909, sách mô tả
cuộc sống ở Lục tỉnh và các nhân vật tiếng tăm (đa số thân Pháp) vào cuối thế
kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20. Sách có nhiều tư liệu có giá trị về sinh hoạt xã hội,
phong tục tập quán vào cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 ở khắp lục tỉnh Nam Kỳ.
(10) Theo Vương Hồng Sển thì tầng dưới cửa
tiệm là do em gái của Nguyễn An Khương (tức cô của Nguyễn An Ninh) trông coi
cửa hàng may mặc trong khi trên lầu là khách sạn có các phòng cho mướn. Cũng
tương tự như nhà in “Imprimerie de l’Union” của Nguyễn Văn
Của, dưới làm nhà sách, trên lầu là cho người mướn ở.
(11) Xem phụ lục 4 về quảng cáo tiệm “Viên
An” bán xe đạp có đề cập đến tiệm Mottet, trên báo “L’Ère
Nouvelle”.
(12) Ông Louis Ogliastro, người Pháp gốc
Corse, là một trong những doanh nhân có thế lực ở Saigon trong những năm đầu
người Pháp hiện diện ở Nam Kỳ. Cũng như các doanh nhân người Hoa như Vạn-Hòa
(Ban-hap), Vương Thái (Wangtai), ông là hội viên của Phòng Thương mại (Chambre
de Commerce) Saigon như trong niên giám Nam Kỳ 1885, 1887 cho biết (18). Lúc
đầu, ông có cơ sở thương mại trồng tiêu ở Hà Tiên (1876). Ông là đại diện lãnh
sự Ý ở Saigon từ năm 1887, giám đốc công ty “Société Générale de Tramways à
vapeur” và chủ công ty cầm đồ (mont-de-piété) “Ogliastro et
Cie.” ở số “50 Quai de l’Arroyo Chinois” (“quai de Belgique”, Bến
Chương Dương ngày nay). Sau này trong thập niên 1930, công ty cầm đồ “Ogliastro
et Cie.” hợp tác với công ty cầm đồ của ông Hui Bon-Hoa (chú Hỏa)
thành công ty “Ogliastro, Hui Bon Hoa et Cie.” có trụ sở ở số
66 rue d’Alsace Lorraine (Phó Đức Chính ngày nay).
(13) Ormay là tên một bác sĩ quân y người
Pháp sống ở Saigon vào cuối thế kỷ 19. Ông thường khuyên các bệnh nhân nên theo
sự chỉ dẫn điều trị của ông, nếu không (như ông nói đùa) là sẽ bị chuyển
xuống “Jardin d’Ormay”(tức là nghĩa địa Mạc Đỉnh Chi, nay là công
viên Lê Văn Tám) sớm.
(14) Địa chỉ các tờ báo ở Saigon thay đổi rất
nhiều tùy qua sự thay đổi sở hữu chủ của tờ báo. Theo “Guide pratiques” (1934),
địa chỉ các báo là: “L’Impartial” 64 rue Catinat, “La
Dépêche” 25 rue Catinat, “L’Opinion” 146 rue
Pellerin, “La Tribune indochinoise” 72 Lagrandière, “L’Alerte”
201 rue Fr. Louis, “La Presse indochinoise” 16 rue
Colombert, “Le Populaire d’Indochine” 100 rue
Lagrandière, “L’Annam” 73 rue Mac-Mahon.
Niên giám 1908 cho các
thông tin và các địa chỉ báo chí ở Saigon: “Luc Tinh Tan Van,
hebdomadiare 6 rue Krantz – Pierre Jeantet redacteur en chef”, “Nông
Cổ Mín Đàm, hebdomadaire. G. Chieu redacteur en chef”, “Moniteur
des provinces, hebdomadaire, langue Annamite, G. Garros directeur”, “L’Opinion,
quotient independant 12e année (ancienne Semaine colonial), 13 et 15 rue
Catinat”.
Sau này theo niên giám
1922, báo “l’Opinion” ở địa chỉ 146 rue Pellerin với “Lucien
Héloury propietaire-directeur politique, Pierre Jeantet redacteur en chef,
Albert Oudot administrateur, M. Agier, I. Isidore redacteurs”, “Courrier
Saigonnais” 19e année (ancient “Courrier de Saigon”): “paraissant
les lundi, mercredi, vendredi et samedi; J Ferriere Directeur, G. Moullet
secretaire de redaction”.
Niên giám 1925:
“L’Impartial” 25-27 Catinat (theo niên giám 1909, 1910, 1911, 1912 thì số 17-25
Catinat là cơ sở buôn bán của ông Lacaze, và theo niên giám 1909, 1910, 1911
thì số 29 Catinat là tiệm in và đóng sách (imprimerie-reliure ) của Hoa kiều
Ki-Cheong, và niên giám 1912 thì nơi này trở thành cơ sở in ấn và đóng sách“Nam-Tai
imprimerie-reliure”). Báo “L’Impartial” hiện diện bắt đầu
từ năm 1917 cho đến năm 1934 (19). Tờ báo“L’Opinion” và “Cong
Luan Bao” ở số 146 rue Pellerin (nay là đường Pasteur) và số 71
Catinat (theo niên giám 1909, 1910 thì số 65-77 Catinat là của ông Felix
Delost, “maison Graf-Jacques et Cie”, một công ty nhập khẩu các đồ
kim loại và có cơ xưởng cơ khí kim loại ở “quai de Khanh Hoi”, tức
bến Vân Đồn ngày nay).
Nhà in người Việt đầu
tiên là của ông Đinh Thái Sơn, tự Phát Toán hay Nguyễn Văn Toán, ở số 55-57 rue
d’Ormay. Niên giám Đông Dương 1909 ghi “55-57. Nguyen-van-Toan,
relieur” và niên giám năm 1910 ghi “55 et 57. Phat-Toan,
imprimeur”. Ông Đinh Thái Sơn là người công giáo, trước đó đã làm phụ in
các sách quốc ngữ tại nhà in giáo sứ Tân Định. Nhà in Phát Toán số 55-57 đường
Ormay in, bán sách và bán xe máy (xe đạp). Nhà in Phát Toán đã in quyển “Nam
kỳ phong tục nhơn vật diễn ca” của Nguyễn Liên Phong vào năm 1909.
(15) Amiral Dupré là đề đốc Pháp, làm Thống
đốc Nam Kỳ từ 1871-1874, kế nhiệm thống đốc Nam Kỳ Amiral de La Grandière, sau
hai thống đốc tạm thời là Amiral Ohier và Amiral Cornulier-Lucinière. Thống đốc
Dupré là người bắt đầu sự can thiệp của Pháp vào Bắc kỳ, mà cao điểm là gởi
Francis Garnier, một sĩ quan trẻ, phiêu lưu mạo hiểm đánh thành Hà Nội. Đề đốc
hải quân cuối cùng làm thống đốc Nam Kỳ là Amiral Lafont (1877-1879). Sau đề
đốc Lafont là thống đốc dân sự đầu tiên, ông Le Myre de Villers, chính thức
chấm dứt thời đại ”amiraux gouverneurs” (đề đốc làm thống đốc)
của Hải quân Pháp, chủ lực trong quân đoàn viễn chinh Pháp ở Việt Nam vào thế
kỷ 19.
(16) Ngoài “Pharmacie Normale” còn
có các tiệm thuốc tây “Pharmacie Solirène” 169 rue
Catinat, “Pharmacie Centrale” 197 rue Catinat, “Pharmacie
de l’Indochine” 134 rue d’Espagne. Theo niên giám Đông Dương 1908,
1909, 1910, “Pharmacie Holbé” (của ông Holbé mà sau này cũng
là chủ “Pharmacie Solirène”) ở số 20-22 rue Catinat, tức là ở gần
công ty “Mottet et Cie.” số 24-30 rue Catinat (bên kia đường
Turc) và “Grande Pharmacie Indochinoise” của ông Trombetta ở
số 143-147 rue Catinat.
Tham khảo
(1) Annuaire général
de l’Indo-Chine française ["puis" de l'Indochine], Publisher: F.-H.
Schneider (Hanoi) 1906, 1907, 1908, 1909, 1910, 1911, 1912, 1914, 1922, 1925
(2) L. Lacroix-Sommé,
R. J. Dickson et A. J. Burtschy, Annuaire complet (européen et indigène) de
toute l’Indochine, commerce, industrie, plantations, mines, adresses
particulières…: Indochine, adresses, 1ère année 1933-1934, A. Portail
(Saigon), 1933
(3) Guide pratique,
renseignements et adresses. Saïgon, J. Aspar (24 rue Catinat Saïgon), 1934.
(4) Huỳnh Ngọc Tráng,
Trương Ngọc Tường, Phạm Thiếu Hương, Nguyễn Đại Phúc, Đỗ Văn Anh, Saigon-Gia
Định xưa, Tư liệu & Hình Ảnh, Nxb Tp Hồ Chí Minh, 1996.
(5) Annuaire de
Cochinchine Française pour l’ année 1887, Saigon, Imprimerie Coloniale 1887.
(6) L’Ère Nouvelle,
28/8/1926, 11/01/1927, 28/2/1928
(7) Arthur Delteil, Un
an de séjour en Cochinchine: guide du voyageur à Saïgon, Challamel aîné
(Paris), 1887.
(8) L. I.,
Saïgon-Souvenir, petit guide saigonnais à l’usage des passagers des débutants
dans la colonie, Coudurier et Montégout (Saïgon), 1906.
(9) Notice historique,
administrative et politique sur la ville de Saïgon. Publiée par les soins du
secrétaire général de la mairie, Impr. de l’Union (Saïgon), 1917
(10) Vương Hồng Sển,
Saigon năm xưa, 1992, Nxb Trẻ.
(11) Các hình ảnh
từ belleindochine.free.fr, http://www.delcampe.net vàhttp://www.flickr.com/photos/13476480@N07/sets/
(12) Nguyễn Liên
Phong, Nam Kỳ nhơn vật diễn ca, quyển 1:www.archive.org/details/NamKyPhongTucNhonVatDienCa và
quyển 2:http://www.archive.org/details/NamKyPhongTucNhonVatDienCa2
(13) Christopher
Goscha, ‘The modern barbarian’: Nguyen Van Vinh and the complexity of colonial
modernity in Vietnam, European J. of East Asian Studies, 2004, Vol.
3, no. 1, pp. 135-169.
(14) Joseph Ferrière,
Georges Garros, Alfred Meynard, Alfred Raquez, L’ Indo-Chine 1906, publíé sous
les auspices du Gouvernement général de l’Indo-Chine, 1906.
(15) Annuaire de
l’Indo-Chine française, première partie: Cochinchine, Imprimerie Coloniale,
Saigon, 1897.
(16) Emile Jottrand,
Saigon et Cholen, opinions et souvenirs, La Vie coloniale: revue de la
colonisation, du commerce et de l’industrie, No. 78 1/3/1909, pp. 47-48, No.
79, 1/4/1909 pp. 65-66.
(17) Louise
Bourbonnaud , Les Indes et l’Extrême-Orient, impressions de voyage d’une
Parisienne, Paris, 1889,http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k5684832m/f178.tableDesMatieres
(18) Annuaire de la
Cochinchine pour l’année 1876 (1879, 1880, 1881, 1885, 1887), Imprimerie du
Gouvernement (Coloniale), Saigon, 1876 (1879, 1880, 1881, 1885, 1887).
(19) Xavier Guillaume,
La Terre du Dragon Tome 1, Publibook, Paris, 2004.
(20) Antoine Brébion,
Dictionnaire de bio-bibliographie générale, ancienne et moderne de l’Indochine
française, publié après la mort de l’auteur par Antoine Cabaton, 1935.
(21) Vương Hồng Sển,
Saigon Tạp Pín Lù, Nxb Văn Hóa-Thông Tin, 1997.
(22) Horace Fabiani,
Souvenirs d’Algérie et d’Orient, E. Dentu (Paris), 1878.
(23) Christina Firpo,
personal communication.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét